Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

NÉT ĐẸP GIẢN DỊ TRONG TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ TÀY TẠI TỈNH YÊN BÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.67 KB, 10 trang )

BÀI THU HOẠCH
NÉT ĐẸP GIẢN DỊ TRONG TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
CỦA PHỤ NỮ TÀY TẠI TỈNH YÊN BÁI
I, Khái quát chung về Tỉnh Yên Bái
1. Vị trí địa lý
Yên Bái là tỉnh miền núi, nằm giữa vùng Tây Bắc - Đơng Bắc và Trung
du Bắc bộ. n Bái có phạm vi giới hạn ở toạ độ địa lý từ 21024’ - 22016’ vĩ
độ Bắc; 103056’ - 105003’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía
Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đơng giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tun Quang và
phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Yên Bái là
688.627,64 ha, bằng 2% diện tích tự nhiên của cả nước và bằng 10,4% diện
tích vùng Đông Bắc; xếp thứ 8 so với 11 tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc về quy
mơ đất đai. n Bái có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện)
với tổng số 180 xã, phường, thị trấn (157 xã và 23 phường, thị trấn); trong đó
có 70 xã vùng cao và 62 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu,
Mù Cang Chải (đồng bào Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo,
đặc biệt khó khăn của cả nước…
Với vị trí địa lý là cửa ngõ miền Tây Bắc, lại nằm trên trung điểm của
một trong những tuyến hành lang kinh tế chủ lực Trung Quốc – Việt Nam:
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phịng, có hệ thống giao thơng tương đối
đa dạng đã tạo cho Yên Bái có điều kiện và cơ hội thuận lợi để tăng cường hội
nhập và giao lưu kinh tế thương mại, phát triển văn hóa xã hội…khơng chỉ
với các tỉnh trong vùng, các trung tâm kinh tế lớn trong cả nước mà còn cả
trong giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt là với các tỉnh Tây Nam Trung Quốc.
n Bái có vị trí quan trọng trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc phòng
đã được khẳng định trong lịch sử đấu tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.

1



Ngày nay, Yên Bái đã và đang được xây dựng thành khu vực mạnh về kinh tế
và trở thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
2. Đặc điểm địa hình
Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông
Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây
Bắc – Đơng Nam: phía Tây có dãy Hồng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa
sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sơng
Hồng và sơng Chảy, phía Đơng có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và
sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng cao
và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600 m trở lên, chiếm 67,56%
diện tích tồn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, có tiềm năng về đất đai, lâm
sản, khống sản, có khả năng huy động vào phát triển kinh tế - xã hội. Vùng
thấp có độ cao dưới 600 m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn
địa, chiếm 32,44 % diện tích tự nhiên tồn tỉnh.
3. Khí hậu
n Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
là 22 - 230C; lượng mưa trung bình 1.500 – 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình
83 – 87%, thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm nghiệp. Dựa trên yếu tố
địa hình khí hậu, có thể chia Yên Bái thành 5 tiểu vùng khí hậu. Tiểu vùng
Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900 m, nhiệt độ trung bình 18 – 20 0C, có
khi xuống dưới 00C về mùa đơng, thích hợp phát triển các loại động, thực vật
vùng ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – nam Văn Chấn, độ cao trung bình 800 m,
nhiệt độ trung bình 18 – 20 0C, phía Bắc là tiểu vùng mưa nhiều, phía Nam là
vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát triển các loại động, thực vật á nhiệt đới,
ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ, độ cao trung bình 200 – 400 m, nhiệt độ
trung bình 21 – 320C, thích hợp phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm,
chè vùng thấp, vùng cao, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Tiểu vùng nam Trấn
2



Yên, Văn Yên, thành phố Yên Bái, Ba Khe, độ cao trung bình 70 m, nhiệt độ
trung bình 23 – 240C, là vùng mưa phùn nhiều nhất tỉnh, có điều kiện phát
triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây ăn quả.
Tiểu vùng Lục Yên – Yên Bình độ cao trung bình dưới 300 m, nhiệt độ trung
bình 20 – 230C, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh, có hồ Thác Bà rộng
19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp và
ni trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch
4. Tài nguyên đất
Tính đến 1/1/2014, Tổng diện tích đất tự nhiên tồn tỉnh là 688.627,64
ha. Trong đó diện tích nhóm đất nơng nghiệp là 585.088,51 ha, chiếm 85%
diện tích đất tự nhiên; diện tích nhóm đất phi nơng nghiệp là 53.711,31 ha
chiếm 8%; diện tích đất chưa sử dụng là 49827,82 ha chiếm 7%.
Trong tổng diện tích đất nơng nghiệp thì đất sản xuất nông nghiệp là
109.319,12 ha; đất lâm nghiệp 474.120,99 ha; đất ni trồng thủy sản
1.585,96 ha, cịn lại là đất nơng nghiệp khác. Trong tổng diện tích đất phi
nơng nghiệp thì đất ở 5.066,88 ha; đất chun dùng 15.604,04 ha, cịn lại là
đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất chưa sử dụng thì đất
bằng chưa sử dụng là 713,06 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là 45.620,90 ha,
còn lại là núi đá khơng có rừng cây.
Đất n Bái chủ yếu là đất xám (chiếm 82,37%), cịn lại là đất mùn alít, đất
phù sa, đất glây, đất đỏ…
5. Tài nguyên rừng
Hết năm 2014, diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên
Bái là 418,495,47 ha, trong đó, rừng tự nhiên là 238.976,13 ha; rừng trồng là
179,7519,34ha; độ che phủ của rừng là 61,2 %.
Yên Bái có nhiều loại rừng khác nhau như: rừng nhiệt đới, á nhiệt đới,
và núi cao. Trong khu vực rừng á nhiệt đới của tỉnh có nhiều loại cây lá kim
3



(như: pơmu, thông nàng, thông tre lá lớn, sa mộc, sam mộc) xen lẫn cây lá
rộng thuộc họ sồi dẻ, đỗ quyên. Ở độ cao trên 2000m, rừng hỗn giao giảm
dần, pơmu mọc thành rừng kín cao tới 40-50m, đường kính thân có cây tới
1,5m. Cao hơn nữa là những cánh rừng thông xen kẽ các tầng cây bụi nhỏ rồi
đến trúc lùn, cậy họ cói, cậy họ hoa hồng, cây họ thạch nam, cây họ cúc, cây
họ hoàng liên xen kẽ. Lùi dần về phía đơng nam, độ cao hạ dần, khí hậu ấm
áp hơn làm cho lớp phủ thực vật rừng có điều kiện phát triển. Bên cạnh các
loại gỗ quý (nghiến, trúc, lát hoa, chò chỉ, pơmu, cây thuốc q (đẳng sâm,
sơn tra, hị thủ ơ, hồi sơn, sa nhân), động vật hiếm (hổ, báo, cầy hương, lợn
rừng, chó sói, sơn dương, gấu, hươu, vượn, khỉ, trăn, tê tê, đàng đẵng, ếch dát,
gà lôi, nộc cốc, phượng hoàng đất) cùng nhiều khu rừng cho lâm, đặc sản (cọ,
măng, song, móc, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè).
6. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản Yên Bái khá đa dạng, hiện đã điều tra 257 điểm
mỏ khoáng sản, xếp vào các nhóm khống sản năng lượng, khống sản vật
liệu xây dựng, khống chất cơng nghiệp, khống sản kim loại và nhóm nước
khống. Nhóm khống sản năng lượng gồm các loại than nâu, than Antraxit,
đá chứa dầu, than bùn…; loại than nâu và than lửa dài tập trung ở ven sông
Hồng, sông Chảy và các thung lũng bồn địa như Phù Nham (Văn Chấn).
Nhóm khống sản vật liệu xây dựng gồm đá vơi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát
sỏi…được phân bố rộng rãi trên khắp địa bàn tỉnh. Nhóm khống chất cơng
nghiệp gồm đầy đủ các ngun liệu cơng nghiệp từ ngun liệu phân bón,
ngun liệu hố chất, nguyên liệu kỹ thuật, đặc biệt là đá quý và bán đá quý
được phân bố chủ yếu ở Lục Yên và n Bình. Nhóm khống sản kim loại có
đủ các loại từ kim loại đen (sắt) đến kim loại nâu (đồng, chì, kẽm) và kim loại
quý (vàng), đất hiếm phân bố chủ yếu ở hữu ngạn sơng Hồng. Nhóm nước
khống được phân bố chủ yếu ở vùng phía tây của tỉnh (Văn Chấn, Trạm
Tấu), bước đầu được sử dụng tắm chữa bệnh.


4


7. Lịch sử.
Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hố nhân
bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục n), cơng cụ
bằng đá ở Thẩm Thng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn
Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện,
như đền, tháp, khu di tích lịch sử.
Được thành lập năm 1900, tỉnh Yên Bái được biết đến qua cuộc Khởi
nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng vào thượng tuần tháng 2 năm
1930. Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp bắt và đem hành
quyết bằng máy chém ở Yên Bái cùng 12 đồng đội vào ngày 17 tháng 6 năm
1930.
Sau năm 1945, tỉnh Yên Bái có 5 huyện: Lục Yên, Than Uyên, Trấn
Yên, Văn Bàn, Văn Chấn.
Ngày 29 tháng 4 năm 1955, tách 2 huyện Than Uyên và Văn Chấn để
thành lập Khu tự trị Thái - Mèo[4].
Ngày 7 tháng 4 năm 1956, thành lập lại thị xã Yên Bái.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, chuyện huyện Yên Bình của tỉnh Tuyên
Quang về tỉnh Yên Bái quản lý.
Ngày 16 tháng 12 năm 1964, thành lập 2 huyện Bảo Yên (tách ra từ 2
huyện Lục Yên và Văn Bàn) và Văn Yên (tách ra từ 2 huyện Trấn Yên và Văn
Bàn)[5].
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Yên Bái được hợp nhất với 2
tỉnh Lào Cai và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn[6].
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Yên Bái được tái lập từ tỉnh Hoàng
Liên Sơn; chuyển 2 huyện Bảo Yên và Văn Bàn về tỉnh Lào Cai quản lý. Khi

5



tách ra, tỉnh Yên Bái có 8 đơn vị hành chính gồm thị xã Yên Bái và 7
huyện: Lục Yên, Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên, Văn Bàn, Văn
Chấn, Yên Bình[7].
Ngày 15 tháng 5 năm 1995, thành lập lại thị xã Nghĩa Lộ trên cơ sở điều
chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Văn Chấn[8].
Ngày 11 tháng 1 năm 2002, chuyển thị xã Yên Bái thành thành phố Yên Bái[9].
II, Đề tài “ Nét đẹp giản dị trong trang phục truyền thống
của phụ nữ Tày”
Yên Bái - nơi hội tụ của đồng bào các dân tộc. Ở vị trí cửa ngõ miền
Tây Bắc của Tổ quốc, tỉnh Yên Bái là điểm dừng chân của các dòng người
thiên di từ đồng bằng Bắc Bộ lên, từ phương Bắc xuống sinh cư lập nghiệp.
Hiện nay, vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của 30 dân tộc anh em với dân
số trên 780.000 người, trong đó dân tộc Tày chiếm 17%,.Nhưng trong đợt
kiến tập lần này em ấn tượng nhất với các nét sinh hoạt văn hóa, phong tục
tập quán của dân tộc Tày đặc biệt là nét đẹp giản dị trong bộ trang phục
truyền thống của phụ nữ
Dân tộc Tày ở Yên Bái có khoảng 120.000 người, chiếm 17% dân số
toàn tỉnh. Đồng bào Tày sống tập trung đông ở 7/7 huyện thị trong tỉnh (trừ 2
huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải). Trong đó đông nhất là các huyện: Lục
Yên 53,18% dân số; Văn Chấn 16,09%; n Bình: 15,56%; Văn n: 15%
dân số tồn huyện.
Địa bàn cư trú của đồng bào Tày phần lớn ở những nơi có điều kiện sản
xuất nơng nghiệp và thuận lợi giao thơng. Ngồi ra cịn ở các xã vùng cao cịn
gặp nhiều khó khăn trong việc thơng thương hàng hố, đi lại, đời sống cịn
nghèo như: Xn Long (huyện Yên Bình); Thượng Bằng La, Đồng Khê

6



(huyện Văn Chấn); Lâm Thượng, Khánh Thiện...(huyện Lục Yên); Việt Hồng,
Hồng Ca...(huyện Trấn Yên)...
Tên gọi dân tộc Tày là tên gọi chung và phổ biến nhất. Người Tày có
tiếng nói riêng thuộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái (dịng ngơn ngữ Nam Á).
Theo nhiều nhà nghiên cứu, người Tày là dân cư bản địa ở Việt Nam, cư trú
trên địa bàn rất rộng và chiếm dân số đông tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn,
Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang...
Người Tày sinh sống ở Yên Bái đã từ lâu đời. Một số người Tày ở
huyện Văn Yên di cư từ Lạng Sơn sang Yên Bái từ trước cách mạng tháng
Tám năm 1945. Một số người Tày ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên có gốc
người Việt di cư từ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên
Yên Bái, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dần dần đã Tày hoá. Bộ phận
người Tày ở vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng biệt so
với người Tày ở vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người Tày ở
vùng Đông Bắc Việt Nam.
Các dân tộc ở Yên Bái sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên
địa bàn của tỉnh với những bản sắc văn hóa phong phú đặc sắc. Tất cả đã hịa
quyện để tạo nên vốn văn hóa quý giá trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt
Nam. Một trong những sắc thái độc đáo tạo nên những nét riêng cho mỗi dân
tộc chính là bộ trang phục truyền thống. Trang phục các dân tộc là một nét
văn hóa đẹp, chúng khơng chỉ đặc trưng cho mỗi dân tộc mà cịn nói lên
phong tục, cách sống… của tộc người đó.
Trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng và cách trang trí
hoa văn khơng giống nhau. Nếu như trang phục của người Cao Lan, người
Tày và người Nùng đơn giản, không cầu kỳ về kiểu dáng và màu sắc thì trang
phục truyền thống của đồng bào Mông, Dao, Thái lại khá phong phú về hoa
văn và mềm mại về kiểu dáng. Tuy có sự khác nhau về cách bài trí nhưng
7



trang phục của các dân tộc đều được thiết kế tiện cho việc đi lại và thuận lợi
cho lao động hàng ngày. Cùng với những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo
và tâm hồn thẩm mỹ của các thiếu nữ tạo ra thì những bộ trang sức như các
loại vịng cổ, vịng tay bằng bạc là khơng thể thiếu được trong trang phục của
người dân tộc.Nhưng điều làm em ấn tượng nhất chính là “nét đẹp giản dị
trong bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Tày”
Là một trong 54 dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc
Tày sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như: Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái...Trong quá trình lao
động, sản xuất và phát triển, đồng bào dân tộc Tày đã tạo cho mình một bản
sắc riêng, thơng qua những nét văn hóa như ẩm thực, trị chơi dân gian, tiếng
nói và trang phục…Đặc biệt, trang phục của người Tày thường đơn giản, chủ
đạo là sắc chàm.
Đàn ông Tày mặc loại áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần
và giày vải. Áo cánh 4 thân (slửa cỏm) là loại xẻ ngực, cổ trịn cao, khơng cầu
vai, xẻ tà, cài cúc vải và hai túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong những dịp
tết, ngày lễ hay ngày hội, nam giới mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải,
đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm
như áo, cắt theo kiểu quần đũng chéo có độ chỗng vừa phải, dài tới mắt cá
chân, cạp rộng khi mặc có dây buộc ngồi. Khăn đội đầu màu chàm có chiều
rộng 30 cm dài 20 cm quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
Cũng giống như trang phục của đàn ông Tày, mầu sắc chủ đạo trong
trang phục của người phụ nữ Tày là sắc chàm. Trong những ngày tết, lễ...phụ
nữ Tày tóc vấn ngang đầu, chùm khăn vng mỏ quạ, mặc áo dài màu chàm,
gài khuy đồng bên phải, ngang lưng thắt dải chàm, hai đuôi dải buông dài
xuống đằng sau, chân đi hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ trịn, có
hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc
trắng. Khi đi hội thường được mặc lót phía trong áo dài (đây là chi tiết để


8


phân biệt với người Nùng chỉ dùng màu chàm). Áo dài của phụ nữ Tày cũng
là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn. Trước đây phụ nữ
Tày mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; Nón của phụ nữ Tày được
làm bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng khá độc đáo. Trang sức có đủ
các chủng loại cơ bản như vịng cổ, vịng tay, vịng chân, xà tích... làm tơn lên
vẻ đẹp của người phụ nữ, thường thì phụ nữ Tày chỉ đeo vòng cổ (kiềng bạc)
nổi bật trên nền chàm.
Trong cuộc sống hiện đại, ngày thường người Tày đã chuyển sang mặc
trang phục gần như người Kinh với áo cánh, áo sơ mi nhưng đối với họ trang
phục truyền thống vẫn không thể thiếu đặc biệt trong các ngày lễ, tết, cưới xin
và những dịp sinh hoạt văn hóa như thi ẩm thực, hát then, lễ mừng cơm
mới…Trang phục của người Tày đơn giản đi cùng điệu then làm nên nét đẹp
rất riêng của văn hóa Tày.

9


10



×