Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

ca trù ca trù vietsciences trần văn khê 25102004 bề dầy lịch sử ca trù theo một số chuyên gia có thể sinh ra từ đời lý thế kỷ thứ 11 hay muộn nhứt cũng từ đời lê thế kỷ thứ 15 cách nay hơn 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.79 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ca Trù</b>



<b>Vietsciences-Trần Văn Khê 25/10/2004</b>


<b>Bề dầy lịch sử. </b>


Ca trù theo một số chuyên gia , có thể sinh ra từ đời Lý ( thế kỷ thứ 11) hay muộn nhứt cũng từ đời Lê (thế kỷ thứ 15)
cách nay hơn 500 năm. Có nhiều sách sử ghi lại lịch sử của Ca trù. Trong quyển « Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù
« của Nguyễn xn Diện do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành từ năm 2000 , tác giả đã cho chúng gta biết rằng
tại Viện Hán Nơm, có tàng trử 39 quyển sách viềt bằng chữ Nôm vể Ca trù , 78 văn bia về thể lệ, sinh hoạt Ca trù. Và
cịn có 93 sách báo viết bằng chữ quốc ngữ về Ca trù.


<b>Chiều sâu của nghệ thuật. </b>


Về mặt nghệ thuật thì Ca trù là một loại nhạc thính phịng vơ vùng độc dáo.
Chỉ có 3 người mà nên đình nổi đám


Chỉ có 2 diễn viên một đào nương vừa ca vừa gõ phách, một người đàn đáy phụ hoạ và một người dánh trống chầu vừa
tham gia vào buồi trình diễn bằng cách chấm câu , vừa phê phán khen thưởng bằng tiếng tom chát của trống để hướng
dẫn người nghe biết tiếng ca lúc nào hay, tiếng phách lúc nào giòn, tiếng đàn lúc nào xuất sắc.


Nhạc và Thơ quyện nhau như bóng với hình


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Kỹ thuật hát tinh vi , độc đáo </b>


Cách ém hơi, nhả chữ, đào nương khơng mở to miệng, gần như mím mơi mà ca thì trịn vành rõ chữ, luyến láy khi đổ
hột , lúc đổ con kiến, hơi trong cổ theo kỹ thuật "ậm ự" làm cho lời ca những đoạn buồn, như có tiếng khóc chẳng khác
tiếng hát đặc biệt của người Á rập nghe "khàn khàn mà nức nở" xốy lịng người nghe, khéo biểu diễn thì người cầm
chầu khơng thể dằn lịng, phải thưởng tiếng hát với khổ chầu "xuyên tâm" , hay "song châu" .


Cổ phách, phách cái, phách con, cách gõ phách đặc biệt vô song



Đào nưong chẳng những hát hay mà tay phách phải vững : 5 khổ phách : sòng đầu, khổ đơn ( hay khổ giữa), khổ rải,
khổ xiết, khổ lá đầu, cùng với tiếng đàn đáy đánh đoạn mở đầu. Lúc không hát, chỉ có tiếng đàn biểu diễn đoạn » lưu
khơng « tiếng phách lại phải róc giịn cho người đàn thêm hứng..


<b>Phách ca trù có mơt khơng hai trên thế giới :</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

các nước trên thế giới, khi nhạc công gõ phách hay đánh trống, đều dùng hai dùi giống nhau.Chỉ có trong truyền thống
ca trù hai dùi phải khác nhau. .


Hai dùi trịn dài, một dùi chuốc hơi nhọn ở phía đầu. Một dùi chẻ làm hai theo chiều dài nhưng cập lại để gõ. Dùi tròn,
và nhọn, tượng trưng cho dương vật, dùi chẻ hai, là âm vật. Như vậy hai dùi là Dương Âm trộn hai tiếng khác nhau,
một tiếng tròn, một tiếng dẹp, một tiếng cao, một tiếng thấp, một tiếng trong một tiếng đục, một tiếng nặng một tiếng
nhẹ, một tiếng Dương một tiếng Âm, chen nhau, xen kẽ, pha trộn, khi gõ riêng từng dùi, khi gỏ hai dùi một lượt gọi là
"chát" làm cho tiết tấu có nhịp hẵn hịi mà nghe như khơng có nhịp, thực mà như hư, có mà như khơng ,hiện mà như ẩn.
Có chỗ tiếng phách bao trùm tiếng hát như làn sóng lượn, lúc điểm đều đặn chấm câu, gõ cùng một lượt với tiếng đàn
và tiếng trống chầu.


Cách gõ phách làm người nghe hứng thú, không phải nghe tiếng gõ đều đều làm chán tai, mà có tiếng mạnh tiếng nhẹ
như cách đánh castagnettes của người Tây ban Nha trong diệu hát flamenco, tiếng trống tabla va bahya của Ấn độ hay
cách đàn Rubato đặc biệt của Chopin, khi tay trái đánh đều theo nhịp một cách rõ ràng, tay mặt tha hồ lả lướt trên phím
<b>ngà như mây bay, nước chảy không cần theo nhịp, và mang tên là "Rubato chopinesqu. Trên thế giới chỉ có bốn thí </b>


<b>dụ tôi vừa kể trên trong trăm ngàn cách đánh nhịp. Người Ấn độ hãnh diện với cách đánh nhịp như thế, và đã nghĩ </b>


rằng trên thế gian chỉ có bên Ấn độ là có đuợc Tala là tiết tấu nhịp điệu rõ ràng và Laya là nhịp mà như khơng có nhịp.
Có người nhạc sĩ nói với tơi : Tala như bước đi của một người phụ nữ, đều đặn . Còn Laya là chiếc váy phất phơ theo
bưóc đi. Ngưới ta nghe rõ và đếm đươc bước đi mà không đếm được cái phất phơ của chiếc váy.


Trong truyền thống Ca trù khơng có bài bản như trong Ca Huế hay đòn ca tài tử, mà có những "Lối", hay "Thể" theo
danh từ dùng trong Ca trù biên khảo gần giống như Làn điệu trong Hát chéo và Hát bội.Lời thơ có trước Rồi nét nhạc


tùy theo thanh giọng của câu thơ mà thể hiện. Nhưng cấu trúc âm thanh thì khơng thể sai.Thí dụ như có Ba thể điêu
Bắc Phản , Mưỡu Hát nói mà có rất nhiều bài. Hát nói do nhiều nhà văn nổi tiếng đạt ra. Sách Ca trù biên khảo của hai
tác giã Đỗ bằng Đoàn và Đỗ trọng Huể co ghi lại Dương Khuê,( 13 bài) Nguyễn công Trứ(52 bài), Cao Bá Quát,(16
bài ) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (12 bài) Vô Danh ( 38 bài)Trần Tế Xương (7 bài) Nguyễn Khuyến ( 6 bài)Nguyễn
Quí Tân (5 bài)Nguyễn đức Nhu ( 6 bài) , Nguyễn văn Bình (9 bài) Cụ Ưng Bình ( 2 bài : nhưng thật ra Ông Cụ đã
sáng tác mấy chục bài mà Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khuơng ái nữ của Cụ đã sưu tập ) Gân đây các Cụ Nguyễn Linh Ngọc,
Chu Hà ngồi Bắc có rất nhiều bài. Cũng như trong Nam Nuyễn Quảng Tuân trong tập Ca trù Thú Xưa Tao nhã đã
sáng tác hơn 70 bài hát nói với nhiều đề tài hiện đại như Ba lê cảm tác, những bài Hát cảm tác khi sang Nhựt, lúc sang
Trung quốc .


<b>Các thể rất nhiều. </b>


Sách Ca trù biên khảo có ghi lại :


Khi Hát chơi tại nhà ả đào hay nhà quan viên 15 thể
Hát cửa đình 12 thể


<b>Hát thi có 4 giai đoạn : </b>


Vãn chỉ cần vài câu Gửi thư, ngâm vịnh để tỏ ra đào nương biết hát Giám khảo chứng nhận và cho phép vào hát
Chầu thi.


Chầu thi có 28 khúc hát Giám khảo bảo hát khúc nào phải hát và sau khi trúng tuyển vào Chầu cầm ;
Chầu cầm có 17 khúc hát. Trúng tuyển Chầu Cầm mới đưọc vào giai đoạn chó là Hát lại hay Phúc hạch
Lúc thi giám khảo chấm hát, đàn ; Kỹ thuật xong mới đến nhan sac.


Và cuối cùng xét đến hạnh kiểm.


Giải nhứt là Thủ khoa ; Giải nhì Á nguyên



Đến đêm hát Giã đám, các đào nương trúng giải xếp hàng đôi :
Đứng đầu bên trái là Thủ khoa rội đền các cô giải ba, bớn, năm, sáu
Đầu hàng bên mặt là Á nguyên và tiếp theo giải bảy tám, chín mười
<b>Sáng hôm sau đến lãnh thưởng : </b>


Thủ khoa lãnh 30 quan tiền 10 vuông nhiểu điều, 1 cân trà Tàu và 1 cái quạt Tàu
Á nguyên lãnh 26 quan tiền 6 vuông nhiểu điều, nửa cân trà Tàu và một cái quạt Tàu


Từ giải ba 24 quan tiền trở xuống thì mỗi giải ít hơn giải trước 2 quan tiền 22, 20, 18 đến giải thứ 10 thì cịn 10
quan tiền, khơng có nhiểu điều và trà Tàu mà chỉ có 1 quạt Tàu.


Xong rồi dự tiệc : ngoài các cổ cho chức sắc trong làng , Thủ khoa và Á nguyên ngồi một cổ, 8 cô từ giải 3 đén giải 10
chia ra ngồi 2 cổ. Thức ăn có giị, nem, ninh mộc,có sơn hào là hai con chim bồ câu hầm,và hải sãn là 1 con cua biển, 1
con cá trắm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Lúc ăn có nhạc bát âm giúp vui.


</div>

<!--links-->
Luận văn đánh giá hiệu quả của công tác đấu giá quyền sử dụng đất ở một số dự án trên địa bàn thành phố phủ lý, tỉnh hà nam
  • 117
  • 987
  • 2
  • ×