Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và sự dâng cao của nước biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.06 KB, 58 trang )

1
LỜI GIỚI THIỆU
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi: khí hậu
biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm
môi trường, suy giảm đa dạng sinh học… Trong đó, biến đổi khí hậu là một vấn đề
hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu
là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,7
0
C
kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các
nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu trên thế
giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định:
các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã làm
cho khí hậu toàn cầu nóng lên.
Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh hưởng
hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu
dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ
lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây,
loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi trường và thực hiện
cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu.
Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham
gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các
nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát
triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến
đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối phó và thích
ứng với sự biến đổi khí hậu của Việt Nam là một việc làm cấp thiết trong thời gian tới.
Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biên soạn Tổng luận “TÁC
ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN”
nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu có


cách nhìn bao quát hơn về nguy cơ biến đổi khí hậu tòan cầu, từ đó đưa ra các quyết
sách hợp lý nhằm thích ứng và đối phó với xu thế này.
TRUNG TÂM THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA
2
MỞ ĐẦU
Trong những năm 80, bằng chứng khoa học về khả năng biến đổi khí hậu toàn cầu
đã dẫn đến sự quan tâm chung ngày càng tăng. Từ năm 1990, một loạt các hội nghị
quốc tế đã đưa ra những lời kêu gọi khẩn cấp để có một hiệp ước toàn cầu về vấn đề
này. Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) và Tổ chức Khí tượng Thế
giới (WMO) đã hưởng ứng bằng cách thiết lập nhóm Công tác Liên Chính phủ để
chuẩn bị cho các cuộc hiệp thương của Hiệp ước. Đã có sự tiến bộ nhanh chóng, một
phần do sự nỗ lực của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) và các cuộc
họp về biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Đáp lại kiến nghị của Nhóm Công tác, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc tại khóa họp
năm 1990 đã thành lập Ủy ban Hiệp thương Liên Chính phủ cho một Công ước khung
về Biến đổi khí hậu (INC/FCCC). INC/FCCC đã được ủy nhiệm soạn thảo một Công
ước khung và các công cụ pháp lý bất kỳ liên quan được coi là cần thiết. Những nhà
thương thuyết từ hơn 150 quốc gia đã gặp nhau trong 5 phiên họp trong khoảng thời
gian từ tháng 2/1991 đến tháng 5/1992 và đã chấp nhận Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về Biến đổi khí hậu vào ngày 9 tháng 5 năm 1992 tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở
New York.
Ngay sau đó, tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển, hay
thường gọi là Hội nghị Thượng đỉnh, đã được tổ chức vào tháng 6 năm 1992, ở Rio de
Janeiro, Braxin, 155 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Công ước Khung của Liên
hợp quốc về Biến đổi khí hậu. Mục tiêu của Công ước là nhằm “ổn định các nồng độ
khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm
của con người đối với hệ thống khí hậu”.
Nghị định thư Kyoto của Công ước khí hậu là văn bản pháp lý để thực hiện Công
ước khung về Biến đổi khí hậu có hiệu lực kể từ ngày 16/2/2005 bằng sự phê chuẩn
của Nga (tháng 10/2004). Nội dung quan trọng của Nghị định thư Kyoto là đưa ra Chỉ

tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển
và cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt được sự phát triển kinh tế, xã hội một cách
bền vững thông qua thực hiện "Cơ chế phát triển sạch"(CDM). Bản thỏa thuận nêu
cam kết của các nước công nghiệp hóa giảm phát thải sáu loại khí nhà kính ở mức 5%
vào năm 2012.
Tháng 12/2007, Hội nghị về khí hậu của Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Bali,
Inđônêxia, các đại biểu đến từ gần 190 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ đã cố gắng tìm ra
một lộ trình cho các cuộc đàm phán về một công ước nóng lên toàn cầu mới sẽ có hiệu
lực vào năm 2012, khi kết thúc thời kỳ cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto. Hội
nghị Bali có ba mục tiêu chính: (1) Mở đầu các đàm phán về ứng phó với biến đổi khí
hậu giai đoạn sau năm 2012; (2) Đưa ra lịch trình đàm phán quốc tế; (3) Đạt được
Thỏa thuận quốc tế mới nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu. Các
quyết định đưa ra tại Hội nghị Bali lần này sẽ mở đầu cho quá trình đạt được các thỏa
thuận vào đầu năm 2009, là một dấu hiệu thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng quốc tế
3
cùng ứng phó với biến đổi khí hậu. Hội nghị các Bên lần này đóng một vai trò quan
trọng trong việc thành lập một chương trình nghị sự ứng phó với biến đổi khí hậu
trong tương lai.
Báo cáo “Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao đối với các nước đang phát
triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố đầu năm 2007 cho
biết: Mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1m thì sẽ gây hiểm họa lớn đối với các nước
có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp ở ven biển.
Theo Báo cáo Tình trạng môi trường biển của Chương trình hành động toàn cầu thuộc
UNEP (2006), thì hiện nay, gần 40% dân số thế giới sống tại các vùng ven biển hẹp
(chỉ chiếm 6,7% diện tích bề mặt Trái Đất) và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Mật độ dân số tại khu vực bờ biển có thể tăng từ 77 người/km
2
năm 1990, lên
tới 115 người/km
2

năm 2025.
Với nguy cơ nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đối với các cộng
đồng ven biển là không thể tránh khỏi. Còn theo đánh giá của Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ
bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1m, Việt Nam
sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp
và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng 3-5m đồng nghĩa với một thảm họa
có thể xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam phải xây dựng kịch bản thích ứng và đối phó chi
tiết vấn đề khí hậu và nước biển dâng, để từ đó đưa ra các chính sách, chương trình
hành động đúng, bởi biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là vấn đề của từng ngành,
mà liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác.
Như vậy, Trái đất nóng lên, nước biển dâng cao và biến đổi khí hậu đến nay không
còn là vấn đề riêng của một nước nào mà đó là vấn đề chung, là trách nhiệm của toàn
cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và thực hiện các hành động
chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn ngừa và hạn chế tác động
của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu như nước biển dâng. Tài liệu
này tổng hợp chung về tình hình biến đổi khí hậu và đánh giá những ảnh hưởng của sự
gia tăng mực nước biển đối với một số quốc gia có biển trong khu vực, dựa trên tổng
hợp thông tin từ các Báo cáo lần thứ 4, xuất bản năm 2007 của Ủy ban Liên chính phủ
về biến đổi khí hậu (IPCC), Báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao đối với
các nước đang phát triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB), Báo cáo
Phát triển Con người 2007-2008 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP), tài liệu về thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của một số quốc
gia trong khu vực như Trung Quốc, Bănglađét cùng một số kết quả điều tra khảo sát
của các nhà khoa học Việt Nam. Hy vọng rằng những đánh giá trên sẽ cung cấp thông
tin cho Việt Nam trong việc xây dựng chiến lược và các chương trình nhằm thích ứng
với sự biến đổi khí hậu, giảm thiểu những tổn thất do biến đổi khí hậu và mực nước
biển dâng cao, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường.
4

I. TỔNG QUAN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
DÂNG CAO NƯỚC BIẾN
1.1. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
1.1.1. Một số khái niệm
Hiệu ứng nhà kính
Nhiệt độ bề mặt Trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng Mặt trời đến
bề mặt Trái đất và năng lượng bức xạ của Trái đất vào khoảng không gian giữa các
hành tinh. Năng lượng Mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ
khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của Trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình +16
o
C là
sóng dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp
thụ bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO
2
, bụi, hơi nước, mêtan (CH
4
), CFC ...
Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa Trái đất với
không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển Trái đất. Hiện
tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và được gọi là “hiệu
ứng nhà kính”.
Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch của loài người đang làm cho nồng độ khí
CO
2
của khí quyển tăng lên. Sự gia tăng khí CO
2
và các khí nhà kính khác trong khí
quyển Trái đất làm nhiệt độ Trái đất tăng lên. Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của
các chất khí được xếp theo thứ tự sau: CO
2

=> CFC => CH
4
=> O
3
=>NO
2
. Sự gia tăng
nhiệt độ Trái đất do Hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của môi
trường Trái đất.
Biến đổi khí hậu
Hệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và
sinh quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những thành
phần này. Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất nhiều.
Nhiều quá trình hồi tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò tăng
tường sự biến đổi khí hậu hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung của LHQ
về biến đổi khí hậu đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của
biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra
những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản
của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống
kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động
tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí
nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn
chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí
nhà kính chủ yếu bao gồm: CO
2
, CH
4
, N
2

O, HFCs, PFCs và SF
6
.
• CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí
nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh ra tử các
hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
• CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
5
• N
2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
• HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản
phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22.
• PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
• SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của
con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp,
các đảo nhỏ trên biển.

- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau
của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái
và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của
thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
1.1.2. Các nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu
Bằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt
độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng
mực nước biển trung bình trở nên phổ biến. 11 trong số 12 năm qua (1995-2006) được
xếp vào những năm có nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng kỷ lục (từ năm 1850). Xu thế
nhiệt độ tăng trong 100 năm (kể từ năm 1906 – 2005) là 0,74
0
C (0,56
0
C đến 0,92
0
C),
lớn hơn xu thế được đưa ra trong báo cáo đánh giá lần thứ 3 của IPCC là 0,6
0
C (từ
0,4
0
C đến 0,8
0
C) (1901-2000). Sự gia tăng nhiệt độ đang trở nên phổ biến trên toàn
cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao ở phía bắc. Khu vực đất liền nóng lên
nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về nồng độ khí nhà kính trong khí
quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm thay đổi cân bằng năng

lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do con người đã
tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng thời gian
từ 1970 đến 2004.
Khí CO
2
là loại khí nhà kính quan trọng nhất do các hoạt động của con người tạo ra. Từ
năm 1970 đến năm 2004, phát thải hàng năm của loại khí này tăng khoảng 80%. Xu thế
giảm dài hạn khí thải CO
2
trên một đơn vị năng lượng đã bị đảo ngược sau năm 2000.
Năm 2005, nồng độ CO
2
trong khí quyển là 379 ppm và CH
4
là 1.774 ppm, vượt xa
mức tự nhiên trong hơn 650.000 năm qua. Nồng độ CO
2
trên toàn cầu tăng chủ yếu do
sử dụng nhiên liệu hoá thạch và thay đổi mục đích sử dụng đất (hoạt động này chỉ góp
một phần nhỏ). Tăng nồng độ CH
4
chủ yếu do nông nghiệp và đốt nhiên liệu hóa
thạch. Tốc độ tăng CH
4
cũng đã giảm kể từ những năm đầu thập kỷ 90.
Kể từ 1750, nồng độ CO
2
, CH
4
, N

2
O trong khí quyển toàn cầu tăng rõ rệt do các
hoạt động của con người và hiện nay vượt xa so với mức của thời kỳ trước cách mạng
công nghiệp, làm tan chảy cả các khối băng đã tồn tại qua hàng nghìn năm.
6
Hầu hết sự gia tăng nhiệt độ trung bình trên toàn cầu quan sát được từ giữa thế kỷ
20 có thể do tăng nồng độ khí nhà kính. Trong hơn 50 năm qua, nhiệt độ ở các lục địa
(trừ Nam Cực) đã tăng lên đáng kể.
Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển. Từ năm 1961, mực nước biển trung
bình trên toàn cầu dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm (từ 1,3-2,3 mm/năm)
và từ năm 1993 ở mức 3,1mm/năm (từ 2,4- 3,8 mm/năm), do sự dãn nở vì nhiệt, tan
các mũ băng và những tảng băng ở vùng cực. Tốc độ băng tan diễn ra nhanh nhất
trong thời gian từ 1993 đến 2003 thể hiện sự biến đổi trong một thập kỷ, chứ chưa phải
là một xu thế tan chảy dài hạn rõ ràng.
Nóng lên toàn cầu làm giảm lượng băng và tuyết. Dữ liệu vệ tinh từ năm 1978 chỉ
ra rằng, trung bình hàng năm, diện tích băng biển ở Bắc cực giảm khoảng 2,7%/thập
kỷ (từ 2,1-3,3%/thập kỷ), mức giảm lớn nhất trong mùa hè là 7,4%/thập kỷ (5,0-
9,8%/thập kỷ). Độ che phủ băng và tuyết ở vùng núi nhìn chung giảm ở cả hai bán
cầu.
Từ năm 1900 đến 2005, lượng mưa tăng đáng kể ở các khu vực phía đông của Bắc
và Nam Mỹ, Bắc Âu, Bắc và Trung Á, nhưng giảm ở Sahel, Địa Trung Hải, Nam Phi
và các khu vực Nam Á. Tổng diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn hán đã tăng lên từ những
năm 1970.
Rõ ràng là trong hơn 50 năm qua: số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá ít hơn ở hầu
hết các khu vực đất liền và tăng số ngày nóng, đêm nóng. Các đợt sóng nhiệt trở nên
thường xuyên hơn ở hầu hết các khu vực đất liền, tần suất của các hiện tượng như mưa
lớn tăng ở hầu hết các khu vực và kể từ năm 1975 phạm vi ảnh hưởng của mực nước
biển cao tăng trên toàn thế giới.
Bão nhiệt đới gia tăng, xuất hiện với cường độ mạnh ở Bắc Đại Tây Dương từ
khoảng năm 1970 và không thấy tăng lên ở những nơi khác. Cũng không có xu thế rõ

ràng về số lượng các cơn bão nhiệt đới hàng năm. Khó có thể xác định được xu hướng
lâu dài về hoạt động của bão, đặc biệt trước năm 1970.
Nhiệt độ trung bình của Bắc bán cầu trong nửa sau của thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ
giai đoạn 50 năm nào trong 500 năm gần đây và có thể cao nhất trong ít nhất 1300
năm qua. Bằng chứng quan sát được từ tất cả các châu lục và hầu hết các đại dương
chỉ ra rằng, nhiều hệ thống tự nhiên đang bị ảnh hưởng bởi những biến đổi khí hậu khu
vực, đặc biệt là nhiệt độ tăng.
Những biến đổi về tuyết, băng và các vùng đất đóng băng, kích thước các hồ băng
và sự bất ổn ở các vùng núi và vùng đóng băng khác dẫn đến những thay đổi ở một số
hệ sinh thái ở Nam Cực và Bắc Cực.
Một số hệ sinh thái dưới nước cũng bị ảnh hưởng do tăng lưu lượng nước, ảnh
hưởng đến cấu trúc nhiệt và chất lượng nước sông hồ. Với các hệ sinh thái trên cạn,
mùa xuân đến sớm hơn, xu thế dịch chuyển lên các cực và dịch chuyển lên cao đối với
một số hệ động vật, thực vật có liên quan đến hiện tượng nóng lên gần đây. Còn với
các hệ sinh thái biển và nước ngọt, những thay đổi về hệ động vật, thực vật và sự
phong phú của tảo, sinh vật phù du và cá liên quan đến sự gia tăng nhiệt độ của nước,
cũng như liên quan đến những thay đổi về độ che phủ của băng, độ mặn, hàm lượng
ôxy và sự lưu thông của nước.
7
Có thể tóm lược những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các khu vực trên thế
giới như sau:
Châu Phi - Vào năm 2020, khoảng từ 75 - 250 triệu người sẽ phải chịu áp lực lớn
về nước do biến đổi khí hậu.
- Vào năm 2020, ở một số nước, sản lượng nông nghiệp dựa vào nước
mưa có thể giảm tới 50%. Sản xuất nông nghiệp tại nhiều nước châu
Phi sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu hơn tới an ninh
lương thực và tăng tình trạng suy dinh dưỡng.
- Đến cuối thế kỷ 21, mực nước biển dâng sẽ gây ảnh hưởng tới các
vùng trũng ven biển, đông dân cư. Chi phí thích ứng có thể chiếm ít
nhất từ 5%-10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

- Năm 2080, diện tích đất khô cằn và bán khô cằn ở châu Phi sẽ tăng từ
5%-8% theo các kịch bản khí hậu.
Châu Á - Đến những năm 2050, lượng nước ngọt có thể sử dụng được ở Trung
Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại các lưu vực sông lớn
sẽ giảm.
- Vùng ven biển, nhất là các vùng châu thổ rộng lớn đông dân ở Nam Á,
Đông Á và Đông Nam Á sẽ chịu rủi ro nhiều nhất, do lũ từ sông, biển.
- Biến đổi khí hậu kết hợp đô thị hoá, công nghiệp hoá và phát triển kinh
tế nhanh chóng gây áp lực tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
- Sự hoành hành của dịch bệnh và tỷ lệ tử vong do tiêu chảy, chủ yếu
liên quan đến lũ lụt và hạn hán sẽ gia tăng ở Đông Á, Nam Á và Đông
Nam Á do những thay đổi trong chu trình thuỷ văn.
Ôxtrâylia
và New
Zealand
- Vào năm 2020, suy giảm đa dạng sinh học ở mức cao sẽ diễn ra tại một
số điểm giàu đa dạng sinh học, gồm có Rạn san hô Great Barrier và
các vùng nhiệt đới ẩm ướt ở Queensland, Ôxtrâylia.
- Đến 2030, các vấn đề về an ninh nguồn nước sẽ trầm trọng hơn ở miền
nam và đông Ôxtrâylia, tại miền Bắc và một số vùng Đông New
Zealand .
- Vào năm 2030, sản xuất nông, lâm nghiệp sẽ giảm ở hầu hết miền
đông nam Ôxtrâylia và các vùng miền đông New Zealand do hạn hán
và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Tuy nhiên, một số vùng khác ở New
Zealand sẽ được hưởng những lợi ích ban đầu.
- Vào năm 2050, phát triển ven biển và tăng dân số ở một số khu vực
thuộc Ôxtrâylia và New Zealand sẽ làm tăng nguy cơ mực nước biển
dâng, tăng tần suất và cường độ của bão, lũ ven biển.
Châu Âu - Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng sự khác biệt giữa các khu vực. Các tác
động tiêu cực bao gồm tăng nguy cơ xảy ra lũ quét trong nội địa, lũ lụt

ven biển thường xuyên hơn và xói mòn mạnh hơn (do bão lớn và mực
nước biển dâng cao).
- Các vùng núi sẽ phải đối mặt với sự thu hẹp của sông băng, độ che phủ
của tuyết giảm và suy giảm số lượng lớn các loài (vào năm 2080, ở
8
một số khu vực tỷ lệ suy giảm là 60% tuỳ theo các kịch bản phát thải )
- Ở Nam Âu - vùng đã từng dễ bị tổn thưởng bởi tính bất thường của khí
hậu - biến đổi khí hậu sẽ làm cho các điều kiện (nhiệt độ cao và hạn
hán) nghiêm trọng hơn và nhìn chung làm giảm khả năng sử dụng
nước, tiềm năng thuỷ điện, du lịch và năng suất cây trồng.
- Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm tăng mối nguy hiểm tới sức khoẻ vì các
đợt sóng nhiệt và tần suất cháy rừng tự nhiên.
Châu Mỹ
La tinh
- Giữa thế kỷ này, ở miền Đông Amazôn, nhiệt độ tăng cao kết hợp với
suy giảm lượng nước sẽ dẫn đến sự thay thế rừng nhiệt đới bằng các
hoang mạc. Thảm thực vật bán khô hạn sẽ được thay thế bằng thảm
thực vật khô hạn.
- Nguy cơ mất đa dạng sinh học ở mức cao là do sự tuyệt chủng các loài
ở nhiều khu vực thuộc vùng nhiệt đới ở Mỹ La tinh.
- Năng suất của một số loại cây trồng quan trọng và khả năng sinh sản
của gia súc sẽ giảm gây hậu quả bất lợi tới an ninh lương thực. Nhìn
chung, số lượng người có nguy cơ bị đói gia tăng.
- Những thay đổi trong các mô hình về lượng mưa và sự biến mất của
các sông băng sẽ gây ảnh hưởng tới khả năng sử dụng nước phục vụ
cho con người, nông nghiệp và thuỷ điện.
Bắc Mỹ - Nóng lên ở các dãy núi miền tây sẽ làm giảm lớp tuyết phủ, tăng lũ lụt
mùa đông và giảm lưu lượng nước mùa hè khiến cho cuộc cạnh tranh
vì tài nguyên nước phân bổ không đều diễn ra khốc liệt hơn.
- Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ này, biến đổi khí hậu ở mức vừa

phải sẽ nâng tổng sản lượng của ngành nông nghiệp dựa vào nước mưa
thêm từ 5%-20%, nhưng sản lượng tăng thêm lại thay đổi theo vùng.
- Các thành phố đang trải qua các đợt sóng nhiệt sẽ gặp phải thách thức
lớn hơn vì trong suốt thế kỷ này các đợt sóng nhiệt gia tăng về số
lượng, cường độ và thời gian, gây tác động tiêu cực tới sức khoẻ.
- Các cộng đồng và nơi cư trú ven biển sẽ phải chịu ngày càng nhiều áp
lực do các tác động của biến đổi khí hậu.
Các vùng
cực
- Các ảnh hưởng chủ yếu sẽ là giảm độ dày và diện tích của các sông
băng, mũ băng và băng biển, những thay đổi trong các hệ sinh thái tự
nhiên gây ảnh hưởng bất lợi tới nhiều sinh vật gồm các loài chim di
cư, động vật có vú và các loài ăn thịt.
- Đối với các cộng đồng ở Bắc cực, các tác động đặc biệt là những tác
động do thay đổi trạng thái của băng, tuyết sẽ phức tạp.
- Các tác động tiêu cực sẽ bao gồm tác động tới cơ sở hạ tầng và lối sống
truyền thống của các cộng đồng bản địa.
Các đảo
nhỏ
- Mực nước biển dâng sẽ làm gia tăng lũ lụt, dông bão, xói lở và các
thảm hoạ ven biển khác, đe dọa cơ sở các hạ tầng có ý nghĩa quan
trọng, nơi ở và các điều kiện hỗ trợ sinh kế của các cộng đồng trên
đảo.
9
- Phá huỷ hiện trạng ven biển, ví dụ xói lở bờ biển và tẩy trắng san hô sẽ
ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên địa phương.
- Vào giữa thế kỷ này, biến đổi khí hậu sẽ làm suy giảm tài nguyên nước
ở nhiều đảo nhỏ, chẳng hạn như biển Caribê và Thái Bình Dương
không có đủ nước để đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ mưa ít.
- Do nhiệt độ cao hơn nên các loài ngoại lai sẽ tăng cường xâm lấn, đặc

biệt ở các đảo nằm ở vĩ độ trung và cao.
Nóng lên toàn cầu và nước biển dâng có thể tiếp diễn trong nhiều thế kỷ do tính
phức tạp và sự phản hồi của các quá trình khí hậu, thậm chí ngay cả khi nồng độ các
khí nhà kính đã ổn định. Sau năm 2100, sự thu hẹp của dải băng Greenland sẽ tiếp
diễn, góp phần làm cho mực nước biển dâng cao hơn. Các mô hình hiện nay cho thấy
dải băng tan chảy hoàn toàn sẽ làm cho mực nước biển dâng cao khoảng 7m.
Các nghiên cứu mô hình toàn cầu hiện nay dự báo, dải băng ở Nam cực vẫn còn quá
lạnh để tan chảy trên bề mặt rộng lớn và vẫn tiếp tục tích tụ do mưa tuyết nhiều hơn.
Tuy nhiên, khối lượng băng có thể giảm thực sự giảm nếu xu thế tan chảy trội hơn
trong cân bằng khối của dải băng. Nóng lên toàn cầu do con người có thể dẫn tới một
số tác động đột ngột hoặc không thể đảo ngược, phụ thuộc vào tốc độ và cường độ của
biến đổi khí hậu.
Mất một phần dải băng ở vùng cực nghĩa là mực nước biển sẽ dâng cao hàng mét,
đường bờ biển sẽ có nhiều thay đổi và các vùng thấp/trũng bị nhấn chìm, gây ảnh
hưởng lớn tới các vùng châu thổ sông và các đảo thấp. Những thay đổi này sẽ diễn ra
trong thiên niên kỷ nhưng cũng không loại trừ trong thế kỷ này mực nước biển tăng
nhanh hơn.
Biến đổi khí hậu có thể gây ra một số tác động lớn. Cho đến nay, theo ước tính,
khoảng từ 20%-30% loài có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng
khoảng 3
0
C (tương ứng từ năm 1980-1999). Khi nhiệt độ toàn cầu tăng hơn 3,5
0
C, dự
báo mô hình cho thấy trên toàn cầu sẽ có từ 40%-70% loài tuyệt chủng.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI
MỰC NƯỚC BIỂN
Do những hoạt động khác nhau của con người, nồng độ CO
2
và các khí nhà kính

khác tích luỹ trong khí quyển của Trái đất và gây ra nóng lên toàn cầu. Mực nước biển
dâng cao là một trong những tác động có quy mô lớn nhất do hậu quả của nóng lên
toàn cầu. Các yếu tố góp phần khiến mực nước biển dâng cao trong thế kỷ 20-21 là:
• Sự dãn nở nhiệt do lớp bề mặt đại dương nóng lên.
• Sự bổ sung nước cho các đại dương do các vùng có băng tuyết tan chảy, như ở
Hymalaya, Alaska, Patagogia… và các mũ băng ở vùng cực, như Nam Cực và
Greenland.
• Sự trao đổi nước với các nguồn trên lục địa như nước ngầm, các tầng ngậm nước,
các đập nước, hồ chứa…
Các chỏm băng lớn ở vùng cực chính là nguồn bổ sung nước tiềm tàng cho các đại
dương. Nước bổ sung cho các đại dương theo hai cơ chế chung: 1) Tan chảy băng trên
10
vùng đất, sau đó tạo thành dòng chảy đổ ra các đại dương và 2) Do tính chất động lực
học của băng, tạo thành dòng từ đất liền ra biển. Khi băng được chuyển ra biển, ngay
lập tức nước biển dâng cao. Cho đến nay, các tính chất động lực học của băng vẫn
không hề thay đổi, nhưng các bằng chứng mới đây cho thấy lượng băng đổ ra các đại
dương ngày càng nhiều, diễn ra ở cả Bắc cực và Nam cực.
Kể từ Báo cáo đánh giá thứ 3 của IPCC năm 2001, đã có nhiều nỗ lực trong việc đo
lượng băng mất đi ở Greenland và sự góp phần của hiện tượng này vào xu thế nước
biển dâng. Ringot và Kanagaratnam (2006) đã phát hiện ra sự tăng lên nhanh chóng
của các dòng sông băng lớn ở vùng vĩ độ thấp trong những năm 1996- 2000, và lan
rộng đến vùng vĩ độ cao vào năm 2005. Kết quả cho thấy tổng lượng băng tan chảy đã
tăng gấp đôi so với thập kỷ trước. So sánh sự đóng góp của lượng băng tan của
Greenland đối với nước biển dâng với ước tính của IPCC trong thế kỷ 20, các đo đạc
mới lớn hơn khoảng từ 2-5 lần.
Tại Nam Cực, sử dụng vệ tinh GRACE, các nhà khoa học đã xác định được sự thay
đổi lớn của các tảng băng ở Nam Cực trong giai đoạn 2002-2005. Kết quả cho thấy
rằng khối lượng băng đã giảm đáng kể, với tốc độ 152 ± 80 km
3
/năm; phần lớn khối

lượng này từ các tảng băng phía Tây của Nam Cực. Tỷ lệ này lớn hơn gấp nhiều lần so
với dự đoán của IPCC trong bản Báo cáo thứ ba, và IPCC cũng đã thừa nhận rằng báo
cáo cuối cùng đã không xem xét đến những thay đổi động của các tảng băng phía Tây
của Nam Cực.
Bản Báo cáo thứ ba của IPCC cho thấy từ cuối thế kỷ 19 nhiệt độ trung bình bề mặt
Trái đất đã tăng xấp xỉ 0,2-0,6
o
C. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 là thập kỷ nóng nhất trong
1000 năm qua ở bán cầu Bắc. Hai giai đoạn có nhiệt độ tăng nhanh nhất là 1910-1945
và từ 1976 đến nay với khoảng 0,15
o
C/thập kỷ. Mức tăng nhiệt độ của biển chỉ bằng
khoảng một nửa mức tăng nhiệt độ không khí bề mặt đất. Những phân tích mới cho
thấy hàm lượng nhiệt của đại dương toàn cầu tăng lên rõ rệt từ những năm 1950, trong
đó hơn một nửa lượng nhiệt tăng lên này xảy ra ở lớp nước bên trên, tương đương với
mức tăng khoảng 0,04
0
C/thập kỷ.
Hình 1. Sự thay đổi nhiệt độ đại dương và đất liền trên toàn cầu (Nguồn: IPCC 2007)
Mực nước biển tăng đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho nhiều quốc đảo nhỏ đang
phát triển và cho tất cả các vùng trũng trên thế giới. Báo cáo Phát triển Con người
2007-0008 (UNDP) đưa ra dự báo nếu nhiệt độ tăng thêm 3-4
o
C, 330 triệu người phải
di dời tạm thời hay vĩnh viễn do lũ lụt. Hơn 70 triệu người Bănglađét, 6 triệu người ở
11
vùng đồng bằng thấp của Ai cập và 22 triệu người Việt Nam có thể bị ảnh hưởng. Các
quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương và vùng Caribê có thể bị thiệt hại hết sức nghiêm
trọng. Sự thay đổi hình thái dòng chảy và hiện tượng băng tan sẽ gây ra thêm các áp
lực sinh thái, ảnh hưởng xấu đến lưu lượng nước tưới và sự định cư của con người.

Trung Á, Bắc Trung Quốc và khu vực phía bắc của Nam Á phải đối mặt với các nguy
cơ rất lớn liên quan đến sự tan chảy của các núi băng với tốc độ 10-15m/năm ở dãy
Hymalaya. Khi các núi băng tan chảy, 7 hệ thống sông lớn của châu Á sẽ có lưu lượng
tăng lên trong khoảng thời gian ngắn, sau đó lại hạ xuống, ảnh hưởng đến nguồn cung
cấp nước và duy trì nguồn cung lương thực cho hàng trăm triệu người ở khu vực Nam
Á.
Nước biển ấm lên sẽ sinh ra những cơn bão nhiệt đới mạnh hơn. Với hơn 344 triệu
người hiện đang phải đối mặt với nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các xoáy thuận nhiệt đới,
các cơn bão mạnh hơn có thể gây thiệt hại nặng nề cho một số nước. Hiện có 1 tỷ
người đang sống ở các khu nhà ổ chuột đô thị, trên các triền đồi có nguy cơ bị sạt lở,
hay bên các bờ sông luôn bị ngập lụt đang phải đối mặt với nguy cơ tổn thương
nghiêm trọng.
1.3. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI MỰC NƯỚC BIỂN
Rất khó có thể đánh giá đầy đủ về những ảnh hưởng gián tiếp của mực nước biển
dâng cao do biến đổi khí hậu. Song, có thể nhận thấy các khu vực duyên hải, ven biển
sẽ chịu nhiều tác động nhất, mà khu vực này lại là nơi tập trung các đô thị lớn, dân cư
đông đúc và các cơ sở hạ tầng quan trọng. Một đánh giá của Chương trình Đánh giá
quy mô của Con người đến Sự thay đổi môi trường toàn cầu (UNU-IHDP) cho thấy:
hiện nay có rất nhiều trung tâm đô thị đặt tại các vùng thấp ven biển. Đó là các vùng
đất tiếp giáp với biển, ở độ cao dưới 10m so với mực nước biển, chiếm 2% diện tích
bề mặt Trái đất nhưng tập trung tới 10% dân số thế giới và 13% dân số đô thị. Có 10
nước có số đông dân số sống ở các vùng ven biển có độ cao dưới 10m, với tổng số 463
triệu người, chiếm 73% dân số thế giới sống trong khu vực này (9/10 nước này là ở
khu vực châu Á). Trong số 180 nước có dân số sống ở các vùng ven biển thì có tới
70% có các đô thị lớn nhất mở rộng ra sát biển.
Những hậu quả của nước biển dâng cao sẽ liên quan đến các một số lĩnh vực tiềm
tàng như thuỷ sản, nông nghiệp, đa dạng sinh học, du lịch. Mực nước biển dâng cao
còn dẫn tới những khủng hoảng sinh thái, kinh tế và xã hội như tạo ra các dòng người
di cư (tị nạn môi trường) thoát khỏi các vùng bị ảnh hưởng, gây xáo trộn về trật tự xã
hội và các vấn đề khác về sức khoẻ môi trường. Có thể tóm lược các ảnh hưởng tiềm

tàng về kinh tế xã hội chính của mực nước biển dâng như sau:
- Tăng nguy cơ thiệt hại về tài sản và các nơi cư trú vùng ven biển.
- Tăng rủi ro ngập lụt và tỷ lệ thương vong.
- Phá huỷ các công trình bảo vệ bờ biển và các công trình cơ sở hạ tầng khác.
- Suy giảm các nguồn tài nguyên tái tạo và sinh kế.
- Suy giảm các chức năng du lịch, giải trí và giao thông.
- Thiệt hại về các giá trị về văn hóa.
- Nảy sinh các vấn đề mới về tái định cư.
12
- Tác động đến nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản do suy giảm chất lượng đất và
nước.
Tài liệu “Tác động của mực nước biển dâng cao đến các nước đang phát triển:
Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện tháng 2/2007 đã đánh giá
các tác động của mực nước biển dâng cao đối với tất cả các nước đang phát triển bằng
cách sử dụng bộ chỉ số đồng nhất các chỉ thị và với các kịch bản khác nhau về mực
nước biển dâng cao. Có thể nói, đây là tài liệu đầu tiên được thực hiện theo hình thức
này. Năm 2006, Mendelsohn và các cộng sự đã đưa ra thêm bằng chứng, bằng việc
đánh giá các tác động của biến đổi khí hậu đối với thị trường tại các nước giàu và
nghèo theo các kịch bản khí hậu khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã không đánh
giá tác động của mực nước biển dâng cao đến các chỉ thị tự nhiên và xã hội. Với tài
liệu này, WB đã chia 84 nước đang phát triển ở ven biển thành 5 nhóm theo 5 văn
phòng khu vực của WB gồm: Mỹ Latin và Caribê (25 nước); Trung Đông và Bắc Phi
(13 nước); Châu Phi cận Xahara (29 nước); Đông Á (13 nước); và Nam Á (4 nước).
Với mỗi nước và khu vực, các nhà khoa học đánh giá tác động của mực nước biển
dâng cao theo 6 chỉ thị: đất đai, dân số, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), diện tích đô thị
và đất ngập nước. Cuối cùng, các tác động này được tính toán theo các kịch bản về
mực nước biển dâng cao từ 1-5m.
Các nhà khoa học đã sử dụng phần mềm của Hệ thống thông tin địa lý (GIS) để
chồng ghép 6 yếu tố quan trọng bị tác động của các vùng có nguy cơ nhấn chìm theo 5
kịch bản nước biển dâng từ 1-5m. Đánh giá cũng sử dụng các nguồn dữ liệu không

gian phân tán tại nhiều trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu các Hệ thống môi trường
(CESR), Trung tâm quốc tế Mạng thông tin về Khoa học Trái đất (CIESIN), Trung
tâm Quốc tế về Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT), Viện Nghiên cứu Chính sách Lương
thực Quốc tế (IFPRI), Cơ quan Hàng không và Không gian Quốc gia (NASA), Cơ
quan Quản lý Hải dương và Khí quyển quốc gia (NOAA) và WB.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy 0,31% (194.309 km
2
) vùng lãnh thổ của 84 nước
đang phát triển bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao 1m. Tỷ lệ bị ngập có thể
tăng lên 1,2% theo kịch bản nước biển dâng cao 5m. Cho dù tỷ lệ này nhỏ song sẽ có
khoảng 56 triệu người (hay 1,28% dân số) ở 84 nước đang phát triển bị ảnh hưởng khi
mực nước biển dâng cao 1m. Tác động của mực nước biển dâng cao đến GDP cao hơn
chút ít so với tác động đến dân số. Các vùng đất ngập nước cũng chịu tác động đáng kể
cho dù nước biển chỉ dâng 1m. Sẽ có 7,3% các vùng đất ngập nước ở 84 nước bị ảnh
hưởng khi mực nước biển dâng cao 5m.
Với mỗi chỉ thị, WB đưa ra danh sách 10 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo đó,
với kịch bản nước biển dâng cao 1m, Bahamas (khu vực Mỹ latinh và Caribê) là nước
bị ảnh hưởng nặng nhất xét về diện tích bị ảnh hưởng (12% tổng diện tích). Việt Nam
đứng đầu danh sách 10 nước bị ảnh hưởng về dân số, khu vực đô thị và đất ngập nước
(khoảng 10%). Nông nghiệp của Ai Cập bị ảnh hưởng nhiều nhất, gần 13%. 28% diện
tích đất ngập nước của Việt Nam, Jamaica và Belize có thể bị ảnh hưởng khi mực
nước biển dâng cao 1m. Xét về tất cả các chỉ thị, theo Báo cáo của WB, Việt Nam nằm
trong danh sách 5 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất cùng với Ai Cập, Suriname và
Bahamas.
13
Bảng 1. Tác động của mực nước biển dâng cao đến khu vực Đông Á
Các đối
tượng bị
ảnh
hưởng

1m 2m 3m 4m 5m
Tổng diện tích 14.140.767 km
2
Diện tích 74.020 119.370 178.177 248.970 325.089
% 0,52 0,84 1,26 1,76 2,30
Tổng dân số 1.883.407.000 người
Dân số 37.193.866 60.155.640 90.003.580 126.207.275 162.445.397
% 1,97 3,19 4,78 6,70 8,63
Tổng GDP 7.577.206 triệu USD
GDP (triệu
USD)
158.399 255.510 394.081 592.598 772.904
% 2,09 3,37 5,20 7,82 10,20
Tổng diện tích đô thị 388.054 km
2
Đô thị 6.648 11.127 17.596 25.725 34.896
% 1,71 2,87 4,53 6,63 8,99
Tổng diện tích đất nông nghiệp 5.472.581 km
2
Đất nông
nghiệp
45.393 78.347 121.728 174.076 229.185
% 0,83 1,43 2,22 3,18 4,19
Tổng diện tích đất ngập nước 1.366.069 km
2
Đất ngập
nước
36.463 56.579 79.984 110.671 130.780
% 2,67 4,14 5,86 8,10 9,57
Nguồn: WB, 2007

Đông Á sẽ bị ảnh hưởng rất lớn bởi nước biển dâng. Khi nước biển dâng 5m, Đông
Á là khu vực ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trong khối các nước đang phát triển. Với
các kịch bản nước biển dâng tương ứng từ 1m đến 5m, dân số bị ảnh hưởng là khoảng
2% đến 8,6%, trong khi ảnh hưởng đến GDP là 2,09% đến 10,2%. Khu vực đô thị và
diện tích các vùng đất ngập nước cũng bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng khi nước biển
dâng.
Theo đánh giá này, Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi nước biển
dâng: khoảng 16% tổng diện tích của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi nước biển dâng 5m,
đưa Việt Nam trở thành nước thứ hai sau Bahamas (60% tổng diện tích) trong số các
nước được phân tích trong nghiên cứu này. Đa số ảnh hưởng này tác động đến Đồng bằng
sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Một phần lớn dân cư Việt Nam và các hoạt
động kinh kế nằm ở vị trên vùng đồng bằng của hai con sông này. 10,8% dân số Việt
Nam sẽ bị ảnh hưởng khi nước biển dâng 1m. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số 84 quốc gia
14
(tiếp theo là Ai Cập với 10,56%). Dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đến 35% với nước
biển dâng ở mức 5m. Ảnh hưởng của nước biển dâng đến GDP của Việt Nam và khu vực
đô thị gần với mức ảnh hưởng đến dân số của Việt Nam.
GDP của Thái Lan cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, ảnh hưởng này sẽ
đáng kể chỉ khi nước biển dâng ở mức 4m đến 5m. Trong tất cả các chỉ thị, khu vực nông
nghiệp Việt Nam sẽ ảnh hưởng nặng nhất ở các nước Đông Á. Đồng thời, nông nghiệp
của Myanmar, cũng như các vùng đất ngập nước cũng sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Hầu hết
các vùng đất ngập nước của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng của nước biển dâng.
Bảng 2. Tác động của mực nước biển dâng cao ở Nam Á
Các đối
tượng bị
ảnh hưởng
1m 2m 3m 4m 5m
Tổng diện tích 4.197.171 km
2
Diện tích 12.362 21.983 35.696 52.207 69.225

% 0,29 0,52 0,85 1,24 1,65
Tổng dân số 1.306.556.000 người
Dân số 5.870.472 10.187.694 17.810.069 22.065.103 39.505.521
% 0,45 0,78 1,36 1,69 3,02
Tổng GDP 3.295.567 triệu USD
GDP (triệu
USD)
18.021 30.957 52.036 72.462 94.020
% 0,55 0,94 1,58 2,20 2,85
Tổng diện tích đô thị 241.779 km
2
Đô thị 809 1.379 2.311 3.599 5.117
% 0,33 0,57 0,96 1,49 2,12
Tổng diện tích đất nông nghiệp 3.023.617 km
2
Đất nông
nghiệp
3.442 6.951 13.501 23.716 35.190
% 0,11 0,23 0,45 0,78 1,16
Tổng diện tích đất ngập nước 579.130 km
2
Đất ngập
nước
9.184 16.685 25.988 36.109 46.003
% 1,59 2,88 4,49 6,24 7,94
Nguồn: WB, 2007
15
Hình 2. Dân số bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng ở Đông Á
Nguồn:WB, 2007
Hình 3. Diện tích đất các quốc gia bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng ở Đông Á

Nguồn: WB 2007
Hình 4. Diện tích đất ngập nước các quốc gia bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng
ở Đông Á
Nguồn: WB, 2007
16
1.2. CƠ SỞ KHUNG ĐÁNH GIÁ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SỰ DÂNG CAO
NƯỚC BIỂN
Các nghiên cứu về tác động của mực nước biển dâng cao thường tập trung vào đánh
giá các tác động và sự ứng phó. Năm 2001, Smit và các cộng sự đã đưa ra khung đánh
giá, trên cơ sở khung của Klein và Nicholls (1999) làm nền tảng cho thực hiện diễn
giải và so sánh. Mực nước biển, cho dù do nguyên nhân nào thì nó cũng có những tác
động như tăng xói lở và ngập lụt. Ngược lại các tác động này lại có những tác động
đến kinh tế xã hội gián tiếp tuỳ thuộc vào sự tiếp xúc của con người trước các thay đổi
này. Các hệ thống bị ảnh hưởng đồng thời cũng có những sự phản hồi quan trọng như
tự điều chỉnh và thích ứng với những biến đổi trên. Các vùng ven biển là khu vực bị
tác động nhiều nhất khi nước biển dâng. Vùng ven biển chính là nơi diễn ra các quá
trình tương tác giữa các hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội.
Cả hai hệ thống này đều được đặc trưng bởi các mức ảnh hưởng (tiếp xúc), tính
nhạy cảm và khả năng thích ứng trước mực nước biển dâng cao và các thay đổi khác
liên quan đến khí hậu và các áp lực không liên quan đến khí hậu. Tính nhạy cảm và
khả năng thích ứng kết hợp với mức độ tiếp xúc sẽ xác định tính dễ tổn thương của
mỗi hệ thống.
Hình 5. Cơ sở khung đánh giá Tính tổn thương và tác động của sự dâng cao nước
biển đối với vùng ven biển
Nguồn: Nicholl, 2002
HỆ THỐNG TỰ NHIÊN
Nước biển
dâng và các
thay đổi khí
hậu khác

Khả năng thích ứng
kinh tế-xã hội
Tính nhạy cảm về
kinh tế-xã hội
Khả năng tự thích ứng
Tính nhạy cảm kinh tế-
xã hội
Cácảnh hưởng khác
Khả năng thích ứng
theo kế hoạch
Các áp lực
không liên
quan đến
khí hậu
Khả năng thích
ứng tự nhiên
Tính nhạy cảm
tự nhiên
Khả năng tự
thích ứng
Tính tổn thương tự
nhiên
Cácảnh hưởng
sinh-địa-vật lý
Khả năng thích ứng
theo kế hoạch
HỆ THỐNG KT-XH
17
Mức tiếp xúc được xác định là tính chất và mức độ, mà một hệ thống khi tiếp xúc
với các thay đổi về khí hậu như nước biển dâng.

Tính nhạy cảm, là mức độ mà một hệ thống khi bị ảnh hưởng, hoặc bị ảnh hưởng
nghiêm trọng hoặc hưởng lại từ sự thay đổi khí hậu.
Khả năng tự thích ứng, biểu hiện là các phản ứng tự nhiên thích ứng trước mực
nước biển dâng cao. Các quá trình thích ứng tự nhiên thường bị giảm nhẹ, hoặc ngừng
lại bởi các áp lực do con người.
Khả năng thích ứng theo kế hoạch (đã xuất hiện trong hệ thống kinh tế xã hội) có thể giúp
giảm thiểu tính tổn thương bằng rất nhiều giải pháp. Sự tương tác giữa các hệ thống tự nhiên và
kinh tế xã hội ở các vùng ven biển diễn ra rất phức tạp. Do vậy, các hình thức thích ứng và điều
chỉnh trong mỗi hệ thống và giữa hai hệ thống thường nhằm giảm cường độ của các tác động
tiềm tàng khi các tác động này xảy ra. Nhờ đó, các tác động thực thường bớt nghiêm trọng hơn so
với tác động tiềm tàng được dự báo ban đầu.
Các kịch bản tương lai về nước biển dâng
Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC đưa ra năm 2007 dự báo về mực nước biển dâng cao
theo các kịch bản khác nhau: Trong 2 thập kỷ tới, nhiệt độ Trái đất sẽ tăng khoảng 0,2
0
C mỗi thập
kỷ. Thậm chí nếu nồng độ của các khí nhà kính và các sol khí khác vẫn giữ ở mức năm 2000 thì
nhiệt độ trung bình Tráiđất vẫn tăng thêm 0,10C mỗi thập kỷ.
Bảng 4. Các kịch bản và nhiệt độ và nước biển dâng theo IPCC (2007)
Các kịch bản Sự thay đổi nhiệt độ (
0
C, giai
đoạn 2090-2099 so với giai đoạn
1980-1999)
Mực nước biển dâng (m,
giai đoạn 2090-2099 so
với giai đoạn 1980-1999)
Trung bình Giới hạn Phạm vi dao động
Mức nền của năm 2000 0,6 0,3-0,9 -
Kịch bản B1 1,8 1,1-2,9 0,18-0,38

Kịch bản A1T 2,4 1,4-3,8 0,20-0,45
Kịch bản B2 2,4 1,4-3,8 0,20-0,43
Kịch bản A1B 2,8 1,7-4,4 0,21-0,48
Kịch bản A2 3,4 2,0-5,4 0,23-0,51
Kịch bản A1F1 4,0 2,4-6,4 0,26-0,59
Nguồn: IPCC, 2007
Kịch bản A1: Nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh, dân số toàn cầu đạt cực đại vào
những năm giữa thế kỷ và nhiều công nghệ mới hiệu suất cao sẽ được đưa vào sử dụng. Kịch
bản A1 chia làm 3 nhóm với các hướng thay đổi khác nhau trong công nghệ:
- Nhiên liệu hóa thạch (A1F1).
- Nhiên liệu phi hóa thạch (A1T).
- Cân bằng giữa các loại năng lượng (A1B).
Kịch bản B1: Dân số toàn cầu cũng đạt cực đại vào những năm giữa thế kỷ giống kịch bản A1
nhưng có sự thay đổi nhanh hơn trong cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ và kinh tế nông thôn.
Kịch bản B2: Sự tăng trưởng kinh tế và dân số ở mức trung bình, các giải pháp phát
triển kinh tế, xã hội và môi trường bền vững khu vực được chú trọng.
Kịch bản A2: dân số toàn cầu tăng trưởng nhanh trong khi phát triển kinh tế và
chuyển giao công nghệ chậm.
18
II. ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIỂN TỚI MỘT SỐ
QUỐC GIA CÓ BIỂN VÀ VIỆT NAM
2.1. BĂNGLAĐÉT
Bănglađét là một trong những vùng châu thổ lớn trên thế giới với 230 hệ thống sông
ngòi dày đặc phân bố khắp đất nước. Trong đó lớn nhất là Hệ thống sông Hằng,
Brahmaputra và Meghna. Địa hình Bănglađét thoải từ phía Bắc xuống phía Nam với
710 km đường bờ biển. Dải ven biển phía Nam nằm song song với Vịnh Bengal ở mũi
phía Bắc của Ấn Độ Dương, nông và có dạng hình cung lõm, thường xuyên bị bão tấn
công, gây ra sóng lớn. Dải ven biển tập trung 19 trong số 64 quận của Bănglađét, trong
đó có 12 quận tiếp giáp với biển hoặc nằm trên vùng cửa sông. Dân số vùng ven biển
là 35,1 triệu người, chiếm 28% tổng dân số (năm 2003). Mật độ dân số ở vùng duyên

hải là 482 người/km
2
, trong khi có những nơi tập trung tới 1.012 người/km
2
. Nuôi
trồng thuỷ sản, nông nghiệp, nuôi tôm, sản xuất muối và du lịch là các hoạt động kinh
tế chính ở vùng ven biển Bănglađét.
Bănglađét là nước tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, thiếu vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng
cần thiết, thiếu năng lực thể chế, phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên.... Những
đặc điểm này khiến cho Bănglađét rất dễ tổn thương trước các ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu, và dân cư ở dải ven biển tổn thương nhiều hơn so với dân cư ở các khu vực
khác nếu xảy ra các tác động. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc (UNDP) năm 2007, mực nước biển dâng 1m sẽ nhấn chìm 18% diện tích đất,
trực tiếp đe doạ 11% dân số. Tác động của mực nước sông do mực nước biển dâng cao
có thể ảnh hưởng đến 70 triệu người. Nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng tới diện
tích rộng lớn vùng ven biển và vùng đồng bằng ngập lũ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến
việc thực hiện các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, gây ra dòng người tị nạn môi
trường. Các đối tượng bị tổn thương nhiều nhất khi nước biển dâng 1m là tài nguyên
vùng ven biển, tài nguyên nước, nông nghiệp và đa dạng sinh học, trong đó
Sundarbans là khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất. Khu vực Sundarbans là nguồn sinh kế
duy trì cuộc sống cho khoảng 10 triệu người. Các hoạt động chính ở Sundarbans là
khai thác thuỷ sản, gỗ và mật ong (Bảng 5).
Bảng 5: Nước biển dâng và những ảnh hưởng tiềm tàng ở Bănglađét
Năm 2020 2050 2100
Mực nước dâng 10cm 25cm 1m
Diện tích chìm
dưới mực nước
biển
2 % diện tích đất
(2.500 km

2
)
4 % diện tích đất
(6.300 km
2
)
17,5 % diện tích đất (25,000
km
2
).
Các khu vực bị ảnh hưởng
nhiều nhất gồm Patuakhali,
Khulna và Barisal
Bão 1991 trận bão, lốc diễn ra,
với mức tăng 10% về
cường độ, tốc độ gió tăng
từ 225 đến 248 km/h;
Bão làm nước dâng 7,4-9,1m và
làm mực nước biển dâng cao 1
m.
Ngập lụt Ngập lụt tăng 20%
.
Tăng ngập lụt ở sông
đồng bằng ngập lũ sông
Tăng diện tích bị ngập mức độ
lũ lụt.
19
Meghna và sông Hằng.
Ngập trong mùa mưa làm
tăng thiệt hại mùa màng.

Nông nghiệp Nước biển dâng
làm giảm 0,2% sản
lượng do ngập.
Giảm 1% sản lượng
so với mức hiện
nay.
Mực biển dâng cao 0,3m
làm giảm 0,5% sản lượng
do ngập.
Giảm 2% so với mức
hiện nay.
Lũ tàn phá làm thiệt hại trong
nhiều năm
Hệ sinh thái Nhấn chìm 15%
Sundarbans
Nhấn chìm 40%
Sundarbans
Sundarbans có thể mất hoàn
toàn. Mất Sundarbans và các
vùng ngập nước ven biển làm
giảm diện tích các bãi đẻ của
nhiều loài cá, làm giảm số
lượng quần thể.
Xâm nhập mặn Tăng Tăng Tăng
Nguồn: WB, 2000.
Ngoài các nguyên nhân do băng tan và nước dãn nở do nhiệt, thì sự sụt lún và nâng
lên của nền đất là các yếu tố quan trọng góp phần vào nước biển dâng ở Bănglađét.
Một nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng (SAARC) thực hiện năm 2003
dựa trên 22 bộ dữ liệu năm về thuỷ triều tại 3 trạm đo ven biển cho thấy tốc độ nước
biển dâng trong 22 năm qua là khá cao. Mức triều dâng ở Hiron Point, Char Changa và

Cox’s Bazar tương ứng với các mức 4,0 mm/năm, 6,0 mm/năm và 7,8 mm/năm trong
khoảng thời gian từ 1977-1998. Tốc độ triều dâng ở dải ven biển phía tây cao gấp đôi
dải ven biển phía đông. Sự khác biệt này có thể do sự sụt lún và nâng lên của nền đất,
tuy nhiên xu thế sụt lún là chủ yếu. Để đánh giá chính xác mức nước biển dâng lên ở
vùng ven biển Bănglađét, cần có những đo đạc về lượng phù sa ở các vùng châu thổ và
tốc độ nâng lên hay sụt lún của nền đất trong đó phải kể đến hai hệ thống sông lớn là
sông Hằng và sông Brahmaputra vận chuyển gần 1,6 tỷ tấn phù sa mỗi năm.
Các tác động liên quan đến nước do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những
vấn đề nghiêm trọng nhất ở Bănglađét, đặc biệt là liên quan đến ngập lụt ven biển và
ven sông. Những thay đổi về nền đáy sông do quá trình vận chuyển phù sa và trầm
tích, cũng như những thay đổi về đặc điểm hình thái do biến động mực nước và lưu
lượng dòng chảy theo mùa cũng có ý nghĩa quan trọng. Nguy cơ xói lở tăng lên khi
mực nước biển và nước sông dâng cao. Nước biển dâng cuốn trôi lớp đất bề mặt ở dải
ven biển, khiến cho khu vực trở nên dốc hơn. Dải ven biển của Bănglađét được thành
tạo bởi đất bùn và cát do vậy rất dễ tổn thương trước nước biển dâng. Xói lở còn là
nguyên nhân khiến con người phải di dời. Hầu hết người nghèo ở Bănglađét không có
đất. Nhà có thể bị sập do xói lở và nhiều lần sập như vậy khiến họ càng nghèo khổ
hơn. Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Chính sách Trái đất năm 2004 cho thấy sẽ
có khoảng 40 triệu người Bănglađét trở thành tị nạn môi trường do nước biển dâng
1m. Xu thế di cư ra các vùng ven biển khá rõ ràng ở Bănglađét. Trong khi tốc độ tăng
dân số của nước này là 1,2% (2000-2005) thì tốc độ tăng dấn số ở các vùng ven biển
thấp dưới 10m là 2,1%, ở khu vực đô thị là 2,8%. Dòng người tị nạn môi trường này
ngoài một số di dời vào sâu trong nội địa, một số khác tìm đường sang các nước láng
giềng như Ấn Độ và Pakistăng, gây những bất ổn về xã hội trong khu vực.
20
Nước biển dâng sẽ làm tăng các hoạt động làm thay đổi đặc điểm hình thái học của
sông, gia tăng lưu lượng dòng chảy và do vậy làm tăng khả năng xói lở bờ. Xói lở bờ ở
các khu vực cồn đôi khi còn xóa sổ chúng trên bản đồ của Bănglađét. Trong giai đoạn
1972-1987, đã có khoảng 196 km
2

cồn bị xói lở và tổng số 11 cồn biến mất tại lưu vực
sông Meghna.
Xói lở bờ sông là hiện tượng phổ biến dọc theo các Hệ thống sông Hằng, Jamuna và
Tista. Trong giai đoạn 1973-1996, đã có khoảng 1,7 triệu ha vùng ngập lũ nhạy cảm
với quá trình xói lở bờ sông. Trong khi có 73.552 ha đất bị xói lở chỉ có 10.628 ha đất
được bồi tụ. Mức độ xói lở trầm trọng còn phụ thuộc vào lưu lượng dòng chảy sông và
lưu lượng này thay đổi lớn theo mùa. Bănglađét là quốc gia có tài nguyên nước dồi
dào, song thực tế là có tới hơn 92% lưu lượng dòng chảy hàng năm là từ bên ngoài
lãnh thổ. Vào mùa mưa tổng lưu lượng của sông Hằng và sông Brahmaputra có thể
đạt đỉnh điểm 80.000 – 140.000 m
3
/s vào tháng 7-8 hoặc đầu tháng 9, trong khi lưu
lượng của sông Hằng vào tháng 2 và tháng 4 chỉ là gần 1.000 m
3
/s, sông Brahmaputra
thấp hơn 4.000 m
3
/s trong khoảng tháng 3 và tháng 4. Ngập lụt là một hiện tượng phổ
biến ở Bănglađét. Ngập lụt ảnh hưởng tới 80% diện tích lãnh thổ mà nguyên nhân có
thể do lũ quét, mưa lớn, ngập lụt theo mùa và ngập lụt vùng ven biển do nước dâng
kèm theo bão. Trong những năm bình thường, 20-25% lãnh thổ bị ngập lụt do nước
sông dâng hoặc tắc nghẽn dòng chảy. Nghiên cứu năm 2003 của SAARC cho thấy xu
thế ngày càng tăng của các cơn bão lớn trên Vịnh Bengal trong thời gian từ tháng 11
năm trước đến tháng 5 năm sau.
Hộp 1: Trận lụt lịch sử ở Bănglađet
Lũ lụt là chuyện bình thường về sinh thái ở Bănglađét. Khi khí hậu biến đổi, lũ lụt bất
thường có thể sẽ là đặc điểm nổi bật trong tương lai. Kinh nghiệm sau trận lụt năm 1998 -
thường gọi là trận lụt thế kỷ - nêu bật nguy cơ lũ lụt gia tăng sẽ dẫn đến những thụt lùi lâu
dài về phát triển con người. Trận lụt năm 1998 là một hiện tượng cực đoan. Trong năm
bình thường thì khoảng ¼ đất nước bị ngập lụt. Khi lên tới đỉnh điểm, trận lụt 1998 ngập

trắng 2/3 đất nước. Trên 1.000 người chết và 30 triệu người thành vô gia cư. Khoảng 10%
diện tích trồng lúa toàn quốc mất trắng. Ngập lụt kéo dài không thể trồng cấy lại nên hàng
chục triệu hộ phải đối mặt với khủng hoảng lương thực.
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng gấp đôi sau lụt. Mười lăm tháng sau lụt, 40% trẻ có tình
trạng dinh dưỡng kém vào thời gian ngập lụt vẫn chưa trở lại được mức dinh dưỡng cũ.
Việc đối phó với trận lụt 1998 đôi khi được coi là bài học thành công về xử lý thiên tai.
Tuy nhiên, lũ lụt có tác động xấu về lâu dài, rõ nhất là về tình trạng dinh dưỡng của trẻ
vốn đã suy dinh dưỡng. Trẻ bị tác động có thể không bao giờ có khả năng phục hồi sau
hậu quả. Hộ nghèo phải chịu đựng trong thời gian trước mắt do cắt giảm tiêu dùng và
bệnh tật gia tăng, và do phải gánh chịu nợ nần chồng chất hơn.
Nguồn: Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008, UNDP.
21
Hai phần ba trong số 40 triệu lao động có sức khoẻ ở Bănglađét tham gia làm nông
nghiệp và các hoạt động liên quan khác. Tỷ lệ đất canh tác bị thu hẹp hàng năm là 100.000
ha, do đô thị hoá và phát triển các khu định cư. Với tốc độ mất đất này, kèm theo các nguy
cơ nhiễm mặn và thoái hóa đất, nền nông nghiệp tự cung tự cấp của Bănglađét chắc chắn sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong tương lai. Nhiễm mặn tăng do nước biển dâng làm giảm
sản lượng nông nghiệp do thiếu nguồn nước ngọt và thoái hóa đất. Độ mặn làm giảm mức
năng lượng và khả năng nảy mầm của một số loài thực vật. Trong số 2,85 triệu ha diện tích
vùng ven biển thì có tới 1,2 triệu ha đất canh tác bị nhiễm mặn ở các mức độ khác nhau.
Ngập triều trong mùa mưa, ngập trực tiếp do nước mặn và nước lợ, ranh mặn tiến sâu trong
mùa khô và ngập nước lợ do nuôi tôm là các nguyên nhân chính gây nhiễm mặn ở vùng ven
biển Bănglađét.
Người dân Bănglađét chủ yếu nuôi loài tôm hùm Ấn Độ (Peneaus monodon). Độ mặn
cần thiết cho sự phát triển tối ưu của loài tôm này là 5-25 ppt và chúng không thể nuôi trong
môi trường nước ngọt. Sự xâm nhập mặn tại các vùng duyên hải một mặt giúp nông dân mở
rộng diện tích nuôi tôm mang lại thu nhập, nhưng đồng thời cũng gây ra các ảnh hưởng môi
trường tiềm tàng khác. Các diện tích đất lớn được chuyển đổi thành các cánh đồng nước
mặn diễn ra hàng ngày. Diện tích nuôi tôm tại 3 quận Satkhira, Khulna và Bagerhat tính đến
năm 2004 là 115.900 ha, tăng gấp 87 lần so với năm 1975. Đây cũng là chỉ số về sự xâm

nhập mặn tăng lên ở các vùng ven biển ở Bănglađét. Trong 3 thập kỷ qua, nhiễm mặn đã
làm suy thoái chất lượng đất và nông dân không thể trồng được cây gì trên các vùng đất
nhiễm mặn này. Bằng chứng về sự gia tăng nhiễm mặn ở vùng ven biển Bănglađét thể hiện
rất rõ. Ví dụ, nhà máy điện của thành phố Khulna đã phải ngược lên thượng lưu để lấy nước
ngọt làm mát nồi hơi, trong khi các nhân tố khác cũng góp phần làm tăng nhiễm mặn như
khai thác nước ngầm quá mức ở Farakka mà nguyên nhân là do Ấn Độ nắn dòng chảy về
Calcutta.
Một đánh giá năm 2005 về sản lượng nông nghiệp sụt giảm cho thấy sản lượng gạo tại
làng thuộc quận Satkhira năm 2003 thấp hơn 1.151 tấn so với năm 1985, tương ứng với
mức giảm 69%. Trong đó, 77% mức giảm sản lượng này là do các cánh đồng trồng lúa bị
chuyển thành các ao nuôi tôm và 23% còn lại là do giảm năng suất. Tốc độ thoái hóa đất do
nuôi tôm cũng góp phần khiến sản lượng nông nghiệp giảm. Tốc độ thoái hóa đất ngày
càng tăng và diễn ra phổ biến tại các quận Khulna, Satkhira và Bagerhat. Gạo là nguồn
lương thực chủ lực của Bănglađét. Ước tính nước này có khoảng 10.000 giống lúa, gồm
Aus, Aman, Boro và các giống của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). Nước biển dâng
làm tăng tần suất ngập lụt và độ mặn, đe doạ đến sản lượng của Aman và Boro. Nước biển
dâng cũng có thể làm tăng rủi ro về sức khoẻ, các bệnh lây nhiễm qua đường nước như tiêu
chảy, tả…Do nguồn nước ngọt khan hiếm, người dân có khi phải sử dụng nguồn nước bị
nhiễm bẩn.
Ngoài ra, vùng ven biển còn là nơi tập trung 21 trung tâm dịch vụ nghề cá của nhà nước.
Các trung tâm này nằm rất gần bờ biển và cửa sông, có nguy cơ bị nhấn chìm cao khi nước
biển dâng. Đối với người dân Bănglađét, cá là nguồn prôtêin chính, chiếm 60-80% nguồn
prôtêin động vật. Suy giảm sản lượng cá có thể dẫn đến các vấn đề về sức khoẻ và xã hội
khác như suy dinh dưỡng và nghèo đói.
Năm 2003, có khoảng 60 khu nuôi tôm và 124 nhà máy chế biến tôm đặt tại các vùng
ven biển, tập trung ở Teknaf, Ukhia và Sadar thana. Nước biển dâng cao có thể nhấn chìm
22
các ao nuôi tôm. Trận lụt năm 2000 ở Bănglađét đã gây thiệt hại ít nhất 500 triệu USD do
cây trồng, các trại nuôi cá, tài sản và cơ sở hạ tầng bị hư hại. Ngành nuôi tôm là ngành bị
ảnh hưởng nặng nề nhất, với mức thiệt hại ước tính 250 triệu USD.

Bănglađét còn là một trong những nước sản xuất muối lớn trên thế giới. Bờ biển ở Cox’s
Bazar rất phù hợp với việc sản xuất muối. Khoảng 19.670 ha được sử dụng để sản xuất
muối dọc theo bờ biển Cox’s Bazar. Tại đây có 216 hồ muối với diện tích 8.153 ha chỉ
riêng ở Chakaria và Sadar thana, sản xuất ra 175.030 tấn muối hàng năm. Hơn nữa, các nhà
máy chế biến muối đều đặt gần bờ biển. Ngành công nghiệp này bị ảnh hưởng nghiêm
trọng khi mực nước biển dâng. Hai mươi triệu người trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến
sản xuất muối bị ảnh hưởng và có thể rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Nước biển dâng còn làm thay đổi vị trí của các cửa sông, gây ra sự thay đổi lớn đối với
các nơi cư trú và bãi đẻ của các loài sinh vật do tăng hàm lượng muối, phân mảnh và thu
hẹp nơi cư trú. Bănglađét còn nổi tiếng với Sundarbans, một di sản thế giới được UNESCO
công nhận. Sundarbans chính là rừng ngập mặn lớn nhất trên thế giới, nằm ở phía Đông
Nam của Bănglađét trải rộng cả 3 quận Khulna, Satkhira và Bagerhat. Khu rừng này còn là
điểm nóng về đa dạng sinh học, trong đó có nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng trong Sách Đỏ
của IUCN và là nơi cư trú cuối cùng còn sót lại cho loài hổ Bengal (Panthera tigris). Theo
đánh giá năm 2000 của WB, Sundarbans sẽ bị nhấn chìm 15% khi nước biển dâng 10 cm,
40% khi nước biển dâng cao 25 cm và bị nhấn chìm hoàn toàn khi mực nước biển dâng 1m.
Mất Sundarbans có nghĩa mất di sản, mất đa dạng sinh học, nguồn lợi thuỷ sản, sinh kế và
sau cùng là mất đi hệ sinh thái có năng suất cao.
Bănglađét còn là nơi thu hút khách du lịch bởi có những bãi biển đẹp ở Kuakata Patenga,
Cox’s Bazar. Ngành du lịch ở Kuakata bị ảnh hưởng nhiều hơn do nằm gần bờ biển và ở
khu vực dễ bị tổn thương hơn so với Cox’s Bazar và Chittagong. Ngoài ra, còn có rất nhiều
cơ sở hạ tầng du lịch khác được xây dựng ở khu vực ven biển. Trước nguy cơ nước biển
dâng, các tài sản này sẽ bị đe doạ và tiềm năng du lịch thiên nhiên cũng bị ảnh hưởng.
Với một nước có địa hình thấp trũng như Bănglađét, thì các tác động của nước biển dâng
là quá rõ ràng. Các hoạt động sinh kế của người dân và các hệ sinh thái quan trọng bị ảnh
hưởng. Nước biển dâng sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của Bănglađét. Chính
vì vậy, Chính phủ Bănglađét cần phải có những nỗ lực lớn để giải quyết vấn đề, thông qua
một chiến lược tổng thể nhằm đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhằm đảm
bảo tính toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ sự an toàn cho cư dân của mình. Chiến lược quốc gia
thích ứng với biến đổi khí hậu của Bănglađét là một phản ứng của chính phủ trước phiên

họp lần thứ 7 Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi
khí hậu. Chương trình thích ứng quốc gia (NAPA) đã đưa ra các biện pháp thích ứng dưới
dạng một loạt các hành động bổ sung cho các mục tiêu quốc gia và các hiệp ước quốc tế mà
Bănglađét đã ký kết. NAPA cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các chính sách và các chương
trình khác về môi trường như Kế hoạch Hành động quốc gia về đa dạng sinh học, Kế hoạch
hành động quốc gia về quản lý môi trường…
Tuy nhiên, việc thực hiện các hành động thích ứng với biến đổi khí hậu ở Bănglađét gặp
phải một số trở ngại. Thứ nhất, thiếu nhận thức về mức độ và quy mô của vấn đề cũng như
các hành động cần phải thực hiện - trở ngại lớn nhất trong số những trở ngại. Sự thiếu nhận
thức này tồn tại ở cả các cấp, gồm các nhà ra chính sách cấp quốc gia cho đến cấp ngành và
23
địa phương, các nhóm xã hội dân sự và cả các cộng đồng dễ bị tổn thương. Thứ hai, thiếu
sự lồng ghép các tác động của biến đổi khí hậu vào quá trình xây dựng và triển khai các
chính sách, các chương trình ở các lĩnh vực nhạy cảm với biến đổi khí hậu. Trở ngại cuối
cùng trong thực hiện các hành động là thiếu các công cụ phù hợp, tri thức và phương pháp
luận để hướng dẫn cho người ra quyết định.
Trong thời gian trước khi có NAPA, kể từ Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 và cuối cùng là Kế
hoạch 5 năm lần thứ 5 (1997-2020), vấn đề bảo tồn và bảo vệ môi trường hướng tới phát
triển bền vững nền kinh tế đã được Chính phủ Bằnglađét chú ý đến và tiếp theo đó là Chiến
lược Giảm nghèo đói (PRSP). Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, Chính phủ Bănglađét
đã có những hành động nhằm hạn chế các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ trong thời gian diễn ra thảm họa đã phối hợp hành động, giảm
thiệt hại về người và tài sản. Các sáng kiến ban đầu đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao
và ghi nhận. Chính phủ Bănglađét đã cho xây dựng gần 2.000 khu nhà tránh bão ở vùng
duyên hải, khoảng 200 khu nhà tránh lũ lụt trên nền đất cao cho những người bị đe doạ bởi
bão và ngập lụt. Khoảng 3.931 km đê bao vùng ven biển đã được xây dựng qua các năm
nhằm bảo vệ đất khỏi bị nhiễm mặn do thuỷ triều và nước dâng do bão và đào thêm 4.774
km hệ thống kênh thoát nước. Chính phủ cũng đã thực hiện Dự án Vành đai Xanh ở các
vùng ven biển với sự tham gia của cộng đồng địa phương. Chương trình tái trồng rừng này
nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của thiên nhiên, nhất là các ảnh hưởng do bão và

nước dâng, đồng thời cải thiện sinh kế cho người dân địa phương.
Gia tăng nhiễm mặn đã làm trầm trọng thêm vấn đề cung cấp nước sạch ở các vùng
duyên hải. Công nghệ thu gom nước mưa được chính phủ và các nhóm phi chính phủ tuyên
truyền và phổ biến rộng rãi. Nền nông nghiệp thích nghi với ngập lụt được thúc đẩy thông
qua nghiên cứu các giống lúa chịu mặn ; lắp đặt hệ thống ống dùng cho tưới tiêu gần mặt
đất nhằm giảm tác động của độ mặn…
Các giải pháp thích ứng được đề xuất cho Bănglađét nhằm giảm thiểu các tác động của
biến đổi khí hậu và nước biển dâng dựa trên các cơ chế hiện nay, các thực tiễn và các chiến
lược tương lai. Các giải pháp này được chia thành 2 nhóm, gồm nhóm ‘can thiệp’ và nhóm
‘hỗ trợ’.
Nhóm các giải pháp can thiệp bao gồm:
1. Thúc đẩy áp dụng nền canh tác vùng ven biển trong điều kiện độ mặn tăng.
2. Thúc đẩy ngư nghiệp vùng ven biển thông qua ương, nuôi, đa dạng hóa các thực
tiễn nuôi các loài cá có khả năng chịu mặn ở các vùng ven biển của Bănglađét.
3. Xây dựng các khu nhà tránh lũ, thành lập trung tâm thông tin và hỗ trợ cho tình
hình ngập lụt ngày càng tăng.
4. Giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu thông qua tái trồng rừng với sự tham
gia của cộng đồng địa phương.
5. Cung cấp nước sạch cho các cộng đồng vùng ven biển nhằm giải quyết tình trạng
nhiễm mặn gia tăng do nước biển dâng.
6. Tăng tính ‘đàn hồi’ của cơ sở hạ tầng độ thị và các ngành công nghiệp trước các tác
động của biến đổi khí hậu, như ngập lụt và bão.
Nhóm các giải pháp hỗ trợ bao gồm:
1. Xây dựng năng lực về lồng ghép biến đổi khí hậu vào quá trình quy hoạch, thiết kế
xây dựng cơ sở hạ tầng, quản lý xung đột.
24
2. Tìm kiếm các giải pháp về bảo hiểm trước các thảm hoạ về biến đổi khí hậu
3. Lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chính sách và các chương trình
trong các ngành/lĩnh vực khác nhau.
4. Đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào chương trình giảng dạy ở cấp trung học trở lên.

5. Phổ biến thông tin về biến đổi khí hậu và các giải pháp thích ứng cho các cộng
đồng dễ bị tổn thương, các giải pháp ứng phó khẩn cấp và nâng cao nhận thức về
các thảm hoạ liên quan đến khí hậu.
6. Thúc đẩy nghiên cứu các giống cây trồng có khả năng chống mặn, ngập lụt nhằm
hỗ trợ cho việc thích ứng trong tương lai.
7. Tìm kiếm và phổ biến các tri thức/kinh nghiệm về thích ứng (bao gồm cả các tri
thức bản địa) với khả năng biến đổi của khí hậu.
Hình 6. Sơ đồ quy trình soạn thảo NAPA của Bănglađét
Nguồn: Bộ Môi trường và Rừng, Bănglađét, 11/2005
Nhóm Hướng dẫn chính
sách và Quản lý
Các nhiệm vụ và kết quả
Các tài liệu thứ cấp quan
trọng
Ban Điều phối dự án NAPA
Nhóm Quản lý dự án NAPA
(Giám đốc Dự án Quốc gia,
Điều phối viên dự án quốc
gia)
Nhóm tư vấn
quốc gia
Nhóm tư vấn
quốc tế
Hội thảo khởi động
Thảo luận về Phương pháp luận đánh giá tính
tổn thương và khả năng thích ứng theo ngành
Tổng hợp các tác động
Chiến lược, tính tổn thương, các thách thức và
xu thế phát triển, cơ sở khung triển khai
Nhóm chuyên gia đa ngành và

Nhóm công tác theo ngành
Tư vấn cho các bên có vai trò ở cấp vùng
Xác định các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, các
chiến lược và giải pháp thích ứng trong tương lai
Báo cáo đánh giá theo ngành
Các tác động, tính tổn thương và các giải pháp thích ứng
tiềm tàng
Kết nối các hoạt động tiềm tàng của
NAPA
Dựa trên những tư vấn và ý tưởng từ Báo cáo đánh
giá theo ngành
Xây dựng tiêu chí
đểưu tiên các giải pháp thích ứng
Tư vấn cho các bên tham gia có vai tròở cấp
quốc gia
Ưu tiên và sắp xếp các dự án/biện pháp thích ứng
NAPA hoàn chỉnh
Danh mục các dự án tiềm tàng
được lồng ghép vào Chính sách Quốc gia
Cơ sở khung và Chương trìnhđược Chính phủ thông qua
• Khung chính sách thích
ứng
• Phương pháp và cơ sở khung
được sử dụng trong các nghiên
cứu trước đây
• Các nghiên cứu trước đây
• Báo cáo về các chiến lược
cho các hiện tượng thời
tiết khắc nghiệt.
• Kế hoạch quản lý tài

nguyên nước quốc gia.
• Chiến lược về giảm đói
nghèo.
• Kế hoạch Phát triển Quốc
gia
• Các kế hoạch Phát triển
của ngành.
25
2.2. TRUNG QUỐC
Đã có những bằng chứng cho thấy nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng cao đã
gây ra những tác động đối với các vùng ven biển Trung Quốc, gồm gia tăng xói lở, suy
thoái các hệ sinh thái, tăng nhiễm mặn, tần suất và cường độ bão. Những tác động này
khác nhau ở từng khu vực, tuỳ thuộc vào các điều kiện vật lý, sinh thái, kinh tế xã hội
của từng địa phương. Các hoạt động của con người ở vùng ven biển cũng góp phần
làm gia tăng những ảnh hưởng này.
Dọc bờ biển Trung Quốc có 14 đơn vị hành chính, trong đó có 8 tỉnh, 2 thành phố
lớn (Thượng Hải và Thiên Tân), hai khu hành chính đặc biệt (Hồng Kông và Ma Cao)
với tổng diện tích khoảng 1,6x10
6
km
2
, chiếm 16,8% tổng diện tích lãnh thổ Trung
Quốc, nhưng tập trung tới 41,9% dân số và đóng góp 72,5% GDP. Dải ven biển phía
Đông này chính là khu vực tập trung dân cư và kinh tế phát triển năng động nhất. Tuy
nhiên, các vùng châu thổ thấp và đồng bằng ven biển này lại được đánh giá là khu vực
dễ bị tổn thương nhất do nóng lên toàn cầu và nước biển dâng. Dự báo trong tương lai
nóng lên toàn cầu và nước biển dâng sẽ tiếp diễn và gia tăng, kèm theo những thảm
họa do bão và mưa lớn. Trong thời gian gần đây, phát triển kinh tế nhanh chóng diễn
ra đồng thời với việc thu hút số đông dân cư đổ về các vùng duyên hải và đô thị hóa đã
gây ra sức ép ngày càng lớn đến tài nguyên vùng ven biển ở Trung Quốc. Các hoạt

động của con người tăng lên làm cho những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực
nước dâng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn (Bảng 6).
Bảng 6. Số liệu thống kê 14 đơn vị hành chính ven biển ở Trung Quốc
Nguồn : Uỷ ban Thống kê Nhà nước, Trung Quốc 2000.
Trong những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc bùng nổ là nhờ có các chính sách
khuyến khích sự phát triển của các vùng duyên hải. Những chính sách đó đã thúc đẩy
xu thế và luồng di dân ra các vùng ven biển lớn nhất trong lịch sử. Nước biển dâng cao
làm tăng rủi ro ngập lụt ở các vùng dễ bị tổn thương nhất, là nguyên nhân gây tổn thất
về kinh tế và đẩy con người vào tình trạng nguy hiểm. Ngập lụt vùng duyên hải do
nước dâng kèm theo bão đã ảnh hưởng đến hàng chục triệu người và thiệt hại hàng
chục triệu USD. Trung Quốc cũng là nước nằm trong danh sách 10 nước có phần đông
Đất liền Đảo Tổng số % tổng số
Diện tích(10
6
km
2
)
1.248 0.36 1.608 16,75
Dân số (10
6
)
498,5 29,1 527,6 41,9
Mật độ dân số (người/km
2
)
321,6
GDP (10
9
USD)
596,83 438,33

1.035,16 72,5
Diện tích vùng ven biển dễ
bị tổn thương (10
3
km
2
)
143,9 9.456,1 9.600 1,5
Dân số khu vực dễ bị tổn
thương (10
6
km
2
)
162,09 1097 1.259,09 0,13

×