Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tu tuong HCM ve ket hop suc manh dan toc va suc manh thoi dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.88 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh</b>
<b>thời đại (05/10/2009)</b>


Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là: Kết hợp chủ
nghĩa u nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, là phải xây dựng được khối liên
minh chiến đấu giữa vơ sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến
công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu.


Theo Hồ Chí Minh, ngồi các động lực bên trong: phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh,
văn hóa, giáo dục, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm sao cho người người nhà nhà trở
nên giàu có về cả vật chất và tinh thần; còn phải biết kết hợp với sức mạnh thời đại: tăng
cường đoàn kết quốc tế, sử dụng tốt các thành quả khoa học-kỹ thuật của thế giới…


Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một hệ thống
luận điểm khoa học thấm đượm tinh thần độc lập tự chủ và tinh thần quốc tế trong sáng,
khơng phải chỉ có giá trị chỉ đạo đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay mà cịn có
giá trị định hướng lâu dài cho cả sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta vì các mục tiêu cao cả
của thời đại: hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ thiên tài trí tuệ và vốn hoạt động thực
tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã sớm đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính thế giới
quan và phương pháp luận Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân đã giúp Hồ
Chí Minh thấy rõ được đặc điểm và bản chất của thời đại, đặt cách mạng Việt Nam trong sự
ắn bó với cách mạng thế giới, đề ra được đường lối đúng đắn để dẫn dắt nhân dân ta đi từ


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những bài học thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các Đại hội của
Đảng ta liên tiếp khẳng định và nêu cao. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tâp trung ở cuộc
cách mạng khoa học và cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa. Chúng ta phải tranh thủ tối đa các
cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách


hợp lý để thu hút đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại. Muốn vậy, ta phải có
đường lối chính trị độc lập tự chủ.


Tranh thủ hợp tác, tiếp thu tinh hoa văn hóa quốc tế phải đi đơi với thường xuyên khơi dậy
chủ nghĩa yêu nước, trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc nhằm gia tăng quyền lực
quốc gia.


Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại là một điều kiện khơng thể thiếu để giúp chúng ta tìm ra những đối sách
phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên giành thắng lợi


Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Người ra đi tìm đường cứu nước mang theo nhận thức
và niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa u nước; tinh
thần đồn kết; ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do; ý thức tự lực tự cường.
Người đặc biệt đề cao sức mạnh của lịng u nước. Vì vậy dù trong hồn cảnh đen tối nhất,
Người vẫn bộc lộ một niềm tin lạc quan tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc.


Mặc dù đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Nhưng một câu
hỏi lớn vẫn đặt ra trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh: “Tại sao các cuộc vận động cứu nước,
giải phóng dân tộc từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX vẫn cứ lần lượt bị thất bại?”.
Người quyết định ra nước ngồi tìm hiểu thế giới, tìm hiểu kẻ thù ở ngay trong sào huyệt của
chúng để từ đó tìm ra đường lối và phương pháp đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước giải
phóng dân tộc.


Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại được hình thành từng bước, từ cảm tính
đến lý tính, thông qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành lý luận.


Ra đi tìm đường cứu nước trong tư cách người lao động, hịa mình trong mơi trường hoạt
động của giai cấp cơng nhân, Hồ Chí Minh chứng kiến cuộc sông khổ cực của nhân dân các
nước thuộc địa: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này có hai giống người: giống người bóc


<i>lột và giống người bị bóc lột”. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành nhận thức: muốn giải</i>
<i>phóng dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác cùng chung cảnh ngộ.</i>
<i>“Rằng đây bốn biển một nhà</i>


<i>Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sản thế giới. Để chiến thắng kẻ thù, cách mạng Việt Nam cần dựa vào bên trong, đồng thời
phải tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của quốc tế. Điểm vượt lên của Hồ Chí Minh so với các
lãnh tụ yêu nước thế kỷ XX chính là ở chỗ nâng cao nhận thức của người về sức mạnh thời
đại.


Hồ Chí Minh cho rằng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, là phải xây dựng được khối liên minh
chiến đấu giữa vô sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công
chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu. Từ tuyên truyền đến nhận thức, Người tham gia thành lập
hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, sản xuất tờ báo “Người cùng khổ”, tích cực tham gia thành
lập hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.


Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát
triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố của sức mạnh thời đại. Người nhắc nhở thế hệ thanh
niên phải ra sức học tập, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được, chiếm lĩnh
những đỉnh cao khoa học, để Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.


Như vậy, từ khi tìm thấy “ánh sáng kỳ diệu” chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu nước trở
thành người cộng sản, xác định con đường cách mạng vơ sản là duy nhất, Hồ Chí Minh ngày
càng nhận thức được vai trò quan trọng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại, nâng nó thành bài học to lớn cho cách mạng Việt Nam nói riêng, đường lối chính
sách Đảng ta nói chung.


Nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mới, Hồ Chí Minh hoạt động khơng


mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người nhận thức khả năng và
sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô
sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung. “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận
trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam
cả”.


Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân “gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương
Đơng, đó là SỰ BIỆT LẬP…Họ hồn tồn không biết đến những việc xảy ra ở các nước
láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và
sự cổ vũ lẫn nhau.


Do nhiều nguyên nhân, giai cấp cơng nhân ở phương Tây lúc đó chưa có hiểu biết đầy đủ và
chính xác về vấn đề thuộc địa. Theo họ, nhiệm vụ của giai cấp vô sản quốc tế là làm trong
sạch sứ mạng khai hoá của chủ nghĩa tư bản ở thuộc địa, để khơng cịn những hành động bạo
ngược, tàn ác nữa. Lênin kiên quyết đấu tranh chống lại quan điểm sai lầm này. Nguyễn Ái
Quốc đã bảo vệ và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược
của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản; cách
mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên kết chặt chẽ với phong trào giải phóng
chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng
vô sản.


Muốn kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phải kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, các Đảng Cộng sản phải kiên trì đấu tranh
chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ
nghĩa sôvanh…những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực
lượng cách mạng thế giới.


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở nhân dân ta: Tinh thần yêu nước chân chính khác


hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần
quốc tế.


Để chia rẽ các dân tộc, chủ nghĩa thực dân truyền bá hệ tư tưởng của chủ nghĩa chủng tộc,
khuyến khích thói kỳ thị màu da…Từ rất sớm, trên tờ truyền đơn bằng tiếng Việt của Ban
Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi: “Vì nền hồ
bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại
và chống bọn áp bức”.


Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục
nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc với nhân dân lao động yêu
chuộng công lý và hồ bình ở các nước đi xâm lựơc. Có thể nói, ở Hồ Chí Minh khơng hề có
chút gợn nào của tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Người vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; kháng chiến chống Mỹ bảo vệ độc lập tự do,
Người vẫn ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Mỹ. Hồ Chí Minh
chính là biểu tượng cao đẹp của sự kết hợp giữa lòng yêu nước nhiệt thành với tinh thần
quốc tế trong sáng.


Khi phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có sự chia rẽ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã hoạt động khơng mệt mỏi để góp phần khơi phục lại sự đồn kết quốc tế trên cơ sở
những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại
đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế trong sáng.


Thứ nữa, dựa vào sức mạnh mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời khơng qn nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Hồ Chí Minh đi tới luận điểm: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách
mang vô sản ở chính quốc mà trong điều kiện lịch sử nhất định, có thể và cần thiết phải chủ


động tiến hành trước và bằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa mà góp phần “giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn” .


Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân
tộc mình với bốn mục tiêu của thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.


Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ cao nhất sự ủng hộ và
giúp đỡ của loài người tiến bộ, nhân dân ta đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao
cả của mình. Người đặc biệt coi trọng khối đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia, định
<i>hướng hình thành ba tầng mặt trận: mặt trận đại đồn kết dân tộc, mặt trận đoàn kết Việt</i>
Nam – Lào – Campuchia, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc
xâm lược.


Thắng lợi trong công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam có phần đóng góp to lớn của nhân
dân quốc tế; đồng thời góp phần suy yếu chủ nghĩa đế quốc, góp phần củng cố hịa bình thế
giới, mở rộng và tăng cường lực lượng cho Chủ nghĩa xã hội.


Tiếp đến phải mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả các
nước dân chủ”


Trong những năm bơn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống, làm
việc, hoạt động ở nhiều nước, với tinh thần “ Bốn phương vô sản đều là anh em”, do đó
Người có vinh dự đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân
nhiều nước trên thế giới.


Sau khi nước ta giành lại được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao
của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới
<i>để giữ gìn hồ bình”. “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á Châu là một thái độ</i>


<i>anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Có thể xem những tuyên bố trên đây là tư</i>
tưởng đặt nền móng cho phương châm đa phương hố, đa dạng hố cơng tác đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.


Trong quan hệ mở rộng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành ưu tiên cho mối quan hệ với các
nước láng giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước có chung biên giới với Việt Nam,
trước hết là Lào và Campuchia, nhằm hình thành liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung.
Đối với nước lớn Trung Quốc- một nước có quan hệ lịch sử- văn hố lâu đời với Việt Nam,
phát huy truyền thống hồ hiếu của cha ông, xây đắp mối quan hệ “Vừa là đồng chí vừa là
anh em”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tóm lại, với trí tuệ thiên tài, chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đức độ khiêm nhường, thái độ
thiện chí; vượt qua mn vàn khó khăn trở ngại, Hồ Chí Minh đã đề ra những chủ trương,
đối sách quốc tế đứng đắn, sáng tạo. Tư tưởng phát huy tối đa sức mạnh dân tộc kết hợp với
<i>sức mạnh thời đại đưa cách mạng Việt nam từng bước thắng lợi trong thế kỷ XX, nước ta từ</i>
<i>một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo</i>
<i>con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng</i>
<i>trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ</i>
<i>đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào</i>
<i>thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp hồ</i>
bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên thế giới.


Thế giới ngày nay đầy biến động phức tập. Khoa học và cơng nghệ có nhiều bước tiến nhảy
vọt. Kinh tế tri thức đóng vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản
xuất. Tồn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia
chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề tồn cầu mà khơng


một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương như: bảo
vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo, chống
tội phạm quốc tế. Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới.
Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng
tăng. Hồ bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc
gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công
bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới. Khu vực Đơng Nam Á, Châu Á - Thái Bình Dương
có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.


Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song
không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hố ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát
triển. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết
định con đường phát triển của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từng bước tạo ra bước
phát triển mới…


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải</i>
<i>thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh.” </i>
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, chúng ta cần quán triệt và vận dụng tốt những quan
điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sưc mạnh thời đại.


Đảng ta vẫn luôn luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của
cách mạng thế giới


Việt Nam tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến
bộ của thời đại vì các mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.



Phát huy bài học kết hợp sức manh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế tiến hành cơng cuộc đổi mới vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một đóng góp thiết thực
vào đổi mới chủ nghĩa xã hội, vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân thế giới. Hiện
nay, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi
quốc tế vẫn đang tồn tại. Mục tiêu bất biến của chúng ta vẫn là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta không nhận thức sâu sắc điều này, nếu chập chờn, dao động
thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ không thể tiến hành thắng lợi mà độc
lập dân tộc cũng khó giữ vững được, đất nước sẽ rơi vào mất ổn định và sự nghiệp đổi mới
cũng sẽ không thể thành công.


<i>Nêu cao nguyên tắc phát huy sức mạnh bên trong: độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ</i>
<i>trương tận lực phát huy sức mạnh dân tộc – sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh</i>
<i>của người làm chủ, sức mạnh đại đồn kết tồn dân,… Thực hiện tốt chính sách các dân tộc</i>
bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói, giảm
nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền
xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và
kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân
tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trị của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc
và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.


Chỉ có trên cơ sở sức mạnh bên trong chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng được sự
đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách
mạng mỗi thời kỳ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân trong điều kiện
thực hiện cơ chế thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và kết nạp đảng


viên từ những công nhân ưu tú; tăng thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Đối với giai cấp nông dân, ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thơn và phát huy vai trị giai cấp
nơng dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, phát triển nơng thơn; thực hiện tốt các chính sách về
ruộng đất, phát triển nơng nghiệp tồn diện, tiêu thụ nơng sản hàng hố, bảo hiểm sản xuất
và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn; phân bố dân cư theo
quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xố đói, giảm nghèo.


Đối với trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để thu nhận thông tin, tiếp cận các thành tựu mới của
khoa học, cơng nghệ và văn hố thế giới, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức chun mơn.
Khuyến khích tự do sáng tạo, phát minh, cống hiến. Phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và
đãi ngộ xứng đáng các tài năng.


Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển tồn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài
năng và sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích.


Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo
nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều
vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc-bảo vệ sức khoẻ bà mẹ
và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.


Đối với cựu chiến binh, phát huy bản truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích cực tham gia xây
dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp cải thiện đời sống; giáo
dục truyền thống và chủ nghĩa anh hùng cho thế hệ trẻ.


Đối với các lão thành cách mạng, những người có cơng với nước, các cán bộ nghỉ hưu,
những người cao tuổi, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao
đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu được thông tin, phát huy


khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt,
giáo dục lý tưởng và truyền thống.


Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, đây là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước chăm lo cung cấp thơng tin về tình
hình đất nước, bảo hộ quyền lợi chính đáng của đồng bào, nâng cao lịng u nước và trách
nhiệm cơng dân, ý thức cộng đồng, tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn
hố và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đề ra chính sách dân tộc là "Đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc, cùng tiến bộ". Chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống
của đồng bào, sống "tốt đời, đẹp đạo", phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hố, đạo đức tơn
giáo.


Đối với các nhà doanh nghiệp, nêu cao vai trò và trách nhiệm đối với sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, phát triển kinh tế - xã hội; khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi để
kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật; có những hình thức biểu dương cơng sức của
những người quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi.


<i>Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, chúng ta phải mở rộng</i>
<i>quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ và gia nhập thị</i>
<i>trường quốc tế, nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực,</i>
dựa vào các nguồn lực trong nước là chính. Bao gồm; ngồn lực con người, đất đai, tài
ngun, trí tuệ, truyền thống. Nếu khơng độc lập tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì
khơng thể đứng vững và đi lên một cách vững chắc, lâu bền và cũng không thể hội nhập
kinh tế quốc tế một cách bình đẳng.


Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã đề ra tư
<i>tưởng chỉ đạo: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực,</i>
<i>nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại</i>


<i>hóa…Nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập</i>
<i>quốc tế…”.Đó là biểu hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có phát huy cao</i>
nhất các nguồn lực, trước hết là nguồn lực con người, chúng ta mới có thể thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mới bảo vệ được độc lập, chủ quyền khi hội nhập với
thế giới.


Sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng.Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam X, được gọi chính thức là Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X được tổ chức
từ ngày 18/4 đến 25/4/06 tại Hà Nội đã đưa ra báo cáo:


<i>Kinh tế tăng trưởng khá. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng</i>
khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát
triển tương đối toàn diện. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực.
Việc nuôi trồng và khai thác thủy sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất cơng nghiệp
bình qn hằng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính - viễn thơng, đường
sá, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và
nhập khẩu đều phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- xã hội. Phong trào thể dục, thể thao phát triển; một số bộ mơn đạt thành tích cao trong
nước và quốc tế. Việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được đẩy mạnh.
<i> Tình hình chính trị-xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường.</i>
Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Việc kết hợp quốc phịng và an ninh với phát triển kinh tế và
cơng tác đối ngoại có tiến bộ.


<i>Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảngđạt một số kết quả tích cực. Việc xây dựng Nhà nước</i>
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.


Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan


hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, Ngoại giao đã trở thành mặt trận quan trọng trong
<i><b>thời bình và đã góp phần giữ vững và củng cố mơi trường hồ bình và tạo những điều</b></i>
<i><b>kiện quốc tế ngày càng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị</b></i>
<i><b>thế và uy tín của nước ta ở khu vực và trên thế giới. </b></i>


Thành tựu đối ngoại có tính chất bao trùm trong thời gian qua là từ chỗ bị cô lập về chính trị,
<i>bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã chủ động, nỗ lực mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ</i>
<i>đối ngoại của mình theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Trong 20 năm đổi mới, Việt</i>
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao thêm với 57 nước, nâng tổng số quốc gia có quan hệ
chính thức lên 169 nước; và có quan hệ bn bán với 224/ 255 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ.


Việt Nam đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và ngày
<i>càng đi vào chiều sâu với các nước láng giềng, khu vực; góp phần đáng kể vào việc duy trì</i>
mơi trường an ninh xung quanh Việt Nam và phục vụ cho cơng cuộc phát triển kinh tế.


Bước phát triển mang tính đột phá trong triển khai hoạt động đối ngoại thời kỳ Đổi mới:
Việt Nam đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến từng bước nâng cấp và xác lập khn khổ
quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính
trị lớn và các nước cơng nghiệp phát triển.


Trong triển khải chính sách đa dạng hố, đa phương hố quan hệ quốc tế, Việt Nam đã tích
cực, chủ động củng cố và phát triển quan hệ hợp tác với các nước bạn bè truyền thống và các
nước đang phát triển khác ở Trung Đông, Châu Phi và Mỹ La tinh.


<i>Hoạt động ngoại giao đa phương đã có bước phát triển vượt bậc; góp phần nâng cao hơn</i>
nữa vai trị và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế như Liên hiệp quốc,
Phong trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác
kinh tế Châu Á – Thái bình dưong (APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), từng buớc
đưa Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

kinh tế đối ngoại, góp phần tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị trường, gia tăng
đối tác, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.


<i>Cơng tác về người Việt Nam ở nước ngồi được thúc đẩy mạnh mẽ và đã thu được những</i>
kết quả tích cực, quan trọng. Số lượng bà con Việt kiều về thăm quê hương, tìm kiếm cơ hội
đầu tư buôn bán ở trong nước ngày càng gia tăng.


Đạt được những thành tựu trên là nhờ Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, đặc biệt là tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.


</div>

<!--links-->

×