Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Mô hình tính phí nước bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.53 KB, 96 trang )

Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Lời mởđầu
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển như vũ bão, đòi hỏi sự
lỗ lực vươn lên không ngừng của các nước kém phát triển để bắt kịp nhịp độ
phát triển chung của thế giới. Trên thực tếđã cho thấy rằng cùng với sự nỗ
lực phát triển kinh tế là vấn đề môi trường đãđên mức báo động, đặc biệt làở
các nước nghèo. Tại các nước này để phát triển kinh tế họđã vàđang xâm
phạm sâu sắc đến môi trường tự nhiên bắt nguồn từ các hoạt đồn khai thác
tài nguyên quá mức, động thời xả thải vào môi trường một lượng lớn chất
thải ít hoặc không hềđược qua một khâu xử lý nào. Đứng trước tình trạng
đóđòi hỏi chúng ta phải có những công cụ và biện pháp hữu hiệu để làm
giảm bớt các tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái và môi trường sống
của con người. Trong thực tiễn cho thấy rằng các công cụ kinh tế là một
trong các công cụ hữu hiệu nhất đãđược các nước phát triển áp dụng và thu
được hiệu quả cao trong quản lý môi trường.
Ở Việt Nam hiện nay có thể nói rằng vấn đề môi trường đã là một vấn
đề thời sự nóng bỏng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước.
Ngày nay cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu đòi hỏi chúng
ta phải có những lỗi lực phát triển, để nhanh chóng thoát ra khỏi đói nghèo,
đưa nền kinh tế bắt kịp mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Tuy nhiên
cùng với những lỗi lực phát triển ấy là vấn đề môi trường đang bịđe doạ
nghiêm trọng, lợi ích kinh tếđã làm lu mờđi ý thức bảo vệ môi trướng đặc
biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Đã gây lên những mâu
thuẫn gay gắt trên con đường phát triển của đất nước, giữa bảo vệ môi
trường và phát triển kinh tế. Trong đó hàng loạt các vấn đề môi trường đặt ra
như: sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, tình trạng xả thải trực tiếp không qua xử
lý, sự suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường nước và môi trường
không khí….đã có những ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt
của đời sống kinh tế xã hội. Đứng trước những thách thức đóđòi hỏi toàn
Chuyên đề tốt nghiệp
1


Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Đảng, toàn dân ta phải có những biện pháp quản lý thích hợp để dung hoà
giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong đó công cụ kinh tếđã bắt
đầu được quan tâm áp dụng trong quản lý môi trường bước đầu áp dụng đã
mang lại những kết quả nhất định. Trong các biện pháp kinh tếđang được áp
dụng ở Việt Nam thì phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp
đãđược triển khai áp dụng trong hai năm trở lại đây đã thu được nhiều kết
quả trong quản lý giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên việc tính phí
nước thải công nghiệp hiện nay ở Việt Nam còn ở mức độ sơ khai nên chưa
phát huy được hết hiệu quả của nó. Trong việc tính và thu phí còn nhiều bất
cập. Chính vì thế tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là:”Mô hình tính phí nước
bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may
trên địa bàn thành phố Hà Nội.”
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi tập trung đi sâu vào nghiên
cứu xây dựng lại công thức tính phí nước thải công nghiệp và tính phí thử
cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội.Đề tài nghiên cứu
gồm ba chương:
chương I: Cơ sở lý luận chung của việc áp dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường.
Chương II: Hiện trạng môi trường nước thải công nghiệp trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Chương III: Mô hình tính phí nước thải công nghiệp cho một số cơ sở
dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra.
Phương pháp mô hình hoá
Phương pháp phân tích số liệu.
Chuyên đề tốt nghiệp
2
Phan văn Trung Lớp:KTMT44

CHƯƠNG I:
CƠSỞLÝLUẬNCHUNGCỦAVIỆCÁPDỤNGCÁCCÔNGCỤKINHTẾT
RONGQUẢNLÝMÔITRƯỜNG.
I. Tổng quan về các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
I.1. Các nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng các công cụ kinh tế.
I.1.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền ( PPP)
Đây là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất để làm căn cứ khoa
học cho việc thiết lập các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, được các
nước thành viên của tổ chức các nước kinh tế phát triển OECD đưa ra vàđược
chấp nhận từ những năm 1970. Theo nguyên tắc người gâp ra ô nhiễm phải
trả tiền ( PPP) quy định rằng: Những người gây ra ô nhiễm môi trường phải
chịu trách nhiệm về tài chính đối với hậu quả môi trường mà các hoạt động
của mình gây ra ( kể cả các hoạt động đó là hợp pháp hay không hợp pháp ).
Cũng theo nguyên tắc PPP thì chính phủ sẽ không được tài trợ cho các vấn đề
xử lýô nhiễm môi trường, vì nếu Chính phủ trợ cấp sẽ làm tăng việc gây ô
nhiễm của các chủ thể hoạt động, mà người gây ô nhiễm phải đóng góp tài
chính ( có thể là tiền phí hoặc tiền thuế ) cho chính quyền, số tiền đó sẽđược
đưa vào quỹ bảo vệ môi trường và nó sẽđược tái đầu tư cho các công trình
môi trường nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Một khi các chủ thể hoạt động phải
đóng gáp tài chính như vậy họ sẽ phải cân nhắc giữa lợi ích và chi phíđể
tứđóđiều chỉnh hành vi hoạt động của mình là có tiếp tục xả thải ra môi
trường không qua xử lý và chụi đóng góp tài chính hay làđầu tư một công
nghệ xử lý trước khi xả thải và không phài đóng góp tài chính. Chính vì vậy
mà mức đóng góp ( trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm ) ởđây phải được xác
định đúng với giá trị lợi ích thu lại của môi trường hay nói cách khác các chi
phí mà họ bỏ ra phải bằng hoặc cao hơn chi phí xử lý hâu quả môi trường do
họ gây ra, có như vậy mới khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế xả thải và
tự nguyện lắp đặt công nghệ xử lý trước khi xả thải.
Chuyên đề tốt nghiệp
3

Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Tuy nhiên nguyên tắc người gây ra ô nhiễm phải trả tiền cũng không
cần thiết phải tạo ra sự công bằng mặc dù nguyên tắc này quy định rằng người
gây ra ô nhiễm phải trả tiền, khi đó các chủ thể gây ra ô nhiễm (doanh nghiệp)
sẽđối phó bằng cách nâng giá sản phẩm lên và họđẩy chi phí phải trả cho vấn
đề môi trường sang người tiêu dùng gánh chịu. Mặt khác nguyên tắc này cũng
không cần thiết quy định nghĩa vụ pháp lý về tài chính và nó cũng không phải
là thuế môi trường - đó là một số mặt hạn chế của nguyên tắc này. Tuy nhiên
nó vẫn được các nước chập nhận rộng rãi là xuất phát từ một lý do kinh tế,
các doanh nghiệp áp dụng biện pháp bảo vệ môi trường thường có chi phí cao
hơn vì gánh chịu chi phí phòng ngừa hoặc chi phí xử lýô nhiễm dẫn tới giá cả
cao hơn đãảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của họ và như
vậy so với các đổi thủ kông áp dụng các biện pháp môi trường hóđã mất đi lợi
thế. Đểđảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp này trong hoạt động
thương mại khối các nước kinh tế phát triển OECD đã thống nhất áp dụng
nguyên tắc này. Và từđó nguyên tắc PPP đã lan truyền vàđược chập nhận
rộng rãi trên toàn cầu. Cho tới nay nó vẫn là một trong những nguyên tắc chủ
yếu cho việc thiết lập các chính sách môi trường của các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là trong khối các nước OECD, thậm chí nguyên tắc này đãđược
đưa vào văn bản pháp quy để thực hiện. Ví dụ tại ThuỵĐiển chính phủ thu
tiền từ các cơ sở công nghiệp không những để trả cho xử lýô nhiễm mà còn
trợ cấp cho công tác quan trắc môi trường.
Đối với các nước đang phát triển, việc áp dụng nguyên tăc PPP gây ra
một số bất lợi về mặt kinh tế. Khi các nước này thực hiện đúng thưo nguyên
tắc PPP sẽ rất khó có thể cạnh tranh với các nước phát triển giàu có và vấn đề
bất công sẽ xảy ra. Tại các nước nghèo họ phải đối mặt với nền kinh tế chậm
phát triển vàđi cùng với nó là vấn nạn môi trường, một mặt cũng do các nước
phát triển đã gây ra qúa nhiều ô nhiễm cho họ thông qua chuyển giao công
nghệ cũ lạc hậu và khai thác tối đa tài nguyên của họ. Đối với các nước giàu
có họ có thừa khả năng chi trả cho môi trường còn đối với các nước nghèo

Chuyên đề tốt nghiệp
4
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
thìhoàn toàn không có khả nằng chi trả, trong khi đó họ phải chịu chi phí cho
việc gây ra ô nhiễm từ các nước giàu.
Chính vì thế khi áp dụng nguyên tắc này cũng có những điều không
hợp lý.Một là khi người giàu gây ra ô nhiễm nhưng lại ép người nghèo phải
chịu chi phí. Hai là có những yếu tố môi trường chúng ta không thể mua được
bằng tiền hoặc việc định giá nó là rất khó khăn, khi đó việc áp dụng nguyên
tắc này sẽ không chính xác trong việc xác định mức phải trả cho chủ thể gây
ra hậu quả môi trường.
Để làm rõ hơn nguyên tắc này ta xét một ví dụ trong thực tiễn ở Việt
Nam, đó là trường hợp xả thải của khu công nghiệp Thượng Đình vào sông
Tô Lịch đã gây ra ô nhiễm nước cho dòng sông gây thiệt hại về kinh tế cho
các họ dân sống hai bên bờ sông Tô Lịch. Như vậy khu công nghiệp Thượng
Đình đã gây ra ô nhiễm môi trường nhưng lại không mất chi phí cho hành vi
gây ô nhiễm của mình. Nếu theo nguyên tắc PPP thì khu công nghiệp Thượng
Đình sẽ phải đền bù thiệt hại cho những hộ dân sống ở hai bên bờ sông hoặc
là sẽ phải lắp đặt một hệ thống xử lý nước thải trước khi xả thải vào dòng
sông hoặc là phải chịu đóng một khoản chi phí cho chính quyền địa phương
để họđầu tư cho các công trình môi trường. Và ta giả sử rằng việc thu phí
nước thải của khu công nghiệp Thượng Đình làđúng với chi phí mà nhà máy
bỏ ra để lắp đặt xử lý nước thải thì khi đó họ sẽđẩy chi phí giá thành sản phẩm
lên cao. Như vậy vô hình chung chi phí cho ô nhiễm này sẽđẩy sang người
tiêu dùng sản phẩm của khu công nghiệp.
1.1.2.Nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền ( BPP)
Nếu như nguyên tắc người gây ra ô nhiễm phải trả tiền đòi hỏi các chủ
thể gây ra ô nhiễm môi trường phải chịu chi phí cho hậu quả môi trường mình
gây ra thì ngược lại nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền lại cho rằng
những người được hưởng lợi từ môi trường phải trả một khoản tiền cho sự

hưởng lợi đó. Ta thấy rằng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền mang
Chuyên đề tốt nghiệp
5
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
tính chất khắc phục, xử lý cuối đường ống hậu quả của chủ thể hoạt động gây
ra ô nhiễm môi trường thì với nguyên tắc BPP lại mang tính chất phòng ngừa
là chính. ởđây người được hưởng thụ môi trường cũng phải trả tiền. Quay trở
lại với ví dụ của khu công nghiệp Thượng Đình đã xả thải gây ra ô nhiễm cho
dòng sông Tô Lịch, theo nguyên tắc người hưởng lợi tử môi trường phải trả
tiền thì những người tiêu thu sản phẩm của khu công nghiệp cũng phải trả một
khoản chi phí cho việc cải thiện môi trường nước sông Tô Lịch, và những
người sống ở hai bên bờ sông cũng phải đóng góp chi phí cho vấn đề xư lýô
nhiễm nước sông.
Thực hiện nguyên tắc BPP trong việc áp dụng các công cụ kinh tế trong
quản lý môi trướng sẽ tạo ra môt khoản thu đáng kể cho quỹảo vệ môi trường.
Với ý thức môi trường ngày càng cao và tốc độô nhiễm môi trường nhanh
chóng hiện nay thì ngày càng có nhiều người muốn hưởng thụ môi trường
trong lành từđó họ sẽ sẵn sàng chấp nhận bỏ ra một khoản chi phí cho việc
hưởng thụđó. Tuy nhiên khi thực hiện nguyên tắc này lại không khuyến khích
được chủ thể hành động có trách nhiệm bảo vệ môi trường trước hành động
của mình, và việc sử dụng nguyên tắc này cũng không được công bằng trong
khi có nhiều người không mong muốn trả tiền cho cải thiện môi trường hoặc
họ không có khả năng chi trả. Nhưng họ lại vẫn được hưởng ngoại ứng tử
việc chi trả của những người sẵn lọng chi trả cho việc hưởng thụ môi trường
của họ. Ví dụ khi chúng ta đến khu du lịch Hạ Long thì phải mua vé vào cửa
và như vậy tức là chúng ta đã trả chi phí cho việc hưởng thụ cảnh quan môi
trường trong lành ở Hạ Long. Với số tiền thu được này các nhà quản lý khu
du lịch Hạ Long sẽ dùng nóđể cải thiện và bảo vệ môi trường khu du lịch
tránh khỏi những ô nhiễm có thể xảy ra. Nhưng một vấn đềđặt ra là những
người sống sở tại họ không hề mất một khoản chi phí nào ( không mất tiền

vé) nhưng họ vẫn được hưởng một bầu không khí trong lành và thưởng ngoạn
cảnh đẹp.
Chuyên đề tốt nghiệp
6
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Trong tương lai nguyên tắc BPP sẽ là một trong những nguyên tắc cơ
bản cho các chính sách bảo vệ môi trường. Vì mục đích cuối cùng của nguyên
tắc này là hướng tới nhằm bảo vệ môi trường nên nó ngày càng được các
nước trên thế giới quan tâm chúý trong công tác quản lý môi trường.
I.2. Các loại công cụ kinh tế trong quản lý môi trường:
Công cụ kinh tế được hiểu là những công cụ chính sách nhằm thay đổi
chi phí và lợi ích của những hành động của chủ thể hoạt động kinh tế thường
xuyên tác động tới môi trường, áp dụng các công cụ kinh tế làm tăng cường ý
thức và trách nhiệm trước việc gây ra ô nhiễm môi trường của các chủ thể
hoạt động. Các công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá
của các hành động làm tổn hại môi trường lên hoặc hạ giá của các hành động
bảo vệ môi trường xuống. Công cụ kinh tế cũng dành khả năng lựa chọn cho
các công ty và các cá nhân ( chủ thể hành động ) tối ưu nhất sao cho phù hợp
với điều kiện của họ.
Công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên nền tảng của các nguyên tắc
PPP và nguyên tắc BPP, kết hợp với các nguyên tắc trong mệnh lệnh và kiểm
soát ( CAC ) , biểu hiện thông qua các quy định của pháp luật. Công cụ kinh
tế được bảo đảm thực hiện bởi tính tự nguỵên và được hỗ trợ thực thi bằng
công cụ pháp lý trong những trường hợp cần thiết. Ví dụ trường hợp áp dụng
mức thuế ưu đãi lãi suất vốn vay đối với các dự án thân thiện với môi trường,
các nhà đầu tư có thể quyết định đầu tư một công nghệ sạch để được hưởng
mức thuế ưu đãi hay là đầu tư một công nghệ bình thường và vay vốn với
mức lãi suất bình thường. Trường hợp khác công cụ kinh tế lại mang tính bắt
buộc và nó gắn với nghĩa vụ pháp lý như trường hợp thuế ô nhiễm môi trường
và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. ở đây các chủ thể hoạt động có xả

thải ra môi trường làm ô nhiễm môi trường sẽ bị cưỡng chế nộp một khoản
chi phí cho cơ quan nhà nứơc theo đúng quy định của pháp luật.
I.2.1. Tại sao phải áp dụng cụng công cụ tế trong quản lý môi
trường:
Chuyên đề tốt nghiệp
7
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Trong lịch sử phát triển kinh tế của toàn cầu đã cho thấy rằng, giữa phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường có mối quan hệ khăng khít gắn bó không
thể tách rời. Hay nói cách khác hệ thống môi trường và hệ thống kinh tế là
hai bộ phận của một thực thể không thể tách rời. Nền kinh tế không thể hoạt
động nếu tách khỏi hệ thống môi trường, hệ thống môi trường đóng vai trò là
đầu vào quan trọng cho quá trình hoạt động sản xuất và nó là nơi tiếp nhận
mọi đầu ra của hệ kinh tế. Mối quan hệ trên được thể hiện qua sơđồ sau:

Trước đây trong quản lý môi trường các nước trên thế giới chỉ sử dụng những
quy định pháp lý để điều chỉnh hành vi liên quan tới môi trường hầu nhưđã
không đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác các tổ chức môi trường
thường xuyên thiếu nguồn ngân sách để hoạt động, cũng như các vấn đề môi
trường đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn đôi khi năng lực tài chính của một
quốc gia cũng không thể đáp ứng được. Mặt khác khi áp dụng các tiêu chuẩn
Chuyên đề tốt nghiệp
Hệ kinh tế
Hãng
Hộ gia đình
Hệ môi trường
( đất, nước, không khí, sinh vật,…)
8
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
pháp lý đơn thuần đôi khi qua cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt trong quản lý

môi trường. Để giải quyết vấn đề này các công cụ kinh tế đã ra đời và được sử
dụng trong quản lý môi trường, bước đầu đã mang lại những kết quả to trong
lỗ lực hạn chế sự ô nhiễm môi trường xuống mức tối đa có thể. Khi áp dụng
các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường làm tăng hiệu quả chi phí , việc
sử dụng giá cả để làm thước đo cho mọi hoạt động liên quan tới môi trường
đã làm cho các công ty tìm kiếm được mức chi phí hiệu quả nhất trong khả
năng lựa chọn của họ.Một điều nữa là khi áp dụng các công cụ kinh tế sẽ
khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới các dây chuyền công nghệ cũ kỹ lạc
hậu bằng các công nghệ thân thiện với môi trường hơn. Các công cụ kinh tế
cũng tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp vì nó giúp doanh
nghiệp tính toán được mức chi phí tối ưu nhất trong việc xử lý ô nhiễm môi
trường.
Trong ngày nay, việc kết hợp giữa các yếu tố pháp lý vào trong các
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã và đang mang lại nhiều hiệu quả
to lớn trên con đường phát triển bền vững của nền kinh tế của các quốc gia
và toàn cầu.
I.2.2. Thuế và phí bảo vệ môi trường:
Tiền thuế và tiền phí là một trong những loại công cụ kinh tế phổ biến
và được áp dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
nói chung và lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung. Thuế và phí môi trường
mang tính pháp lý cao được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Bản chất của
tiền thuế và tiền phí là làm tăng thêm cái giá phải trả co những hoạt động
mà chúng tham gia vào việc cản trở mục tiêu bảo vệ môi trường và thu nhập
của xã hội. Trong tiền thuế và tiền phó có thể chia chi tiết thành các khoản
thuế và phí khác nhau ví dụ: thuế cho sản phẩm đầu vào, thuế cho sản phẩm
đầu ra, thuế đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng….Trong thực tế
thì tiền thuế và tiền phí là hai công cụ kinh tế hữu hiệu nhất trong quản lý
Chuyên đề tốt nghiệp
9
Phan văn Trung Lớp:KTMT44

môi trường. Đồng thời đây cũng là một trong các nguồn thu chủ yếu cho quỹ
ảo vệ môi trường của các quốc gia. Khi các công cụ thuế và phí môi trường
được áp dụng sẽ có hiệu quả răn đe và mang tính giáo dục cao đối với các
chủ thể gây ô nhiễm môi trường. Tuỳ thuộc vào mức thuế suất cao hay thấp
mà mức độ điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm của các chủ thể hành động là
nhiều hay ít theo sự mong muốn của các nhà quản lý.
Ví dụ về một số loại phí và thuế thường được sử dụng:
+ Tiền phí trả cho mỗi tấn BOD hoặc SO2 thải ra môi trường.
+ Tiền thuế cacbon
+Tiền thuế đánh vào việc sử dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu.
+ Lệ phí sử dụng nước,
+ Lệ phí lấp hố rác…
I.2.3. Các chương trình thương mại:
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, thì xu
thế đối thoại đang trở lên là mối quan tâm hàng đầu cùa các doanh quốc gia
và các doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới lợi ích
kinh tế cao nhất có thể. Trong kinh doanh ngày nay không chỉ có chất lường
sản phẩm là trên hết mà vấn đề danh tiếng, uy tín trên thương trường cũng là
mối quan tâm rất lớn trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó các chương trình thương mại sẽ có vai trò tích cực đối
với việc điều chỉnh hành vi của chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Các
chương chình thương mại có liên quan đến bảo vệ môi trường được phản ánh
thông qua nhiều hình thức khác nhau nó có thể là:
- Giấy phép phát thải.
- Tiền trợ cấp tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất.
- Chứng nhận giảm phát (CER) thải có thể mua bán.
Chuyên đề tốt nghiệp
10
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Một trong các hình thức thương mại phổ biến hiện nay được sử dụng

trong quản lý môi trường đó là chứng nhận giảm phát thải có thể trao đổi
mua bán trên thị trường. Đây là hình thức thương mại chủ yếu đựơc áp dụng
ở hầu hết các quốc gia phát triển hiện nay. Và đặc biệt nó đã được đưa vào
nghị định thư kyôto như là một trong ba biện pháp giảm thải trong cam kết
của nghị định thư nhằm làm giảm thiểu hiệu ứng nhà kính thông qua chứng
nhận giảm phát thải được công nhận( các nước có thể thoả thuận với nhau để
đi đến việc trao đổi mua bán các chứng nhận giảm phát thải này). Ví dụ
trong cơ chế phát triển sạch, bên tham gia ở đây là một nước phát triển đầu
tư một công nghệ điện chạy bắng sức gió thay thế cho nhà máy nhiệt điện ở
một nước kém phát triển và qua đó họ đã tính toán được lượng khí nhà kính
được cắt giảm nhờ công nghệ thay thế này. Và nước phát triển sẽ đước cấp
một chứng nhận giảm phát thải nước này có thể đem chứng nhận này bán
cho một nước khác tuỳ theo điều kiện phát thải của mình. Hay ta xet một ví
dụ khác về trường hợp buôn bán giấy phép xả thải giữa công ty A và B. Giả
sử rằng công ty A có sr thừa một lượng giấy phép xả thải ( do công ty A thực
hiện đầu tư công nghệ xử lý chất thải ) và công ty B đang thiếu một lượng
giấy phép, khi đó hai công ty này có thể thương lượng và B mua của A
lượng giấy phép dư thừa đó. Và như vậy A có nguồn thu từ việc bán giấy
phép còn B tiếp tục được xả thải. Đồng thời lượng chất thải vẫn được khống
chế trong tổng lượng giấy phép mà nhà quản lý phát hành.
Ngoài việc mua bán các giấy phép xả thải trên thị trường còn có thể
mua bán nhiều loại giấy phép khác như: giấy phép hoạt động tiêu thụ sản
phẩm đặc biệt, giấy phép buôn bán các chất thải độc hại, giáy phép vật nuôi
trên sông…
I.2.4. Hệ thống đặt cọc hoạn trả:
Hệ thống đặt cọc hoàn trả là việc ký quỹ một số tiền cho các sản phẩm
có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường, hoặc là đặt cọc cho một hoạt động
Chuyên đề tốt nghiệp
11
Phan văn Trung Lớp:KTMT44

kinh tế có khả năng ảnh hưởng lớn tới môi trường. Nếu các sản phẩm được
đưa trả các điểm thu hồi qui định theo pháp luật hoặc hoàn trả lại các nhà
cung cấp thì tiền ky thác sẽ được hoàn trả lại. Cũng tương tự như vậy các
chủ thể hành động khi thực hiện đúng cam kết hoàn nguyên lại môi trường
ban đầu thì khi đó ssố tiền ký thac sẽ được hoàn trả lại. Và nếu như các xí
nghiệp hoặc các chủ thể hành động không thực hiện đúng cam kết thì số tiền
đặt cọc đó sẽ bị giữ lại. Hình thức này được áp dụng khá phổ biến đối với
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản. và đang có xu hướng phát triển
mạnh mẽ trong các năm gần đâyđặc biệt là ở một số các doanh nghiệp kinh
doanh đồ uống đóng chai như nước giải khát, ..Họ có chính sách thu hồi lại
các vỏ chai cũ này để tái sử dụng bằng hình thức đặt cọc hoàn trả. Khi chúng
ta đi mua một chai nước khoáng chảng hạn thì chúng ta sẽ phải mất một
khoản tiền đặt cọc cho chiếc vỏ chai, sau khi dùng ta đem trả lại vỏ chai cho
cửa hàng thi f sẽ được nhận lại số tiền đặt cho vỏ chai ấy.
Tuy nhiên đối với hình thức đặt cọc hoàn trả này trong thực tế áp dụng,
tính hiệu quả của nó không cao như mong đợi. Bởi vì với đời sống ngày càng
cao như hiện nay thì số tiền đặt cọc ít ỏi cho việc trả lại vỏ chai sau khi dùng
không khuyến khich được khách hàng đem trả lại. Mặt khác chi phí để hoàn
nguyên lại môi trường như trước khi khai khoáng là rất lớn, do đó các doanh
nghiệp sau khi thực hiện xong hoạt động khai thác họ thường chụi mất đi
khoản đặt cọc ký thác mà không chụi chi cho vấn đè hoàn nguyên môi
trường. Trườn hợp này có thể viện dẫn ví dụ ở các công ty khai thá than ở
Việt Nam, đối với các công ty này thì việc hoàn nguyên cho môi trường là vô
cùng tốn kém và mất rất nhiều thời gian cho nên họ thường chụi mất khoản
chi phí đặt cọc cho nhà quản lý môi trường chứ không thể thực hiện theo
đúng cam kết nư ban đầu hoàn nguyên lại môi trường cho các mỏ khai thác
đã hết hạn sử dụng.
I.2.5. Những chính sách khuyến khích về tài chính:
Chuyên đề tốt nghiệp
12

Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Các chính sách khuyến khích tài chính liên quan đến môi trường,
thường được các nhà nước đề như: tiền trợ cấp tiêu thụ sản phẩm, trợ cấp
trong vốn vay.. đối với các dự án thân thiện với môi trường hay các dự án cải
tạo môi trường, thực hiện giảm thuế cho các cơ sở thực hiện tốt các biện pháp
bảo vệ môi trường…. Đối với công cụ kinh tế này đã khuyến khích được các
doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề môi trường do các chương chình này có
liên quan trực tiếp tới chi phí và lợi ích kinh tế của các chủ thể hành động. nó
khuyến khích khen thưởng kịp thời các hành vi bảo vệ môi trường. Một trong
các chính sách khuyến khích về tài chính là chính phủ sẽ giảm thuế quan và
cho vay vốn với lãi suất bằng không đối với các dự án môi trường.
II. Kinh nghiệm thực tiễn áp dụng các công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường của các nước trên thế giới:
II.1. Kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới:
Các nước này họ đã trải qua thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá
từ lâu và cũng vì vậy mà họ đã có rất nhiều kinh nghiệm trong vấn đề xử lý
và ngăn chặn ô nhiễm môi trường. Trong lịch sử chống ô nhiễm môi trường
của các nước đi trước đã chứng minh rằng các công cụ kinh tế đã rất có hiệu
lực trong quản lý môi trường. Tất cả các loại công cụ kinh tế như; Thuế môi
trường, hệ thống đặt cọc hoàn trả, khuyến khích về tài chính… đều đã được
các nước phát triển thuộc OECD sử dụng rất hiệu quả. Sau đây chúng ta sẽ
xem xét một số kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường của họ.
* Ví dụ về việc sử dụng tiền đặt cọc khi mua hàng: Chúng ta thấy rằng
ở Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản.. họ đã triển khai áp dụng cho các mặt
hàng như các sản phẩm dùng bao bì, đồ uống hay săm lốp, điện tử dân
dụng…còn ở Canada khi mua một lon nước giải khát phải trả them 10 cent,
khi trả lại vỏ lon khách hang sẽ được tả lại số tiền này. Công cụ này cũng
được áp dụng ngày càng rộng rãi ở Mỹ tuy là nước không phải đi đầu trong
Chuyên đề tốt nghiệp

13
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
lĩnh vực bảo vệ môi trường nhưng đã có tỷ trọng 51% nhu cầu đồ dùng bằng
nhôm tái chế chính vì vậy mà công cụ kinh tế này tỏ ra rất hiệu quả trong
việc thu hồi các sản phẩm đã qua sử dụng. Tuy nhiên các tiền đặt cọc cho
các vỏ đồ uống thương ít và không lớn lên đối với người dân các nước có
nền kinh tế phát triển có rất it người quan tâm tới việc trả lại vỏ chai để lấy
lái số tiền đặt cọc. Mà ở các nước này thường có những tổ chức từ thiện
đứng ra thu thập các bao bì để bán lấy tiền làm từ thiện.
* Ví dụ về việc sử dụng các chương chình thương mại: Đây cũng là
công cụ kinh tế được các nước OECD sử dụng nhiều nhất trong công tác bảo
vệ môi trường. Như giấy phép phát thải có thể trao đổi mau bán trên thị
trường, tín hiệu giảm phát thải và tiền trợ cấp tiêu thụ hoặc sản xuất sản
phẩm… Lần đầu tiên ở Mỹ và một số nước tây Âu, đặc biệt là ở Đức người
ta đã đưa ra hình thức giấy phép phát thải có thể mua bán được. Các giấy
phép này sử dụng dựa trên nguyên tắc là bất cứ sự gia tăng chất thải nào
cũng phải được cân bằng với việc giảm chất thải tương ứng và thường lớn
hơn số lượng. ví dụ một công ty X nào đó được phép xả thải 100 đơn vị ô
nhiễm nhưng công ty này chỉ thải có 80 đơn vị ô nhiễm như vậy công ty này
có thể bán quyền thải 20 đơn vị ô nhiễm cho công ty khác.
Trong các chương chình thương mại thì tín phiếu giảm phát thải và
tiền trợ cấp tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất cũng được các nước OECD sử
dụng nhiều. Các nước này sử dụng tìn phiếu phát thải nhằm tạo ra một thị
trường “ô nhiễm” tức là tạo ra các thị trường để người ta có thể mua bán
hoặc chuyển nhượng các quyền được gây ô nhiễm của mình cho những
người khác. Thực tế ở Mỹ đã sử dụng rất hiệu quả công cụ kinh tế này trong
lĩnh vực khống chế ô nhiễm môi trường không khí.
Hình thức trợ cấp tài chính đã được sử dụng cho mục đích bảo vệ môi
trường ở khối OECD chủ yếu được chia làm ba loại: Trợ cấp không hoàn lại,
thường là các khoản trợ cấp tài chính trong các trường hợp người gây ra ô

Chuyên đề tốt nghiệp
14
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
nhiễm sẽ thực hiện các biện pháp để giảm bớt mức độ ô nhiễm trong tương
lai ; Cho vay với lãi suất thấp, loại này thường được áp dụng cho những
người gây ô nhiễm khi họ áp dụng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm hoặc
cho những dự án thân thiện với môi trường; loại thứ ba là tiền trợ cấp qua
thuế dành cho những người áp dụng các biện pháp chống ô nhiễm đã quy
định.
II.2. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển:
Trong những năm gần đây do vấn đề ô nhiễm môi trường đã trở lên là
một vấn nạn không chỉ đối các nước đang phát triển mà nó đã là vấn đề của
toàn nhân loại. Chính vì thế ngay tại các nước đang phát triển các nhà lãnh
đạo các nước này đã bắt đầu tiếp thu kinh nghiêm quản lý môi trường của
các nước phát triển đi trước cùng với việc được sự trự giúp về kỹ thuật cũng
như tài chính của khôi các nước OECD một số chính phủ đã chú ý coi trọng
việc dùng các công cụ kinh tế như là một biện pháp hữu hiệu cho công cuộc
bảo vệ môi trường của quốc gia mình. Tuy nhiên các công cụ kinh tế mới chỉ
phổ biến ở các nước công nghiệp mới phát triển và một số nước có nền kinh
tế chuyển đổi ở Đông Nam Á và Mỹ La Tinh. Tại các nước này có một đặc
điểm là công cụ kinh tế không sử dụng tách rời mà nó thường đước kết hợp
với các công cụ pháp lý. ở đây các công cụ kinh tế không phải là thay thế
hoàn toàn cho công cụ pháp lý mà nó chí là công cụ bố sung hỗ trợ cho công
cụ pháp lý mà thôi. Tại các nước này công cụ pháp lý vẫn là công cụ chủ yếu
được dùng trong qủan lý môi trường nhưng các công cụ pháp lý này được bổ
sung thêm tính mềm dẻo và linh hoạt của các công cụ kinh tế. chính nhờ đặc
điểm này lên các chính sách môi trường của các nước này đã mang lại hiệu
quả cao. Bởi vì tại các nước đang phát triển thì hệ thống pháp luật vẫn chưa
hoàn thiện và nền kinh tế thị trường chưa được xác lập một cách đầy đủ do
đó đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa yếu tố kinh tế và pháp luật đây là biện

pháp tối ưu nhất để đảm bảo cho các công cụ kinh tế được thực thi tại các
Chuyên đề tốt nghiệp
15
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
nước này. Chúng ta có thể viện dẫn kinh nghiệm của một số nước áp dụng
thành công công cụ kinh tế trong quản lý môi trường sau đây:
* Ở Philipin: Việc áp dụng công cụ kinh tế dựa trên cơ sở thị trường
đã được thực hiện từ những năm 1980 và ngày càng trở lên phổ biến trong
những năm trở lài đây. Đầu năm 1997 trường hợp “ thực sự “áp dụng lệ phí
sử dụng môi trường được tiến hành nơđã vượt qua sự phản đối của các
ngành một cách suôn sẻ. Đó là trường hợp bắt các nguồn xả thải nước vào hồ
Laguna phải trả tiền. Căn cứ để tính lệ phí cho các xí nghiệp là nồng độ
BOD có trong nước thải. Thành công đạt được trong việc thu phí đối với các
xí nghiệp trên là do tính chất đặc thù của một tổ chức có tên là LLDA - một
cơ quan của chính phủ có quyền lực pháp định rất lớn trong việc quản lý hồ
Laguana. Sự chống đối ban đầu của các ngành đã phải lùi bước trước áp lực
xã hội và trước thực tế rằng các khoản chi phí phải nộp chỉ là một phần trong
toàn bộ giá thành của các hãng này.
Chính phủ Philipin cũng đã thiết lập thị trường về phế thải và thực
hiện trợ giá cho các hoạt động phòng chống ô nhiếm. Chính phủ đã miễn
thuế cho các hoạt động mua sắm thiết bị chống ô nhiễm. Việc này được áp
dụng thành công nhưng rất hạn chế và dường như không là yếu tố chính để
tạo ra động cơ tài chính cho các xí nghiệp. Chính phủ cũng đã thực hiện
chính sách giảm lãi suất và miễn thuế thu nhập cho các hoạt động kinh doanh
bảo vệ môi trường.
Mặt khác Philipin còn đưa ra chính sách quản lý rủi ro tài chính đối
với các rui ro môi trường. 5 năm trước đây, chính phủ đã đưa ra việc đánh
giá rui ro môi trường vào công tác thẩm định vốn vay dự án ngân hàng. Kết
quả cho đên hiện nay đã trở lên phổ biến đối với các ngân hàng tư nhân và
ngân hàng quỗ doanh. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy rằng các ngân hàng

còn thiếu năng lực trong việc thẩm định môi trường và còn ngần ngại chi
nhiều cho công tác này. Do đó họ chỉ chủ yếu dựa vào đánh giá về rủi ro môi
Chuyên đề tốt nghiệp
16
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
trường của chính phủ, nếu chính phủ cấp giấy phép về môi trường thì ngân
hàng cho rằng những rủi ro môi trường này là chấp nhận được.
* Một ví dụ khác từ Trung Quốc: Tại đây hình thức thu phí và lệ phí
được sử dụng chủ yếu đối với các chất gây ô nhiễm cho nguồn nước, khí thải
và chất thải rắn. Trên cơ sở quy định tiêu chuẩn cho các chất thải. Nếu các
doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất xả thải vượt quá tiêu chuẩn quy định thì sẽ
phải chụi một khoản tiền phí nhất định. Cho đến hiện nay Trung Quốc đã
xây dựng được một hệ thống phí gây ô nhiễm dựa trên nguyên tắc PPP với
hơn 100 mức phí khác nhau cho 5 yếu tố gây ô nhiễm đó là: Cống, khí thải,
chất thải lắng đọng, tiếng ồn và các loại khác. Tuy nhiên các mức phí này
còn thấp nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả cao trong bảo vệ môi
trường và giảm thiểu ô nhiễm.
* Tại Maláysia:Việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi
trường cũng đã mang lại những kết quả ban đầu. Trong đó công cụ kinh tế
được sử dụng nhiều nhất là phí môi trường được xây dựng trên nguyên tắc
PPP. Cơ quan quản lý môi trường quy định các chất thải gây ô nhiễm môi
trường như: BOD,Cd, Cr,Pb,Hg… phải chụi suất phí nhất định dựa trên nồng
độ các chất này có trong chất thải. Qua đó các cơ sở xả thải sẽ phải trả một
khoản chi phí tương ứng với khối lượng và nồng độ các chất có trong nước
thải. VIệc thu phí như vậy đã hạn chế được lưu lượng nước thải ra môi
trường, và giúp cho cơ quan qủan lý môi trường lắm bắt được tình trạng môi
trường nước thải thông qua việc quan trắc môi trường nước của các cơ sở
gây ô nhiễm này.
III. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trong quản lý môi
trường:

3.1. Phương pháp luận cho việc tính phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải công nghiệp:
Chuyên đề tốt nghiệp
17
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Chúng ta thấy rằng giữa thuế và phí có sự khác biệt nhất định. Tuy
nhiên giữa hai công cụ này còn một sốđiểm chung, đặc biệt là cùng đánh vào
người gây ô nhiễm. Mục tiêu đánh thuế và thu phí cũng có nhiều điểm
chung, trong đó có việc làm thay đổi hành vi của người sản xuất và người
tiêu dùng theo hướng giảm phát thải ra môi trường. Nếu xác định mức thuế
và phí thích hợp còn có thể khuyến khích các cơ sở sản xuất lắp đặt các thiết
bị xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Vì vậy, trong chừng mực nào
đấy có thể coi phương pháp luận của việc tính thuế và tính phí là tương đồng
với nhau.
Như chúng ta đã biết, Pigou, nhà kinh tế học người Anh đãđưa ra một
giải pháp làđánh thuế vào từng đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm sao cho không
còn có sự chênh lệch giữa chi phí cá nhân của hãng(MC) và chi phí biên của
xã hội(MSC). Gọi t là mức phíđánh vào 1 đơn vịđo chất thải ta có:
MSC = t + MC hay t = MSC – MC.
Hiệu số (MSC – MC) cũng chính là chi phí ngoại ứng trên một đơn vị
sản phẩm tạo ra chất thải (MEC), qua đó ta có:
t = MSC – MC =MEC.
Mức thúê thu được đánh theo sản lượng và do vậy để tối đa hoá lợi
nhuận xã hội thì doanh nghiệp phải chịu mức thuế /phít
*
= MSC – MC =
MEC tại mức sản lượng tối ưu của doanh nghiệp đã tính đến chi phí ngoại
ứng. Với mức thuế này buộc người sản xuất phải điều chỉnh hoạt động về
mức tối ưu Q
*

vậy. Khi đó sẽđạt tối đa hoá lợi nhuận toàn xã hội.
Khi một doanh nghiệp đầu tư thay đổi qui trình công nghệđể làm giảm
thải chất ô nhiễm mà doanh nghiệp vẫn giữđược sản lượng tối ưu và giảm
được ngoại ứng nghĩa là doanh nghiệp đã phải bỏ ra một chi phíđể làm giảm
chất ô nhiễm hay là xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Chi phíđể
Chuyên đề tốt nghiệp
18
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
giảm thải trên một đơn vị lượng chất thải chính là chi phí cận biên giảm thải
ô nhiễm. Một khi doanh nghiệp giảm thải chất ô nhiễm ra môi trường càng
nhiều thi chi phíđể giảm thải càng cao. Đây cùng là căn cứ cho việc xác định
suất phí trên một đơn vị chất thải thích hợp sao cho cả xã hội lẫn doanh
nghiệp đều có lợi, hay không bên nào chịu thiệt.
Mục tiêu của việc thu phíô nhiễm môi trường có thể khác nhau, có thể
nhằm cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc thay đổi hành vi của
người gây ô nhiễm hoặc nhằm mục đích tăng doanh thu cho ngân sách nhà
nước. Nhưng phí môi trường cần mang tính trung lập, có nghĩa nó không
nhằm mục đích buộc các nhà sản xuất ngừng sản xuất, cũng không vì mục
tiêu lợi nhuận mà huỷ hoại môi trường.
Để xác định phí môi trường cần xem xét thêm mối quan hệ chi phí cận
biên làm giảm ô nhiễm ( MAC ) và phí gây ô nhiễm. Chi phí cận biên làm
giảm ô nhiễm của một hãng hay một nghành công nghiệp cho biết chi phí để
giảm bớt đi một đơn vị chất thải. Thông thường, chi phí cận biên giảm thải ô
nhiễm thấp hơn chi phí môi trường mà doanh nghiệp phải nộp, doanh nghiệp
sẽ lựa chọn phương án đầu tư làm giảm thải chất thải gây ô nhiễm thay vì
nộp phí. Lý do là phương án này có lợi cho doanh nghiệp hơn vì nó rẻ hơn.
Ngược lại, khi MAC cao hơn phí gây ô nhiễm phải trả, lúc đó doanh nghiệp
sẽ lựa chọn phương án nộp phí vì như vậy sẽ rẻ hơn so với việc tiếp tục áp
dụng các biện pháp giảm thải gây ô nhiễm. Như vậy, doanh nghiệp hầu như
phải chụi hai lần chi phí, thứ nhất để giảm ô nhiễm chừng nào MAC thấp hơn

phí ô nhiễm và sau đó đóng phí khi MAC lớn hơn mức phí phải đóng.Thực tế
cho thấy các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp…thường có hàm chi
phí cận biên giảm thải ô nhiễm khác nhau do thiết bị, công nghệ, đầu vào và
khả năng thay thế khác nhau nhiều hoặc ít. Đây cũng là những yếu tố quyết
định đến chi phí làm giảm ô nhiễm, để cho một doanh nghiệp cân nhắc trước
khi xây dựng hệ thống xử lý chất thải hay đóng phí.
Chuyên đề tốt nghiệp
19
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Vấn đề đặt ra đối với xác định phí ô nhiễm là phí có tác dụng khuyến
khích các doanh nghiệp tiếp tục sản xuất để có lợi nhuận nhưng đồng thời
phải đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng môi trường qui định. Theo kinh
nghiệm của nhiều nước thì việc xác định xuất phí là một vấn đề phức tạp gây
nhiều tranh cãi, trong đó nguyên nhân quan trọng chíh là thiếu thông tin hay
thông tin không chính xác dẫn đến không đủ cơ sở để xác định chi phí thiệt
hại và qua đó không thể đưa ra một mức phí chính xác.
3.2.Cơ sở xác định phí nước thải công nghiệp:
3.2.1.Dựa vào tổng lượng nước thải.
Tổng lượng chất thải là một trong các căn cứ quan trọng để xác định tổng
chi phí mà các doanh nghiệp phải đóng cho cơ quan quản lý môi trường, đó là
cơ sở để cho các cơ quan quản lý này thu phí bảo vệ môi trường. Thông qua
việc xác định tổng lượng chất thải (ở đây là tổng lượng nước thải ) của từng
doanh nghiệp mà chúng ta có thể biết được lưu lượng nước thải của các doanh
nghiệp này lớn hay nhỏ từ đó xác định được mức độ nghiêm trọng của hành vi
xả thải đối với môi trường của các doanh nghiệp này.
3.2.2.Dựa vào đặc tính của các chất gây ô nhiễm.
Đặc tính của các chất gây ô nhiễm là một trong các yếu tố không thể
thiếu đế xác định xuất phí cho các doanh nghiệp xả thải.Sau đây là một số chất
gây hại đặc trưng thường hay có trong môi trường nước thải của các doanh
nghiệp.

+ Nhâu cầu oxy sinh hoá BOD:Đây là chỉ tiêu thông dụng nhất để xác
định mức độ ô nhiễm chất hữu cơ có thể phân huỷ bởi vi sinh vật trong nước
thải đô thị và chất thải công nghiệp. Nhu cầu BOD được định nghĩa là nhu cầu
oxy cần cho vi sinh vật trong quá trìh phân huỷ các chất hữu cơ. Trong thực tế
người ta không thể lượng oxy cần thiết để phân huỷ hoàn toàn chất hữu cơ vì
Chuyên đề tốt nghiệp
20
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
như thế tốn quá nhiều thời gian mà chí xác định lượng oxy cần thiết trong 5
ngày đầu ở nhiệt độ ủ 20
0
c ký hiệu BOD-5 . chỉ tiêu này được chuẩn hoá và
sử dụng ở hầu khắp các nước trên thế giới. Giá trị BOD lớn nghĩa là mức độ ô
nhiễm chất hữu cơ càng cao.
+ Nhu cầu oxy hoá học COD: Thông số này được dùng để đặc trưng cho
hàm lượng các chất hữu cơ của nước thải và nước tự nhiên. COD được định
nghĩa là lượng oxy cần thiết cho quá trình oxy hoá hoá học các chất hữu cơ
trong mẫu thành CO2 và nước. Lượng oxy này tương đương với hàm lượng
chất hữu cơ có thể ị oxy hoá. Thông số COD biểu thị tất cả các chất hữu cơ, kể
cả phần khong thể bị oxy hoá bằng vi sinh vật, do đó có giá trị cao hơn BOD.
+ Tổng chất thải rắn lơ lửng TSS: Chất rắn lơ lửng là các nhân tố ảnh
hưởng tiêu cực đến tài nguyên thuỷ sinh đồng thời gây tác hại về mặt cảm
quan ( tăng độ đục cho nước ) và gây bồi lắng dòng chảy. Đây cũng là chỉ tiêu
3.2.3.Dựa vào hàm lượng các chất gây ô nhiễm.
Hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước thải cũng là một cơ sở
để tính phí nước thải phải nộp cho các doanh nghiệp. Cùng một lượng nước
thải như nhau nhưng nguồn nước thải nào có trong đó hàm lượng các chất độc
hại nhiều hơn thì mức phí phải đóng sẽ cao hơn. Cũng có các thành phần các
chất thải như nhau nhưng nguồn thải của một doanh nghiệp sản xuất A lại có
hàm lượng các chất độc hại cao hơn xí nghiệp sản xuất B như vậy chứng tỏ

rằng mức độ gây ô nhiễm môi trường của xí nghiệp A là lớn hơn xí nghiệp B
do đó A sẽ phải chụi một mức phí lớn hơn B.
3.2.4.Dựa vào hệ số chịu tải môi trường.
Hệ số này biểu thị mức độ chịu tải của môi trường của một vùng phụ
thuộc vào thực trạng môi trường, tìnhhình kinh tế xác hội của vùng đó và nó
cũng phản ánh mức độ thiệt hại tiềm tàng tương ứng do ô nhiễm gây ra. Khả
Chuyên đề tốt nghiệp
21
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
năng chịu tải của vùng nông thôn, vùng núi, những vùng không có khu công
nghiệp káhc với các vùng thành phố lớn và các khu công nghiệp. Hệ số chịu
tải của môi trường sẽ làm tăng hay giảm phí ô nhiễm tuỳ thuộc vào mức độ
chịu tải của môi trường đó.
Chúng ta có thể xác định hệ số chịu tải môi trưòng thông qua việc xác
định mật độ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và các cơ quan có nguồn
thải gây ô nhiễm môi trường tiềm tàng trên 1 km2 và mật độ dân số tịa khu
vực hay đơn vị hành chính đó.Thứ hai ta có thể xác định hệ số chịu tải dựa vào
tiêu chuẩn môi trường quốc gia. Thứ ba chúng ta có thể xác định theo các
thành phố, khu vực công nghiệp, khu chế xuất.
3.2.5.Dựa vào chi phí biên bỏ ra lắp đặt hệ thống giảm thải.
Việc xác định phí gây ô nhiễm nước thường dựa trên cơ sở tính toán chi
phí cho các biện pháp xử lý nước thải ra môi trường. Cách này trên thực tế rất
khó thực hiện do chi phí biên để giảm thải thêm một đơn vị chất thải rất khác
nhau, và là một hàm số phụ thuộc vào nhiều biến số như tuổi đời, chất lượng
của thiế bị, hệ số hiệu quả của thiết bị. Hơn nữa đa số các doanh nghiệp Việt
Nam có quy trình công nghệ sản xuất cũ và thiết bị máy móc của các xí nghiệp
lại khác nhau… Do đó, khó xác định xuất phí chính xác. Tuy nhiên vẫn có thể
ước tính được xuất phí dựa trên phương pháp này bằng cách chọn một số thiết
bị giảm thải dự đoán phù hợp cho các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng và lấy
bình quân chi phí tối thiẻu của các thiết bị này nhằm giảm thêm 1 đơn vị chất

thải cùng loại để xác định suất phí. Thông thường, chi phí biên để giảm thiểu ô
nhiễm đối với một loại chất thải tăng khi nồng độ của nó giảm hay doanh
nghiệp sẽ chịu chi phí càng cao nếu giảm thỉa chất gây ô nhiễm càng nhiều.
Đối với các doanh nghiệp, chi phí biên để giảm thỉa gây ô nhiễm bao giờ cũng
phụ thuộc vào qui mô sản xuất.
3.2.6.Dựa vào giá trịước tính tác hại do một đơn vị chất thải gây ra.
Chuyên đề tốt nghiệp
22
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
Điều này khó thực hiện bởi vì không xác định được chính xác hàm thiệt
hại của chất thải và trên thực tế mức độ thiệt hại của các chất thải nhìn chung
không có thể đo trực tiếp, mà đòi hỏi phải tính toán thông qua một số yếu tố
trung gian, có khi dễ thấy nhưng đôi khi lại rất khó thấy.
3.2.7.Dựa vào tiêu chuẩn môi trường.
Tiêu chuẩn môi trường có thể coi là một chuẩn mực dùng để xác định
trách nhiệm của đối tượng gây ô nhiễm môi trường. Nói cách khác khi người
sản xuất thải chất ô nhiễm có nồng độ vượt tiêu chuẩn cho phép thì họ đã vi
phạm quy định. Khi đó, việc xác định mức phí phải cao hơn nhiều và được coi
như là tiền phạt cho việc vi phạm tiêu chuẩn.Tiêu chuẩn môi trường có thể
phân theo các vùng khác nhau và theo khả năng chịu tải của môi trường khác
nhau thì khác nhau, cho các chất thải và các doanh nghiệp khác nhau thì khác
nhau theo việc các doanh nghiệp sử dụng các công nghệ cũ hay mới…
Chuyên đề tốt nghiệp
23
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
CHƯƠNG II: HIỆNTRẠNGSẢNXUẤTCÔNGNGHIỆP
VÀMÔITRƯỜNGNƯỚCTHẢICÔNGNGHIỆP
TRÊNĐỊABÀNTHÀNHPHỐ HÀ NỘI:
I. Hiện trạng sản xuất công nghiệp:
1.1.Tình hình sản xuất công nghiệp:

Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới ( 1996 ), đặc biệt trong thời kỳ 1996 đến
nay, sản xuất công nghiệp ở Hà Nội đã có những thay đổi lớn. Tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm đạt 14% và tỷ trọng giá trị sản
xuất công nghiệp trong GDP hàng năm có xu thế tăng liên tục, cụ thể là 34,9%
năm 1996, 35,3% ( 1997 ), 36,1% ( 1998), 37,5% ( 1999) và năm 2000 đạt xấp
sỉ 39%. Nền công nghiệp ở Hà Nội có những biến đổi lớn như:
- Những ngành sản xuất còn phù hợp với thị trường đã và đang từng
bước đổi mới công nghệ và thiết bị, còn các nhà máy có sản phẩm
không được thị trường chấp nhận đã tìm hướng kinh doanh mới hoặc
giả thể.
- Công nghệ lắp ráp hàng nhập ngoại phát triển nhanh song quy mô chưa
lớn và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm còn thấp.
- Công nghiệp hiện đại công nghệ cao đã hình thành tại một số khu vực
tập trung mới được đầu tư xây dựng, có hạ tầng kỹ thuật tốt như: Khu
công nghiệp Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Nội Bài, Sóc Sơn…
- Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã hình thành bốn nhóm ngành có ý nghiã
then chốt. Đó là các ngành cơ kim khi, dệt may, da giầy, chế biến lương
thực, thực phẩm và công nghệ điện, điện tử. Ngành công nghiệp hoá
chất tuy hiện đang chiếm tỷ trọng tương đối 17% nhưng đang có chiều
hướng giảm trừ hoá dược vì không hợp với hướngphát triển của thủ đô.
Năm 2002 Hà Nội có 265 doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh trong đó
có 163 doanh nghiệp Quốc doanh Trung uơng; 15880 doanh nghiệp công
Chuyên đề tốt nghiệp
24
Phan văn Trung Lớp:KTMT44
nghiệp ngoài Quốc doanh trong đó : 175 hợp tác xã, 37 doanh nghiệp tư nhân,
305 doanh nghiệp hỗn hợp và 15365 hộ kinh doanh cá thể. Hà Nội là địa bàn
tập trung công nghiệp cao nhất ở Bắc Bộ và đứng thứ hai của cả nước. Tỷ lệ
GDƠ công nghiệp trong cở cấu kinh tế Hà Nội hiện chiếm 36% và đang có
chiều hướng gia tăng. Trong những năm qua, công nghiệp Hà Nội đạt nhịp độ

tăng trưởng khá cao. Giá trị sản xuất công nghiệp đóng góp khoảng 40% tổng
thu ngân sách và hơn 70% kim ngạch xuất khẩu của thành phố, Tỷ suất công
nghiệp đạt trên 60%. Cơ cấu ngành công nghiệp Hà Nội đã hình thành 4 nhóm
ngành chính sau:
- Cơ khí ( chiếm 20-13% ).
- Dệt-da-may mặc ( chiếm 22-25% ).
- Lương thực - thực phẩm ( chiếm 16-18%).
- Đồ điện - điện tử ( chiếm 5-8%).
1.2.Những tác động tới môi trường nước của hoạt động sản xuất công
nghiệp.
Chúng ta biết rằng nước là một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống nó
không chỉ cần thiết cho sinh hoạt mà còn rất cần thiết đối với quá trình sản
xuất công nghiệp. Theo thống kê ở Hà Nội có khoảng 300.000-320.000 m
3
/ngày đêm thì trong đó 1/3 là nước thải công nghiệp. Đặc điểm của nước thải
của các khu công nghiệp này là chất lượng nước rất kém hầu nhưđều chứa các
chất độc hại qua tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần và lưu lượng xả thải rất lớn.
Nước từ các khu công nghiệp được xả thải trực tiếp ra môi trường và chảy vào
các dòng sông nội thành đã gây ra ô nhiễm môi trường nước mặt và nước
ngầm nghiêm trọng.Qua khoả sát thực tế chất lượng nước ở các dòng sông
chính như sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ, sông kim Ngưu… chúng ta thấy
rằng hầu nhưđều chứa các chất độc hài ở mức cao vượt quá tiêu chuẩn cho
phép rất nhiều lần. Thể hiện qua bảng sau đây:
Chuyên đề tốt nghiệp
25

×