Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

SKKN mỹ THUẬT Kinh nghiệm linh hoạt phân chia lượng kiến thức trong mỗi tiết học theo chủ đề môn Mĩ thuật phương pháp mới Đan Mạch ở bậc tiểu họcKinh nghiệm linh hoạt phân chia lượng kiến thức trong mỗi tiết học theo chủ đề môn Mĩ thuật phương pháp mới Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 28 trang )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN

I. Cơ sở lý luận:
Dạy học là một nghệ thuật nhưng dạy nghệ thuật lại càng phải nghệ thuật
hơn. Khi dạy học người giáo viên phải có vai trị dẫn dắt khéo léo để biến q
trình dạy học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức cho mỗi
học sinh. Để làm tốt điều đó người giáo viên cần phải dốc hết nhiệt huyết nghiên
cứu, tìm tịi, sáng tạo, linh hoạt trong việc nắm bắt và trau dồi kiến thức, nắm
vững phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của đổi mới phương pháp nhằm phát
huy tính tích cực độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh thông qua việc học sinh
chủ động tham gia vào các hoạt động học tập để lĩnh hội kiến thức, biến học sinh
thành một chủ thể tích cực, chủ động nắm bắt kiến thức một cách tự nhiên, khơng
gị bó.
Với việc áp dụng phương pháp của dự án Đan Mạch vào chương trình Mĩ
thuật hiện hành thì việc phát huy tính độc lập của người học càng cao bởi dự án
đã chứng tỏ tính ưu việt và sự phù hợp với nhu cầu đổi mới về phương pháp dạy học Mĩ thuật tiểu học ở Việt Nam. Dự án sau 5 năm thử nghiệm đã mang lại nhiều
kết quả hơn mong đợi và được nhân rộng trên toàn quốc.
Năm học 2016 - 2017 được sự chỉ đạo của các cấp về việc triển khai dạy
thử nghiệm phương pháp của dự án Đan Mạch vào chương trình hiện hành,
phịng giáo dục đào tạo Việt Trì đã tổ chức các chương trình tập huấn, dạy chun
đề trên tồn huyện kết quả gặt hái nhiều thành cơng, song cũng có những hạn chế.
Hầu hết do giáo viên chưa hiểu đúng tinh thần phương pháp, quá máy móc với
từng bước của quy trình Mĩ thuật mới. Thực ra vận dụng 7 quy trình của phương
pháp mới Đan Mạch vào chương trình hiện hành nhằm mục đích: “truyền cảm
hứng sáng tạo” để giúp các giáo viên Mĩ thuật có thể vận dụng linh hoạt “Cái
mới” vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Phương pháp mới ở đây có thể là mới
về hình thức, phương pháp, vật liệu, cách tạo hình,…nên mỗi giáo viên tùy theo
điều kiện thực tế mà lựa chọn áp dụng cho phù hợp.
Và để hỗ trợ cho các giáo viên trên mọi vùng miền không lúng túng trong
việc soạn - giảng thì năm học 2016 - 2017 bộ sách Dạy và Học Mĩ thuật theo định
hướng phát triển năng lực ra đời. Về cơ bản bộ sách như một tập tài liệu tham


1


khảo với một khung sườn gợi ý chung, bộ sách hầu như không phân chia lượng
kiến thức cụ thể ở “mỗi tiết” trong mỗi một chủ đề vì đó là nhiệm vụ của giáo
viên người trực tiếp nghiên cứu giảng dạy, người hiểu nhất năng lực, kĩ năng, vật
liệu, quy trình,…phải sử dụng để phân chia phù hợp với học sinh mình và với
thiết kế cụ thể về kênh hình, kênh chữ nên bộ sách khá phù hợp cho giáo viên
trong quá trình áp dụng. Kết quả đã gặt hái nhiều thành công như giáo viên Mĩ
thuật đã tự chủ, vận dụng khá linh hoạt sáng tạo trong việc soạn – giảng phân chia
tiết theo các chủ đề, nhiều giáo viên rất tâm huyết, đã tìm ra các hình thức tổ chức
dạy học và giải pháp về đồ dùng, vật liệu tạo hình tích cực, xây dựng khơng ít
những chương trình hoạt động, những câu lạc bộ, những sân chơi bổ ích phù hợp
với năng khiếu và sở trường của học sinh, nhằm giúp các em giảm bớt áp lực học
tập, đem lại niềm vui hứng thú thực thụ để khơng ngừng nâng cao chất lượng dạy
học. Bên cạnh đó cũng có nhiều giáo viên chưa nhiệt tình, ln thấy khó khăn
nhiều khi thực hiện. Đặc biệt việc phân chia lượng kiến thức trong mỗi tiết qua
mỗi chủ đề còn lúng túng, chưa hợp lí, rập khn, ngại đổi mới, khơng chịu khó
tìm tịi nghiên cứu, học hỏi chưa linh hoạt chọn và kết hợp các quy trình để phù
hợp với đối tượng học với nguồn cơ sở vật chất, chưa tạo được động lực học tập
trong các em.
Cái mới sẽ kéo theo nhiều khó khăn, việc thay đổi khơng thể diễn ra một
sớm, một chiều nhưng tôi thiết nghĩ chúng ta hãy cố gắng thay vì thấy khó khăn,
các giáo viên hãy tập trung tìm các giải pháp để khắc phục nó, chắc chắn chúng ta
sẽ thành cơng. Để giúp giáo viên tự tin hơn trong việc linh hoạt lựa chọn lượng
kiến thức phù hợp trong mỗi tiết dạy tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm sau gần 2
năm áp dụng nghiêm túc hiểu biết của mình về phương pháp mới của dự án Đan
Mạch qua một số chủ đề cụ thể, nó sẽ hỗ trợ, tháo gỡ được phần nào khó khăn
phần lớn giáo viên mắc phải với sáng kiến:
“Kinh nghiệm linh hoạt phân chia lượng kiến thức trong mỗi tiết học

theo chủ đề môn Mĩ thuật phương pháp mới Đan Mạch ở bậc tiểu học”.

II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến:
+ Phân tích và tổng hợp
+ Phân loại, hệ thống hoá
2


+ Phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Phương pháp điều tra.
+ Phương pháp phân tích và tổng kết.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động, xử lý số liệu.

III. Mục tiêu:
Ứng dụng cho giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật phương pháp mới Đan Mạch
bậc Tiểu học.

3


CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN

1. Thực trạng của vấn đề:
- Bộ môn Mĩ thuật đã nhận được sự quan tâm sát sao của các cấp, các
ngành về chỉ đạo dạy và học.
- Nhà trường, các tổ chức đoàn thể đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng cơ sở vật chất và hoạt động dạy học Mĩ thuật.
- Các bậc phụ huynh quan tâm, cùng phối hợp nên đã tạo được nguồn quỹ

về đồ dùng và hỗ trợ tìm vật liệu phục vụ cho việc học tập của các em học sinh.
- Giáo viên được linh hoạt, chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp,
hình thức dạy và học Mĩ thuật theo phương pháp mới Đan Mạch.
- Vật liệu tạo sản phẩm hầu như tận dụng được từ cuộc sống thường nhật
nên đỡ tốn kém mặt khác cịn góp phần giữ gìn và bảo vệ mơi trường.
- Sản phẩm tạo ra cũng tận dụng trang trí cho trường, cho lớp nên các em
học sinh rất đỗi tự hào khi thấy sản phẩm của mình được trân trọng.
- Học sinh được làm quen, trải nghiệm trên nhiều vật liệu, đồ dùng để phát
huy các năng lực, phẩm chất, kĩ năng của mình ngày càng khéo léo, kích thích
phát huy được trí thơng minh.
- Học sinh đặc biệt rất u thích mơn học Mĩ thuật theo phương pháp mới
Đan Mạch.

2. Các tồn tại, hạn chế
2.1. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh học sinh vẫn cịn nặng quan điểm phân biệt mơn chính, môn
phụ nhiều nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho con em trong học tập môn Mĩ
thuật.
- Nhiều phụ huynh còn chưa quan tâm đến việc học Mĩ thuật của con em
mình, chưa quan tâm liên lạc gặp gỡ với giáo viên Mĩ thuật hay kiểm tra con em
xem cần những gì để phục vụ cho học tập.
- Các bậc phụ huynh còn coi nhẹ những buổi tổ chức trưng bày sản phẩm
học tập của con em mình mà giáo viên Mĩ thuật tổ chức vào cuối mỗi năm học để
tổng kết một năm học về ưu điểm và hạn chế cũng như những thu hoạch được của
4


các em trong cả một năm học tập Mĩ thuật. Chưa đến tham quan, dự buổi tổ chức
này, làm cho buổi tổ chức trưng bày sản phẩm học tập này kém đi sự quan tâm và
hiệu quả động viên giáo viên cũng như bản thân các em học sinh chưa cao.

- Ngoài ra phương tiện, đồ dùng học tập của học sinh cịn sơ sài, nhiều học
sinh vẫn cịn tình trạng thiếu đồ dùng học tập khi lên lớp, tư liệu phục vụ mơn học
theo phương pháp mới cũng cịn nhiều hạn chế.
2.2. Về phía học sinh:
- Học sinh vẫn còn lúng túng, chưa bắt nhịp kịp được với sự thay đổi theo
phương pháp mới.
- Kĩ năng sử dụng vật liệu, đồ dùng, tạo sản phẩm cá nhân, sản phẩm nhóm
của học sinh cịn hạn chế.
- Việc sưu tầm vật liệu tìm được trong cuộc sống hàng ngày chưa phong
phú.
- Nhiều sản phẩm của các em chất lượng còn chưa cao, chưa thể hiện được
sự sáng tạo.
2.3. Về phía giáo viên:
- Năm học 2020 – 2021 này so với năm học trước 2019 - 2020 thì đã thấy
được sự chuyển biến rõ rệt. Đa số giáo viên Mĩ thuật ở các trường bạn trong
huyện đã nắm bắt được tinh thần của phương pháp mới, cũng tích cực trong việc
trau dồi chuyên môn, chú trọng phát triển các kĩ năng, năng lực, sáng tạo của học
sinh. Kết quả các em đã làm được nhiều sản phẩm có tính sáng tạo cao hơn, đa
dạng hơn. Điều đó được tạo ra từ sự hứng thú, chủ động trong học tập của các em
học sinh.
- Nhưng bên cạnh đó, đến thời điểm này vẫn còn nhiều giáo viên Mĩ thuật
còn chưa biết lựa chọn phân chia lượng kiến thức cho mỗi tiết dạy qua mỗi một
chủ đề như thế nào, hay phân chia các hoạt động trong mỗi tiết học Mĩ thuật còn
nhiều lúng túng, sơ sài, qua loa, chưa linh họat dựa trên những hiểu biết, kĩ năng,
khả năng, vật liệu sẵn có,...để vận dụng sáng tạo trong tiết dạy, cụ thể:
+ Có những chủ đề, lượng tiết và lượng mục tiêu giống nhau thì có giáo
viên chia số tiết trong chủ đề như sau:
Tiết 1: Hoàn thành mục tiêu 1.
5



Tiết 2: Hoàn thành mục tiêu 2.
Tiết 3: Hoàn thành mục tiêu 3.
Hoặc:

Tiết 1: Tìm hiểu và hướng dẫn cách thực hiện.
Tiết 2: Thực hành.

+ Giáo viên còn nhầm lẫn kiến thức giữa các tiết với nhau, không biết cách
chia lượng kiến thức trong mỗi tiết như thế nào do chưa hiểu hết bản chất của
phương pháp mới Đan Mạch.
+ Giáo viên cịn máy móc, rập khn theo sách Dạy Mĩ thuật của giáo viên
và Học Mĩ thuật của học sinh từ câu hỏi, đến quy trình khi soạn giảng và lên lớp
thực tế. Trong khi sách chỉ là phần tham khảo để giáo viên lựa chọn mục tiêu, quy
trình thế nào cho phù hợp với học sinh của trường mình.
+ Một số câu hỏi rải rác ở các chủ đề, hay hình ảnh minh họa trong sách
đưa ra giáo viên cần phải xem đã phù hợp với học sinh trường mình chưa, hay
phải thay đổi như thế nào cho phù hợp. Bản thân tôi nhận thấy về cơ bản, sách
mới xuất bản lần đầu nên nhiều chỗ chưa hợp lí, hình ảnh một số chỗ khơng rõ
ràng, câu hỏi khó hiểu đối với trị vì khả năng tiếp thu của trị ở mỗi nơi đều có
đặc điểm riêng nên các giáo viên trong quá trình nghiên cứu soạn giảng cũng phải
để ý thay đổi cho hợp lí để tiết dạy sát với thực tế ở địa phương mình và linh hoạt
hơn.
+ Một bộ phận giáo viên chưa mạnh dạn thay đổi quy trình, hình thức thể
hiện sản phẩm,... vì cứ sợ khác tiến trình trong sách và ln chọn cách dạy an
toàn khỏi người khác bắt bẻ, gây cứng nhắc và gị bó rập khn khiến cho học
sinh khơng hứng thú và không phát triển được sự sáng tạo cũng như năng lực của
các em.
+ Chưa biết cách thay đổi mục tiêu chung của chủ đề thành mục tiêu riêng
phù hợp với đối tượng học sinh theo từng lớp trong mỗi tiết học.

+ Nhiều giáo viên khi thực hiện giảng dạy một số chủ đề còn chưa chú ý
đến việc rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng, vật liệu tìm được cho học sinh dẫn đến học
sinh thao tác tạo sản phẩm không hiệu quả hoặc hiệu quả đạt được qua sản phẩm
còn chưa cao.

6


Qua thực tế nghiên cứu giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp tôi thấy một
bộ phận giáo viên do chưa hiểu hết về phương pháp mới, cũng như sách mới và
chưa thực sự đầu tư thích đáng nên việc soạn - giảng, phân chia tiết theo chủ đề
còn bối rối, gây nhiều tranh cãi, chưa đi đến thống nhất, chưa chịu khó nghiên
cứu học hỏi nên đưa ra những đánh giá lệch lạc về tiến trình của người khác.
Chính vì những lí do trên tơi đã tìm ra ngun nhân cho những hạn chế đó.

3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
3.1 Về giáo viên:
- Giáo viên chưa hiểu sâu sát về nội dung sách, cũng như cách tiến hành thực
hiện truyền tải kiến thức trong sách đến học sinh.
- Một số giáo viên còn chưa đầu tư nghiên cứu nghiêm túc các tiến trình dạy
học linh hoạt theo chủ đề và giáo viên cũng ít học hỏi ở bạn bè, đồng nghiệp gần
xa, cịn tình trạng đến giờ lên lớp và hết giờ thì về, thế là hết trách nhiệm mà
không quan tâm các em tiết học hơm nay thu hoạch được những gì, chưa có cái
tâm và tâm huyết thực sự với nghề.
- Chưa linh hoạt trong việc kết hợp sáng tạo các quy trình, các hình thức tổ
chức và thực hiện tạo sản phẩm cịn sơ sài.
- Thiếu nhiệt tình, thiếu tâm huyết trong việc giới thiệu và hướng dẫn học sinh
sử dụng các vật liệu, đồ dùng. Cịn đối với những trường khó khăn về đồ dùng
giáo viên cũng chưa đưa ra các biện pháp để huy động được lượng đồ dùng sao
cho hợp lý và đủ để phục vụ cho học sinh trong mỗi tiết học Mĩ thuật.

- Một số giáo viên soạn bài rập khuôn y nguyên theo sách Dạy và Học mĩ
thuật vì nhìn vào sách được thiết kế dạng VNEN, nhưng phân tích kĩ nhiều chỗ
phải thay đổi mới phù hợp với đối tượng học, vùng miền.
- Nhiều giáo viên khác soạn lại, đi coppy các bài soạn trên các trang mạng
hoặc của người khác, một số giáo viên tham khảo sửa đổi phù hợp còn lại sửa qua
sử dụng mà khơng để ý tới nội dung, tiến trình đó đã phù hợp với học sinh trường
mình chưa.
3.2 Về phụ huynh:
- Một bộ phận không nhỏ phụ huynh học sinh nhận thức chưa đầy đủ, quan
niệm sai lệch về mục tiêu giáo dục môn Mĩ thuật trong trường Tiểu học, còn coi
7


nhẹ môn học là môn phụ, nên chưa quan tâm, đầu tư đúng mức cho con em của
mình trong việc học tập mơn Mĩ thuật. Cịn nhiều em thiếu đồ dùng học tập khi
lên lớp, mà phương pháp mới này lại cần rất nhiều đồ dùng chứ không như
phương pháp cũ chỉ cần giấy vẽ, vở vẽ và màu, bút chì, tẩy, đất nặn là xong.
- Đa phần phụ huynh học sinh chỉ chú trọng và quan tâm đến các mơn học văn
hóa như Tốn, Tiếng Việt...của các em, mà không thường xuyên kiểm tra, động
viên các em về môn học Mĩ thuật. Từ đó làm cho học sinh có suy nghĩ rằng bố
mẹ chỉ kiểm tra kết quả học tập của mình với các mơn học kia mà chẳng bao giờ
quan tâm đến mơn Mĩ thuật, mình chỉ cần học tốt các mơn kia là được, cịn mơn
Mĩ thuật học cũng được không học tốt cũng chẳng sao. Từ đó làm cho học sinh
ngày càng coi nhẹ, lười học Mĩ thuật, chuẩn bị đồ dùng cũng sơ sài, qua loa, đại
khái làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của giờ học Mĩ thuật.
3.3 Về nhà trường:
Thiết bị, đồ dùng cung cấp phục vụ cho dạy - học môn Mĩ thuật theo
phương pháp mới Đan Mạch cịn hạn chế. Giáo viên phải tự làm hoặc tìm kiếm
trên mạng nên rất mất thời gian, ảnh hưởng đến việc chuẩn bị bài cũng như quá
trình giảng dạy.

3.4 Về học sinh:
- Một số học sinh cịn xem nhẹ mơn học Mĩ thuật, chỉ coi trọng học các
mơn văn hóa khác do bị ảnh hưởng tư tưởng từ bố mẹ.
- Còn nhiều học sinh chuẩn bị đồ dùng trước giờ học môn Mĩ thuật chưa
đầy đủ.
- Học sinh ở lứa tuổi Tiểu học với tâm lý hiếu động, dễ thích nghi, mau nhớ
nhưng cũng mau qn, có lúc cịn chán học.
- Chỉ đạo và thực hiện hoạt động nhóm chưa tốt như một số học sinh lười
rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng, vật liệu hay ỷ lại cho các bạn trong nhóm, chỉ chọn
cho mình những việc dễ làm, an tồn,…
- Học sinh khơng có cơ hội sử dụng nhiều vật liệu tìm được trong các chủ
đề mà chủ yếu là vẽ.
4. Phân tích, đánh giá và tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến:

8


Từ những thực trạng, nguyên nhân trên cho thấy mỗi một giáo viên phải nỗ
lực hết mình để tìm ra nhiều biện pháp nhằm kích thích hết các khả năng tiềm ẩn
trong các em. Và trước hết để đạt được điều đó thì việc đầu tiên giáo viên phải
thực hiện đó là linh hoạt, lựa chọn và làm chủ được lượng kiến thức, hình thức
thể hiện qua mỗi tiết dạy trong mỗi một chủ đề và phải thiết kế đảm bảo phù hợp
đặc điểm lứa tuổi, phù hợp nội dung, phương pháp, hình thức, các kĩ năng và
năng lực của học sinh. Sau đây tơi xin trình bày một số giải pháp để khắc phục
những thực trạng hiện nay để có những giờ học mĩ thuật bổ ích và lí thú.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:

4. Giải pháp 1: Nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung dạy học theo chủ
đề.
- Với việc dạy học theo chủ đề Mĩ thuật thì mục tiêu thường xun có sự

điều chỉnh để phù hợp vùng, miền, cơ sở vật chất, đối tượng học,… nên các giáo
viên cần nghiên cứu kĩ để thực hiện đảm bảo.
- Như chúng ta đã biết mục tiêu là nền tảng cho quá trình giảng dạy và học
tập, mục tiêu cịn đóng vai trị như một động lực. Dựa vào mục tiêu, việc đánh giá
kết quả học tập được xác định và thực hiện và khi đề ra mục tiêu bài học, giáo
viên phải hình dung rõ là sau mỗi chủ đề học sinh có được những kiến thức, kĩ
năng, thái độ ở mức nào chứ không phải tập trung vào những điều giáo viên phải
đạt được sau khi dạy nên đòi hỏi mỗi giáo viên phải nghiên cứu kĩ mục tiêu thì
mới linh hoạt lựa chọn được các phương pháp, quy trình, kĩ thuật dạy học phù
hợp.
- Cịn nội dung dạy học là kiến thức và mức độ cần học do đó cũng cần
nghiên cứu kĩ để việc khai thác nội dung chủ đề đạt hiệu quả cao phù hợp khả
năng, năng lực, kĩ năng, đối tượng học,... và muốn khai thác tốt nội dung chủ đề,
giáo viên cần:
+ Vận dụng linh hoạt các quy trình, tiến trình dạy học dựa trên những tài
liệu có sẵn, thực tế dạy và học để điều chỉnh, khai thác nội dung phù hợp.
+ Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, vật liệu, mơ hình sản phẩm nhằm làm sáng
tỏ nội dung qua đó tổ chức các hoạt động cho học sinh, chủ động tìm và nắm
vững kiến thức.
9


+ Dựa vào những kinh nghiệm, hiểu biết sẵn có của học sinh để việc khai
thác đạt hiệu quả hơn.
Nội dung dạy học theo chủ đề phải gắn liền và toát lên được mục tiêu nên
mỗi giáo viên cần đầu tư thích đáng, kĩ lưỡng để điều chỉnh linh hoạt, phù hợp
với đối tượng học nhằm mang lại hiệu quả trong giảng dạy.
Ví dụ: “Chủ đề 10: Tranh tĩnh vật - Thời lượng 3 tiết - Lớp 4”.
Theo sách Dạy mĩ thuật và Học mĩ thuật, họ sử dụng quy trình vẽ biểu cảm
kết hợp vẽ quan sát nên chủ đề này có 3 mục tiêu:

- Nhận biết được tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát và tranh tĩnh vật biểu cảm.
- Vẽ được bức tranh tĩnh vật theo quan sát và biểu cảm theo ý thích.
- Giới thiệu, nhận xét và nêu được cảm nhận về sản phẩm của mình, của bạn.
Với mục tiêu trên, phần nội dung thiết kế đã toát lên được mục tiêu nhưng
nghiên cứu kĩ thấy chỗ mục tiêu 1: “Nhận biết được tranh tĩnh vật vẽ theo quan
sát và tranh tĩnh vật biểu cảm”. Sách đưa hình minh họa là tranh tĩnh vật được
tạo hình từ vật liệu khác chứ khơng phải tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát hay biểu
cảm. Với bài này nếu theo tiến trình đó giáo viên có thể thay đổi hình ảnh hợp lí.
Nếu mục tiêu chỉ là “Nhận biết được tranh tĩnh vật” thì có thể sử dụng hình ảnh
đó.
Bản thân tơi dựa vào khả năng, năng lực, kĩ năng của học sinh mình về thể
hiện chủ đề: “Tĩnh vật” đối với lớp 4, 5 (3 tiết), tôi sẽ sử dụng quy trình tạo hình
từ vật tìm được kết hợp vẽ quan sát và điều chỉnh mục tiêu phù hợp với điều kiện
dạy học thực tế của học sinh mình như sau:
- Nắm được đặc điểm của tĩnh vật (Mẫu).
- Tạo hình được bức tĩnh vật từ các vật liệu theo cảm nhận và ý thích.
- Giới thiệu, nhận xét và nêu được cảm nhận về sản phẩm của nhóm mình,
nhóm bạn.
Hoặc sử dụng quy trình vẽ cùng nhau thì khi đó mục tiêu lại điều chỉnh phù
hợp theo, cụ thể:
- Nhận biết được tranh tĩnh vật.
- Biết cách thực hiện và tạo được ngân hàng hình ảnh mẫu theo ý thích.

10


- Kết hợp được các sản phẩm cá nhân tạo thành sản phẩm nhóm theo cảm
nhận về ý tưởng nhóm.
- Giới thiệu, nhận xét và nêu được cảm nhận về sản phẩm của nhóm mình,
nhóm bạn.

Như vậy để thiết kế nội dung của chủ đề giáo viên phải chú ý tốt lên mục
tiêu, cũng có thể điều chỉnh mục tiêu phù hợp với khả năng, năng lực,...của học
sinh mình nhưng dù thay đổi hình thức, quy trình hay điều chỉnh mục tiêu như thế
nào vẫn phải đảm bảo học sinh hiểu và thể hiện được bức tranh tĩnh vật theo ý
thích.
Khi giáo viên nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung chủ đề thì mỗi tiết học sẽ
trở nên chủ động, sáng tạo và linh hoạt kéo theo đó là sự hào hứng, thích thú học
tập của trị và sản phẩm tạo ra sẽ thành công hơn mong đợi.
1. Giải pháp 2: Linh hoạt lựa chọn phân chia tiết theo chủ đề.
Không chỉ nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung chủ đề mà chúng ta cần linh
hoạt trong việc phân chia lượng kiến thức phù hợp cho mỗi tiết qua mỗi chủ đề.
Chủ đề có nhiều cách để làm sáng tỏ mục tiêu, nội dung có thể dựa vào:
- Cách vận dụng lựa chọn quy trình, phương pháp, hình thức, vật liệu,...
- Khả năng, năng lực của học sinh, điều kiện dạy - học theo vùng miền.
- Kĩ năng sử dụng đồ dùng, vật liệu.
- Sự sáng tạo, năng động.
Dù giáo viên thiết kế chủ đề theo quy trình, hình thức nào, dựa vào đâu thì
cũng phải:
- Đạt được mục đích cốt lõi của chủ đề.
- Lựa chọn, phân chia lượng kiến thức qua mỗi tiết hợp lí, phù hợp khả
năng, năng lực học sinhvà đặc biệt khi chia tiết chúng ta nên nghiên cứu kĩ để
tránh những thực trạng đưa ra ở trên để chủ đề trở thành nguồn cảm hứng thổi
hồn cho cả thầy và trò trong suốt quá trình tìm hiểu, trải nghiệm và sáng tạo. Đảm
bảo kết thúc hoạt động này là khởi đầu hoạt động kia, kết thúc tiết học trước là
khởi nguồn cho tiết tiếp theo.
- Năm học 2016-2017 là năm học đầu tiên Phòng giáo dục thành phố Việt
Trì thực hiện áp dụng chương trình mơn Mĩ thuật tiểu học theo phương pháp mới,
11



dự án hỗ trợ của Đan Mạch. Vì thế vẫn cịn rất nhiều bỡ ngỡ và khó khăn cho
giáo viên Mĩ thuật khi triển khai tiến hành giảng dạy. Và năm học đầu tiên áp
dụng dự án này thì trường tiểu học Tiên Cát tiến hành cho các em học sinh học
mơn Mĩ thuật theo hình thức cuốn chiếu chủ đề nào xong ln chủ đề đó trong
một buổi học.
Ví dụ với Chủ đề 8: “Cửa hàng gốm sứ” lớp 3, các em sẽ học ln 3 tiết
liền hồn thành ln chủ đề. Điều đó làm ảnh hưởng lớn đến việc sắp xếp thời
khóa biểu chung của cả trường, của các mơn văn hóa. Riêng mơn Mĩ thuật cũng
rất khó sắp thời khóa biểu. Cịn trong khi học, các em học 3 tiết liền gây cảm giác
nhàm chán, thụ động, dễ gây mất trật tự, ảnh hưởng đến lớp khác. Các em học
sinh ngoan, học tốt thì khơng sao, nhưng với một số học sinh cịn lười học thì đây
là cơ hội để các em ỷ lại vào các bạn trong nhóm, càng lười học hơn. Từ đó dẫn
đến càng ngày càng làm cho những học sinh đó khơng tiến bộ trong học tập mà
cịn ảnh hưởng khơng tốt đến các bạn trong nhóm. Tương tự như vậy, trong tất cả
các chủ đề của môn Mĩ thuật phương pháp mới sẽ khiến cho giáo viên lên lớp để
quản học sinh là chính chứ khơng phải để truyền thụ cho tất cả các em kiến thức
mới nữa. Bên cạnh đó, việc học liền mạch mấy tiết liền trong một buổi khiến cho
giáo viên Mĩ thuật và học sinh không gặp mặt thường xuyên hàng tuần như trước,
mà mấy tuần sau mới quay lại lớp đó. Ví dụ như có chủ đề đến 5 tiết mới hồn
thành thì giáo viên Mĩ thuật bốn tuần sau mới quay lại lớp đó dạy tiếp. Vậy trong
một tháng đó, các em học sinh lớp đó ra sao, sự liền mạch và sáng tạo, hứng thú
học mĩ thuật sẽ như thế nào? Tình cảm và sự thân thiện với giáo viên Mĩ thuật có
ảnh hưởng khơng? Chắc chắn là có. Các em sẽ mất hứng thú học Mĩ thuật vì thời
gian cách xa quá mới lại được học, sự thân thiện và tình cảm với giáo viên mĩ
thuật cũng giảm đi nhiều. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả và chất
lượng học tập của học sinh. Chính vì thế mà kết quả cuối năm học 2016-2017
này, số lượng các em học sinh hòa nhập và đạt kết quả hồn thành tốt mơn Mĩ
thuật phương pháp mới Đan Mạch chưa cao, có phần giảm đi so với năm trước
học phương pháp cũ, mặc dù các em rất hứng thú với phương pháp mới này. Số
lượng học sinh hồn thành chương trình mơn học lại tăng lên nhiều hơn so với


12


năm học phương pháp cũ, chứng tỏ rằng việc áp dụng cho các em học cuốn chiếu
xong luôn chủ đề chưa đạt được kết quả như mong muốn.
- Chính vì thế mà năm học mới 2019-2020 này, thực hiện theo chỉ đạo của
Phịng giáo dục thành phố Việt Trì, việc giảng dạy môn Mĩ thuật tiến hành tách
tiết, nhiều nhất chỉ được áp dụng dạy 2 tiết liền mạch. Và trường tiểu học Tiên
Cát đã chỉ đạo cho giáo viên Mĩ thuật dạy tách tiết, chỉ dạy 1 tiết một lớp trên một
tuần như cũ. Và điều đó đã ngay lập tức thu được kết quả khả quan hơn. Các em
học sinh tuần nào cũng được học Mĩ thuật và được gặp gỡ giáo viên, các em rất
hứng thú và yêu thích giờ học Mĩ thuật phương pháp mới, các em học sinh còn
lười học, ngại học và ỷ lại vào các bạn trong nhóm cũng đã tiến bộ hơn. Các em
đã chăm chỉ hơn, thích thú và hăng say học tập hơn, cùng với các bạn trong nhóm
hoạt động tích cực hơn. Kết quả thu được thật tuyệt vời. Cuối học kì I vừa qua,
việc đánh giá kết quả học tập môn Mĩ thuật của học sinh đã làm tơi bất ngờ. Số
lượng học sinh hồn thành tốt chương trình học kì I tăng lên đáng kể, và đã khơng
cịn học sinh nào chưa hồn thành chương trình. Đó chính là niềm vui, niềm tự
hào của tơi về các em, đó là động lực để tơi hăng say cống hiến và phấn đấu hơn
nữa để giúp các em thu hoạch được thêm nhiều hơn nữa những điều tốt đẹp nhất
từ mơn học Mĩ thuật. Chính vì thế tơi đã lên kế hoạch tiến hành phân chia lượng
kiến thức cho từng tiết học của mỗi chủ đề cho phù hợp, để các em nắm bắt và
thực hiện một cách hiệu quả nhất, kết quả đạt được cao nhất.
Sau đây tôi sẽ phân chia, lựa chọn lượng kiến thức linh hoạt của một số chủ
đề cụ thể theo từng tiết để minh họa:
Ví dụ 1: Chủ đề: “Cửa hàng gốm sứ” - Thời lượng 3 tiết - Lớp 3.
Dựa vào mục tiêu của chủ đề này, có thể phân chia tiết và các hoạt động cụ thể:
* Tiết 1: Tạo khối đồ vật (Có thể tạo hình nếu vẽ hoặc tạo hình từ vật liệu khác
tùy vào chất liệu giáo viên lựa chọn phù hợp khả năng học sinh).

Hoạt động 1: Tìm hiểu về đồ vật.
+ Học sinh tìm hiểu về các đồ vật có thể tạo hình.
Hoạt động 2: Hướng dẫn cách thực hiện:
+ Cách tạo khối đồ vật - Nếu sử dụng đất nặn.
+ Cách vẽ đồ vật - Nếu vẽ.
13


+ Cách tạo hình đồ vật - Nếu vật liệu khác.
Hoạt động 3: Thực hành
Học sinh tiến hành thực hiện:
+ Tạo hình khối đồ vật - Nếu nặn.
+ Thể hiện bằng nét hình dáng đồ vật - Nếu vẽ.
+ Tạo hình thêm cho đồ vật có sẵn - Nếu sử dụng vật liệu khác.
Hoạt động 4: Chia sẻ sản phẩm
+ Học sinh chia sẻ về sản phẩm nhóm mình và nhóm bạn.

H1. Một số đồ vật được tạo khối (T1)

* Tiết 2: Trang trí đồ vật (H2)
Hoạt động 1: Tìm hiểu một số đồ vật đã được trang trí. Có thể là đồ vật trang trí
từ đất nặn, vẽ, tạo hình,…
+ Học sinh quan sát, tìm hiểu đồ vật tạo hình đã được trang trí đẹp.
Hoạt động 2: Cách trang trí.
+ Trang trí đồ vật theo quy luật của trang trí.
14


+ Có thể trang trí đồ vật tự do theo ý thích.
Hoạt động 3: Thực hành trang trí đồ vật.

+ Học sinh tiến hành thực hiện trang trí cho đồ vật.
Hoạt động 4: Chia sẻ sản phẩm.
+ Học sinh chia sẻ về sản phẩm trang trí đồ vật của nhóm mình và nhóm bạn.

H2. Một số đồ vật được trang trí

* Tiết 3: Trưng bày, chia sẻ (H3).
Hoạt động 1: Trưng bày cửa hàng theo nhóm.
+ Các nhóm lần lượt trưng bày sản phẩm của nhóm mình.
Hoạt động 2: Chia sẻ về cửa hàng.
- Học sinh thảo luận thống nhất, chia sẻ về:
+ Kiến thức mĩ thuật.
+ Các đồ vật chọn để trang trí.
+ Nội dung, câu chuyện hoặc hoạt cảnh qua sắm vai mua bán.

H3. Cửa hàng đồ vật

15


Hoạt động 3: Nhận xét, đánh giá.
+ Học sinh tự đánh giá về sản phẩm của nhóm mình.
+ Giáo viên nhận xét, đánh giá sản phẩm của các nhóm.
* Ví dụ 2: Chủ đề 10: “Tranh tĩnh vật” - 3 tiết - Lớp 4.
- Mục tiêu của chủ đề này là: Học sinh cần đạt:
+ Nhận biết được tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát và tranh tĩnh vật biểu cảm.
+ Vẽ được bức tranh tĩnh vật theo quan sát và biểu cảm theo ý thích.
+ Giới thiệu, nhận xét và nêu được cảm nhận về sản phẩm của nhóm mình,
nhóm bạn.
Theo sách Dạy và Học mĩ thuật:

Chủ đề vận dụng linh hoạt quy trình vẽ biểu cảm kết hợp vẽ theo quan sát
và tiến trình gồm có 4 phần theo chuỗi với thời lượng 3 tiết như sau:
1. Tìm hiểu:
- Tìm hiểu về tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát và tranh tĩnh vật biểu cảm.
2. Cách thực hiện:
- Các bước vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát.
- Các bước vẽ tranh tĩnh vật biểu cảm.
3. Thực hành:
- Học sinh tiến hành vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát và tranh tĩnh vật biểu cảm.
- So sánh hai cách vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát và tranh tĩnh vật biểu cảm.
4. Trưng bày, giới thiệu sản phẩm:
- Học sinh tiến hành trưng bày sản phẩm của nhóm mình.
- Giới thiệu, chia sẻ về sản phẩm của nhóm mình, nhóm bạn.
Theo tiến trình trên ta có thể phân chia chủ đề 10: ‘‘Tranh tĩnh vật’’ này theo
từng tiết như sau:
*Tiết 1: Vẽ quan sát
Hoạt động 1: Tìm hiểu về tranh tĩnh vật, mẫu vẽ.
+ Học sinh tự bầy mẫu vẽ, tìm hiểu mẫu.
+ Tìm hiểu về tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu các bước vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát.
16


Hoạt động 3: Thực hành.
+ Vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát.
Hoạt động 4: Trưng bày, chia sẻ sản phẩm.
+ Học sinh tự trưng bày sản phẩm.
*Tiết 2: Vẽ biểu cảm
Hoạt động 1: Tìm hiểu về tranh tĩnh vật vẽ biểu cảm.

+ Học sinh tự bầy mẫu vẽ.
+ Tìm hiểu về tranh tĩnh vật biểu cảm.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu các bước vẽ tranh tĩnh vật biểu cảm.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tiến hành vẽ tranh tĩnh vật biểu cảm.
Hoạt động 4: Trưng bày, chia sẻ sản phẩm.
+ Học sinh tự trưng bày sản phẩm của nhóm mình.
*Tiết 3: So sánh, chia sẻ hai cách vẽ và trưng bày sản phẩm.
Hoạt động 1: Trưng bày sản phẩm.
+ Học sinh tự trưng bày sản phẩm tranh tĩnh vật vẽ theo quan sát và tranh
tĩnh vật vẽ biểu cảm của nhóm mình.
Hoạt động 2: Giới thiệu, chia sẻ về sản phẩm.
+ Học sinh tự giới thiệu và chia sẻ về sản phẩm của nhóm mình với nhóm
bạn.
+ Học sinh tự đánh giá sản phẩm của nhóm mình.
+ Giáo viên nhận xét, đánh giá.
Hoạt động 3: So sánh hai cách vẽ tranh tĩnh vật theo quan sát và tranh tĩnh vật
biểu cảm
+ Học sinh tự so sánh theo ý hiểu và cảm nhận của mình
+ Giáo viên nhận xét, chốt lại.
Hoạt động 4: Nhận xét đánh giá chủ đề.
+ Giáo viên nhận xét, đánh giá tiết học.
Vận dụng quy trình vẽ cùng nhau có thể phân chia như sau:

17


*Tiết 1: Tạo ngân hàng hình ảnh mẫu bằng nét (Hoặc ngân hàng hình ảnh từ
các vật liệu khác).

Hoạt động 1: Tìm hiểu mẫu.
+ Học sinh tự bầy mẫu, nhận xét mẫu.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu cách thực hiện tạo ngân hàng hình ảnh mẫu bằng nét.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tiến hành thực hiện tạo ngân hàng hình ảnh mẫu bằng nét.
Hoạt động 4: Chia sẻ ngân hàng hình ảnh vẽ nét.
+ Trưng bày, chia sẻ ngân hàng hình ảnh tạo mẫu bằng nét của mình, của
bạn.
*Tiết 2: Tạo màu cho ngân hàng hình ảnh
Hoạt động 1: Tìm hiểu.
+ Tìm hiểu về một số sản phẩm đã tơ màu.
Hoạt động 2: Cách vẽ màu.
+ Tìm hiểu cách vẽ màu ngân hàng hình ảnh mẫu đã vẽ nét.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tiến hành vẽ màu cho ngân hàng hình ảnh và cắt rời sản phẩm khỏi giấy vẽ.
Hoạt động 4: Trưng bày, chia sẻ, nhận xét sản phẩm màu.
+ Học sinh tự trưng bày sản phẩm của mình.
+ Giới thiệu, chia sẻ về sản phẩm của mình, của bạn.
*Tiết 3: Tạo bức tranh tĩnh vật nhóm
Hoạt động 1: Tìm hiểu.
+ Quan sát, tìm hiểu một số sản phẩm nhóm.
Hoạt động 2: Cách sắp xếp.
+ Tìm hiểu cách thực hiện sắp xếp thành sản phẩm nhóm.
Hoạt động 3: Thực hành - Sắp xếp - Trưng bày và chia sẻ sản phẩm nhóm.
+ Học sinh thực hiện sắp xếp, hồn thiện sản phẩm nhóm.
+ Trưng bày, giới thiệu về sản phẩm và chia sẻ sản phẩm của nhóm mình
với nhóm bạn.
Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá chung chủ đề.
18



+ Giáo viên nhận xét, đánh giá chung.
Vận dụng quy trình tạo hình từ vật tìm được thơng qua nghệ thuật 2D sáng
tạo có thể phân chia thành:
*Tiết 1: Tạo bức tranh nét (H1)
Hoạt động 1: Tìm hiểu mẫu.
+ Học sinh tự bầy mẫu.
+ Tìm hiểu mẫu.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu cách vẽ mẫu theo quan sát.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tiến hành tạo bức tranh nét.

H1
Hoạt động 4: Chia sẻ sản phẩm vẽ nét.
+ Trưng bày sản phẩm, chia sẻ với bạn.
*Tiết 2: Tạo bức tĩnh vật từ các vật liệu tìm được (đắp nổi, xé dán, vật liệu và
keo,...) hoặc tơ màu.
Hoạt động 1: Tìm hiểu.
+ Tìm hiểu một số bức tranh tĩnh vật sáng tạo từ vật liệu tìm được.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu các bước thực hiện bức tranh tĩnh vật từ vật liệu tìm được.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tiến hành thực hiện tạo sản phẩm.
Hoạt động 4: Chia sẻ sản phẩm.
+ Trưng bày, chia sẻ sản phẩm của nhóm mình với nhóm bạn.
*Tiết 3: Hồn thiện và giới thiệu, chia sẻ sản phẩm
19



Hoạt động 1: Thực hành (Tiếp).
+ Học sinh tiếp tục hồn thiện sản phẩm nhóm.
Hoạt động 2: Trưng bày.
+ Học sinh tự trưng bầy sản phẩm của nhóm mình.
Hoạt động 3: Giới thiệu, chia sẻ.
+ Học sinh tự giới thiệu và chia sẻ về sản phẩm của nhóm mình với nhóm bạn.
Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá chung chủ đề.
+ Giáo viên nhận xét, đánh giá chung.

Ví dụ 2: Chủ đề 2: “Những con vật sống dưới nước” - 2 tiết - Lớp 2
*Theo sách Dạy và Học mĩ thuật có 3 mục tiêu: Học sinh cần đạt:
- Nhận ra và nêu được đặc điểm về hình dáng, màu sắc của một số con vật
quen thuộc sống ở dưới nước.
- Biết sử dụng các nét đã học để vẽ và trang trí một số con vật sống dưới
nước theo ý thích.
- Giới thiệu, nhận xét và nêu cảm nhận về sản phẩm của nhóm mình, nhóm
bạn.
20


Và được phân chia theo chuỗi qua 2 tiết như sau:
1. Tìm hiểu:
- Ảnh một số con vật sống dưới nước để hiểu về hình dáng, đặc điểm, màu
sắc, đường nét.
- Hình vẽ một số con vật được trang trí bằng nét để hiểu cách trang trí.
2. Cách thực hiện: Hình minh họa các bước vẽ cá, rùa.
3. Thực hành:
- Hoạt động cá nhân: Tạo hình con vật, trang trí rồi vẽ màu cho đẹp.
- Hoạt động nhóm:

+ Cắt rời hình ảnh con vật đã vẽ khỏi tờ giấy.
+ Lựa chọn, sắp xếp các hình ảnh trên giấy khổ lớn tạo thành bức tranh tập
thể.
+ Vẽ, cắt dán thêm các hình ảnh khác cho bức tranh nhóm thêm sinh động
hơn.
4. Trưng bày, giới thiệu và chia sẻ sản phẩm:
+ Trưng bày sản phẩm của nhóm mình.
+ Giới thiệu, chia sẻ sản phẩm.
- Về cơ bản, với thời lượng 2 tiết lượng kiến thức như thế này là phù hợp
với học sinh lớp 2. Việc của chúng ta là: Linh hoạt phân chia thành từng tiết,
từng hoạt động cụ thể, hợp lí tránh những sai lầm, máy móc,... ở phần thực trạng.
- Theo quy trình vẽ cùng nhau chúng ta thể phân chia mỗi tiết cụ thể như
sau:
*Tiết 1: Tạo ngân hàng hình ảnh những con vật sống dưới nước.
Hoạt động 1: Tìm hiểu một số con vật sống dưới nước.
+ Tìm hiểu hình dáng, màu sắc,... của một số con vật sống dưới nước.
Hoạt động 2: Cách thực hiện.
+ Tìm hiểu các bước vẽ con vật, trang trí một số con vật sống dưới nước.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Tạo ngân hàng hình ảnh con vật sống dưới nước cá nhân.
Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá.
- Học sinh trưng bày, giới thiệu ngân hàng hình ảnh.
- Giáo viên đánh giá chủ đề.

21


Tiết 2: Xây dựng chủ đề (Tạo bức tranh nhóm)
*Tiết 2: Kết hợp ngân hàng hình ảnh của cá nhân sắp xếp, thêm bối cảnh tạo
thành sản phẩm chung của nhóm.

Hoạt động 1: Tìm hiểu.
+ Tìm hiểu một số hình ảnh về sản phẩm của nhóm đã hồn thiện về con
vật sống dưới nước.
Hoạt động 2: Cách tạo bức tranh nhóm.
+ Tìm hiểu các bước thực hiện tạo bức tranh chung của nhóm về con vật
sống dưới nước từ ngân hàng hình ảnh của cá nhân.
Hoạt động 3: Thực hành.
+ Học sinh tiến hành thực hiện sắp xếp sản phẩm nhóm.
Hoạt động 4 : Nhận xét, đánh giá.
+ Học sinh trưng bày, giới thiệu và chia sẻ sản phẩm.
+ Giáo viên nhận xét, đánh giá.

22


- Đó là một số ví dụ cụ thể ở một số chủ đề nhất định. Áp dụng tương tự
như vậy với tất cả các chủ đề của từng khối lớp thì sẽ thu được những kết quả
tương tự. Sau khi linh hoạt phân chia lượng kiến thức của mỗi chủ đề theo từng
tiết như vậy, tôi thu được kết quả rất khả quan và tích cực. Mỗi tiết học của từng
chủ đề cụ thể, giáo viên nắm rõ được lượng kiến thức, mục tiêu cần đạt, các hoạt
động dạy - học của thầy và trò rất rõ ràng và chi tiết. Từ đó giáo viên truyền đạt
kiến thức của từng chủ đề đến các em học sinh trong từng tiết rất nhanh, đầy đủ
và các em cũng hiểu bài rất nhanh và nắm bắt được kiến thức rất chủ động và
sáng tạo. Các nhóm học sinh hoạt động rất tốt, sôi nổi, sáng tạo. Sản phẩm của
các em cũng đã phong phú và sáng tạo hơn rất nhiều. Học sinh hứng thú, thoải
mái và phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.
- Bên cạnh đó thì việc soạn giảng cũng rất linh hoạt và rõ ràng, cụ thể. Kế
hoạch dạy học môn Mĩ thuật các chủ đề ở từng khối lớp được tách theo từng tiết
rất khoa học với lượng kiến thức của mỗi tiết, với mục tiêu và các hoạt động rõ
ràng, chi tiết.

23


Có thể nói thành cơng của mỗi chủ đề qua mỗi tiết dạy là sự kết hợp của rất
nhiều yếu tố. Trong đó nhân tố quyết định và quan trọng vẫn là sự hướng dẫn,
định hướng, gợi mở của người giáo viên, người sát sao nhất về trò, người điều
khiển và làm chủ những vấn đề đưa ra và là người kích thích trí tị mị, khơi
nguồn sáng tạo trong các em học sinh. Tôi rất mong qua Sáng kiến này, nhiều
thầy cô sẽ linh hoạt hơn trong việc lựa chọn phân chia tiết giúp các em học sinh
có thể chiếm lĩnh kiến thức của các chủ đề môn Mĩ thuật theo định hướng phương
pháp mới Đan Mạch một cách trọn vẹn nhất.
III.

KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG
Kết quả điều tra ban đầu khi chưa thực hiện giải pháp:

Lớp


số

2A
3A
4A
5A

28
31
29
27


Lớp


số

2A
3A
4A
5A

28
31
29
27

Số học sinh khơng thích
học mơn Mĩ thuật
%
TS
%
71,4
8
28,6
74,2
8
25,8
75,9
7
24,1

77,8
6
22,2
Kết quả thực hiện các giải pháp :

Số học sinh thích học
TS
20
23
22
21

Số học sinh khơng thích
học mơn Mĩ thuật
TS
%
0
0
0
0
0
0
0
0

Số học sinh thích học
TS
28
31
29

27

%
100
100
100
100

Ghi chú

Ghi chú

Sau khi đối chiếu kết quả tôi thấy việc thực hiện “Kinh nghiệm linh hoạt
phân chia lượng kiến thức trong mỗi tiết học theo chủ đề môn Mĩ thuật
phương pháp mới Đan Mạch ở bậc tiểu học” là rất cần thiết và bổ ích để nâng
cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và học sinh nói riêng.

24


CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT/KIẾN NGHỊ

1. Nhận định chung
Trong q trình nghiên cứu, triển khai Sáng kiến, tơi rút ra được những vấn
đề sau:
- Giáo viên phải thực sự tâm huyết, yêu nghề, yêu trẻ, cần chịu khó đầu tư
nhiều thời gian, cơng sức, trí tuệ để nghiên cứu thiết kế nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với tâm sinh lý và năng lực học sinh nhằm đáp
ứng được các yêu cầu về đổi mới giáo dục hiện nay.
- Nắm được tâm lí, kĩ năng của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất dạy và

học của địa phương để vận dụng hợp lí, sáng tạo.
- Mạnh dạn thay đổi, lựa chọn linh hoạt lượng kiến thức nhằm tạo ra những
điều mới mẻ để thu hút và thúc đẩy học sinh học tập đặc biệt tránh sự truyền thụ
một chiều, khô khan và q máy móc.
- Ln sáng tạo và trao quyền chủ động cho học sinh. Tránh chê bai hay
khen ngợi thái quá sẽ không tốt đối với học sinh.
- Nên kết hợp các quy trình một cách linh hoạt, luôn hướng tới mục tiêu
một tiết dạy vui tươi học sinh hào hứng thi đua khám phá.
- Tôn trọng ý tưởng, suy nghĩ lựa chọn của cá nhân, nhóm tránh áp đặt
cách thức, gị ép học sinh phải cơng nhận kiến thức. Bình tĩnh và khéo léo dẫn dắt
học sinh tới cách hiểu, nắm bắt được nội dung kiến thức của chủ đề.
- Không ngừng học tập, nghiên cứu các tài liệu, bài giảng, cách phân chia
tiết theo chủ đề,…qua thực tế, qua các trang mạng hay bạn bè đồng nghiệp để
đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, phương pháp mới nên đòi hỏi chúng ta phải
học hỏi, trau dồi kiến thức nhiều hơn.
- Nên tạo dựng môi trường sư phạm thân thiện cho học sinh để các em có
thể phát triển hết năng lực sở trường của mình.
- Phải thật sự sư phạm trong đánh giá, nhận xét học sinh, tránh chê bai hay
khen ngợi thái quá sẽ không tốt đối với học sinh. Nên nhẹ nhàng, tế nhị trong
nhận xét góp ý bài, giúp học sinh vui vẻ tiếp thu và tiến bộ.

25


×