Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.78 KB, 157 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIÉT CỦA ĐÈ TÀI
Ngành nghề thủ cơng truyền thống (TCTT), trong đó thủ cơng mỹ nghệ (TCMN) là
bộ phân quan trọng đã hình thành và tồn tại trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Ngành nghề thủ công mỹ nghệ luôn gắn
liền với những làng nghề, phố nghề sản xuất các sản phẩm thủ cơng để phục vụ cho các mục
đích sử dụng của đời sống xã hội.
Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ xuất hiện, tồn tại và suy vong theo từng giai đoạn
phát triển của lịch sử. Các ngành nghề thủ cơng phù hợp với địi hỏi của nhu cầu xã hội tại
một thời điểm nào đó thì sẽ có điều kiện phát triển, những ngành nghề nào khơng cịn phù
hợp thì sẽ tự đào thãi. Như vây, theo dịng chảy của sự vân động và phát triển mỗi ngành
nghề thủ công đều trãi qua các giai đoạn hưng thịnh và suy tàn nhất định. Nhưng nhìn chung
cho đến nay ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ vẫn có một vai trị quan trọng trong đời sống
kinh tế và xã hội Việt Nam.
Đối với Thừa Thiên Huế, quá trình hình thành và phát triển của ngành nghề thủ cơng
mỹ nghệ ngồi những nét chung như bao vùng miền khác trên đất nước thì cịn có những nét
đặc thù riêng có của vùng đất này. Do Huế là vùng đất kinh kỳ, những sản phẩm thủ công
được làm để phục vụ cho nhu cầu sử dụng của tầng lớp quan lại, quý tộc thượng lưu hoặc
hình thành từ yêu cầu của triều đình. Chính các yếu tố lịch sử này giúp cho Huế trở thành
vùng đất tập trung nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm đạt đến độ tinh xảo
cao, mang tính biểu tượng của nền mỹ thuật đất nước trong một giai đoạn lịch sử, nhiều sản
phẩm trở thành di sản văn hoá đặc sắc tượng trưng cho trình độ phát triển ngành nghề thủ
cơng mỹ nghệ của Việt Nam. [12]
Thừa hưởng những thành quả trên, ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành
phố Huế cần phải tiếp tục tồn tại và tìm ra cho mình một con đường mới để phát triển phù
hợp. Nghị quyết của Thành uỷ về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW 5 [58] :
Huy động mọi nguồn lực trong dân, đầu tư sản xuất hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống, tổ chức tốt các điểm bán hàng lưu niệm phục vụ du khách, xây dựng làng

1



nghề truyền thống phục vụ du lịch và xuất khẩu, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng
bá, giới thiệu sản phẩm, nhằm thực hiện thắng lợi chương trình phát triển du lịch của địa
phương.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất-kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề trên
địa bàn vẫn còn yếu, chưa tạo được những chuyển biến lớn nhằm tăng tốc sự phát triển của
ngành, giá trị sản xuất vẫn chưa cao so với các tỉnh, thành phố khác. Số lượng cơ sở làm
hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chưa nhiều, phần lớn các đơn vị chỉ duy trì sản
xuất ở quy mơ nhỏ, mẫu mã chưa phong phú, chưa đáp ứng tốt thị hiếu khách tiêu dùng,
năng suất thấp, giá trị lao động thủ cơng trong một
phẩm cịn q lớnnên giá thành cao, bao bì

đơn vị

sản

thẩm mỹ kém,

cơng tác tun truyền, tiếp thị quảng cáo ít được chú trọng, trình độ quản lý của chủ cơ sở
cịn hạn chế.
Trong các ngành nghề thủ cơng truyền thống, ngành nghề thủ công mỹ nghệ là một
trong những nhóm ngành có thế mạnh xuất khẩu. Huế là thành phố du lịch nên có thể tân
dụng ưu thế này để xuất khẩu tại chổ thông qua các của hàng bán hàng lưu niệm, tổ chức
các siêu thị hàng thủ công mỹ nghệ, tổ chức các làng nghề mang tính biểu diễn vừa thu hút
khách du lịch vừa có thể bán hàng trực tiếp. Thị trường tiêu thụ có điều kiện thuận lợi như
vây nhưng sản phẩm hàng lưu niệm tại địa phương lại không phong phú, một số mặt hàng
sức cạnh tranh thua kém nhiều so với hàng nhập từ Trung Quốc, Thái Lan... Đối với thị
trường xuất khẩu trực tiếp chúng ta vẫn chưa khai thác được do sản phẩm chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường thế giới, thua kém trong cạnh tranh về mẫu mã sản phẩm, giá
thành, kinh nghiệm thương trường, chưa có các thương nhân lớn hoạt động trên lĩnh vực

kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trước những vấn đề trên, yêu cầu được đặt ra
là làm thế nào để phát huy tiềm năng của ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành
phố Huế. Đây là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài cần được nghiên cứu nhằm tìm ra những
căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp.
Xuất phát từ đó, tơi đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên
địa bàn thành phố Huế “làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung

2


Đề tài làm cơ sở hoạch định các chính sách và giải pháp phát triển cho ngành nghề
thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ

Việt Nam nói chung và thành phố Huế nói riêng;
-

Phân tích, đánh giá thực trạng một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ có tiềm năng

phát triển của thành phố Huế;
-

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên

địa bàn thành phố Huế trong thời gian đến.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp chung
Phương pháp duy vật biện chứng được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên
cứu. Bởi các hiện tượng kinh tế, xã hội nói chung đều chịu sự tác động của nhiều yếu tố,
mỗi một yếu tố lại được đặt trong mối liên hệ ràng buộc với các yếu tố khác và có tácđộng
qua lại lẫnnhau. Nghiên

cứungành nghề

TCMN được

đặt

trong bối cảnh phát triển chung của ngành nghề TTCN truyền thống trên địa bàn thành phố
Huế và Tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong quá trình nghiên cứu, các yếu tố như dân số, thu nhập
của dân cư, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội... được đặt trong mối quan
hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, được xem xét qua nhiều năm, trong một
thời gian dài để cho phép chúng ta có được cách nhìn tồn diện và mang tính khoa học
nhằm đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp trong từng thời kỳ.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn, bởi các
hiện tượng kinh tế-xã hội bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện thời gian và địa diểm
cụ thể. Việc tiếp cận, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của ngành nghề TCMN cần
dựa trên những tiền đề đã được hình thành trong quá khứ, đứng trên quan điểm lịch sử để
kiểm chứng và dự báo sự phát triển của ngành nghề TCMN trong hiện tại và tương lai.
3.2. Các phương pháp cụ thể
3.2.1.Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu
* Tài liệu thứ cấp: nguồn tài liệu được thu thập từ niên giám thống kê của tỉnh Thừa
Thiên Huế, số liệu từ Phòng Kinh tế thành phố Huế, các báo cáo quy hoạch, phát triển

3



ngành nghề thủ công mỹ nghệ tỉnh Thừa thiên Huế, thành phố Huế, tài liệu từ các nguồn
sách báo, báo điện tử, các báo cáo khoa học, cơng trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác
giả liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.......................................
* Tài liệu sơ cấp : Mỗi nhóm ngành nghề được điều tra theo phương pháp chọn mẫu phân
loại. Những thông tin cần thu thâp từ các đơn vị được điều tra (mẫu): các yếu tố đầu vào,
kết quả và hiệu quả sản xuất, quy trình sản xuất, lực lượng lao động,
trình độ người quản lý, thị trường tiêu thụ sản phẩm............. được thực hiện theo mẫu
soạn sẵn, phỏng vấn trực tiếp các chủ đơn vị. Công tác nghiên cứu thị trường cũng được
tiến hành thông qua các phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp các đơn vị kinh doanh các mặt
hàng TCMN, các đơn vị phỏng vấn được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và phân bổ đều
khắp nhiều nơi trên địa bàn thành phố Huế. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn các đơn vị kinh
doanh lữ hành đang đặt trụ sở tại thành phố Huế để nắm được tình hình liên kết giữa ngành
nghề TCMN cùng với ngành du lịch đã và đang đạt được những gì, ở mức độ nào cũng như
các nhân xét khách quan từ phía đối tượng này và các đề xuất để tạo được sự liên kết hiệu
quả giữa hai ngành trong thời gian đến.
* Phương pháp điều tra
Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thuần theo khoảng cách nhất định
của nhóm điều tra. Sau một q trình nghiên cứu, trao đổi ý kiến với lãnh đạo Phòng Kinh
tế thành phố Huế, các chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành, các đơn vị đã nhiều năm
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh trong ngành nghề TCMN cũng như sự quan sát chủ quan
của mình, chúng tơi quyết định tâp trung điều tra, nghiên cứu ba nhóm ngành cụ thể sau :
-

Nghề mộc mỹ nghệ, mộc chạm khắc ( 50 trong tổng số 78 đơn vị)

-

Nghề thêu tay, ren rua ( 36 trong tổng số 55 đơn vị)


-

Nghề đúc đồng mỹ nghệ ( 50 trong tổng số 61 đơn vị)
Đây là 3 nhóm ngành nghề có số lượng đơn vị nhiều nhất trong các nhóm ngành

nghề thủ cơng mỹ nghệ đang hoạt động trên địa bàn thành phố Huế hiện nay, thu hút một số
lượng lao động lớn, có tổng số vốn đầu tư và tạo ra giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng cao.
Nghề kim hồn có số vốn đầu tư và tạo ra giá trị sản xuất cao nhất, tuy nhiên chúng tôi
không chọn nghề này để nghiên cứu sâu do giá trị nguyên liệu của nghề này cao lại biến
động thất thường, sản phẩm bán ra có giá trị lớn nhưng phần lớn được sử dụng như phương

4


tiện cất trữ và tiêu dùng thông thường, giá trị gia tăng tạo ra mang tính đạc thù, khó tiếp
cân.
3.2.2. Phương pháp tong hợp và phân tích sổ liệu
* Phương pháp phân tổ thống kê: được sử dụng để hệ thống hoá tài liệu điều tra theo nhiều
tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung và mục đích nghiên cứu.
*

Phương pháp phân tích tài liệu: Sử dụng hệ thống các phương pháp phân tích định

tính và định lượng của các hiện tượng để tìm hiểu bản chất và tính quy luât vốn có; kết hợp
giữa nghiên cứu các hiện tượng số lớn với nghiên cứu hiện tượng cá biệt; sử dụng kết hợp
phương pháp phân tích thống kê, phương pháp phân tích kinh tế và phương pháp mơ hình
tốn kinh tế.
* Phương pháp toán kinh tế :
Luân văn sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas để đánh giá mối quan hệ giữa các

yếu tố đầu

vào đối với kết quả và

hiệu quả sản xuất đối với cả 3 nghề

(nghề đúc đồng, nghề mộc mỹ nghệ và thêu ren). Hàm Cobb-Douglas được chọn để ước
lượng hệ số hồi quy mô tả sự ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến kết quả sản xuất và kết
quả ước lượng được đánh giá theo tiêu chuẩn kiểm định T & F.
- Hàm sản xuất
Yj = AXija1. X2ja2. X3ja3. X4ja4.eßD1\ eßD2
- Hàm Logarit tương ứng
LnY = ao + a1 Ln (X1j) + a2 Ln (X2j) + 03 Ln(X3j) + 04 Ln (X4j) + ßD1 + ßD2
Trong đó :

Yj : Giá trị gia tăng (triệu đồng)
X1j

:

Vốn cố định (triệu đồng)

X2j

:

Vốn lưu động (triệu đồng)

X3j


:

Lao động th ngồi (người)

X4j : Lao động gia đình (người)
D1, D2 là các biến giả định
- Di : Kinh nghiệm sản xuất từ 20 đến 30 năm; D2 là kinh nghiệm sản xuất trên 30 năm.
- a , p :Các hệ số hồi quy cần ước lượng.
- A : là hằng số.
* Số liệu xử lý bằng chương trình SPSS 15.0.

5


Theo kinh nghiệm của nhiều nghiên cứu về hiệu quả của các đơn vị sản xuất, kinh
doanh với quy mô nhỏ, để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất, biến phụ thuộc của hàm sản
xuất phải là giá trị gia tăng chứ không phải tổng doanh thu. Điều này cho phép loại bỏ được
những sai sót trong phân tích do sự khác biệt về giá trị nguyên vật liệu tạo nên.
3.2.3. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập thơng tin từ
các nhà nghiên cứu văn hố, các chun gia, chuyên viên, các nhà quản lý nhiều kinh
nghiệm liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, các nghệ nhân, những đơn vị nhiều năm sản
xuất-kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và hàng thủ cơng truyền thống nói
chung...nhằm có được những luận cứ có sức thuyết phục về mặt khoa học và thực tiễn để từ
đó đề xuất được những giải pháp phù hợp với thực tế của địa phương và mang tính khả thi.
3.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống các chỉ tiêu cơ bản sau :
- Các chỉ tiêu đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh : Số lượng lao động, giá trị tài
sản cố định, vốn lưu động, công nghệ, thiết bị sản xuất của các đơn vị.
- Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh: Giá trị sản xuất (GO), giá trị gia

tăng (VA) và lợi nhuận (M).
-

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản suất kinh doanh: Giá trị sản xuất/vốn

(GO/K), giá trị gia tăng/vốn (VA/K), lợi nhuận/vốn (M/K), lợi nhuận/chi phí (M/IC), Giá trị
sản xuất/lao động (GO/L), Giá trị gia tăng /lao động (VA/L), lợi nhuận/lao động (M/L).
-

Các chỉ tiêu phù hợp để phân tích việc tiêu thụ sản phẩm.

4.ĐĨI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đoi tượng nghiên cứu
Thực trạng sản xuất kinh doanh của các ngành nghề thủ công mỹ nghệ; chủ yếu là
các ngành nghề đúc đồng, mộc mỹ nghệ, thêu ren và các giải pháp để phát triển ngành
nghề thủ công mỹ nghệ.
* Phạm vi nghiên cứu
- Không gian : Địa bàn thành phố Huế.
- Thời gian : Phân tích, đánh giá thực trạng trong giai đoạn 2004-2006 và đề xuất giải

6


pháp phát triển đến năm 2015.

7


CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN VÈ
PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHÈ THỦ CƠNG MỸ NGHỆ

1.1. MỘT SĨ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH NGÀNH NGHÈ THỦ
CƠNG TRUN THĨNG, NGÀNH NGHÈ THỦ CƠNG MỸ NGHỆ, LÀNG NGHÈ
THỦ CƠNG MỸ NGHỆ
1.1.1.Ngành nghe thủ cơng truyền thong
Ngành nghề thủ cơng (NNTC) Việt nam vốn có truyền thống lâu đời gắn liền với
tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền
thống. Có nhiều tên gọi khác nhau để chỉ ngành nghề (NN) thủ công truyền thống (TCTT)
ở nước ta: Nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công... Hiện nay, các số liệu thống
kê chính thức hàng năm vẫn chưa có một mục chun về sản xuất thủ cơng truyền thống
mà gộp các ngành nghề này vào nhóm “ Tiểu cơng nghiệp-thủ cơng nghiệp”, “Sản xuất hộ
gia đình phi nơng nghiệp”....
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải thống nhất tiêu chí xác định ngành nghề truyền
thống để làm cơ sở thực hiện các chính sách bảo tồn, phát triển và định hướng chiến lược
phù hợp. Các nhà nghiên cứu đề xuất một số yếu tố cấu thành của ngành nghề TCTT :
+ Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta;
+ Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề;
+ Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề;
+ Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt nam;
+ Sử dụng nguyên liệu tại chổ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu nhất;
+ Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng; có đóng góp đáng kể về
kinh tế vào ngân sách nhà nước. [17]
Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (NN&PTNT) hướng dẫn thực hiện một số nội dung của
Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nơng thơn: Nghề truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm
độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ
8


bị mai một thất truyền.

Tiêu chí cơng nhận ngành nghề thủ công truyền thống : a/ Nghề đã xuất hiện tại
địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; b/ Nghề tạo ra những
sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; c/ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều
nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. [36]
1.1.2. Ngành nghe thủ công mỹ nghệ
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ là một bộ phận quan trọng của ngành nghề thủ
công truyền thống. Ngành nghề TCMN có vai trị rất lớn trong q trình phát triển ngành
nghề TCTT của Việt Nam (VN), sản phẩm của ngành nghề thủ công mỹ nghệ là loại sản
phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật-công nghệ truyền thống, phương
pháp

thủ cơng tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật. Mơ

hình biểu diễn như sau :
Phương pháp thủ
cơng tinh xảo

+

Sự sáng tạo nghệ
thuật

■=>

Hàng thủ cơng mỹ
nghệ

Mơ hình 1 : Đặc trưng của hàng thủ công mỹ nghệ
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ bên cạnh các yếu tố cấu thành của ngành nghề
TCTT cịn có những nét đặc thù của NN này, đó là : Sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của

Việt nam, có giá trị và chất lượng rất cao, vừa là hàng hoá vừa là sản phẩm văn hố nghệ
thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn hố
Việt Nam. Chính yếu tố nghệ thuật, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể là
một đặc thù hết sức quan trọng của hàng thủ công mỹ nghệ. Sự kết hợp giữa phương
pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân và thợ thủ công để tạo
ra hàng thủ công mỹ nghệ đã kéo theo những
đặc thù khác trong sự phát triển của ngành nghề TCMN và được xem như là những tiêu
chí của ngành nghề này :
- Tính riêng, đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt;

9


-

Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, gia tộc, giữ bí

quyết trong sáng tạo hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi;
- Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời;
- Sử dụng hàng thủ cơng đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng

thức nghệ

thuật và tư tưởng, trí tuệ). [17]
1.1.3. Làng nghề, làng nghề truyền thOng, làng nghề thủ công mỹ nghệ
Làng nghề là một thiết chế gồm hai yếu tố cấu thành là “làng”

và “nghề”

được hình thành dựa trên cơ sở tập hợp những gia đình nhỏ trong một khơng gian

nhất định để sản xuất và sinh hoạt độc lập. Làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi nông
nghiệp, các ngành nghề thủ công ở trong các thôn làng. Khi phân loại làng nghề, ta thấy
có làng một nghề và có làng nhiều nghề, có làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
Làng một nghề là những làng ngồi nghề nơng ra chỉ cịn thêm một nghề thủ cơng
nghiệp duy nhất chiếm ưu thế tuyệt đối như lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, chạm bạc
Đồng Xâm, thêu Quất Động...
Làng nhiều nghề là những làng ngồi nghề nơng cịn có một số nghề thủ cơng
nghiệp như Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Trai Trang, Đình Bảng..
Làng nghề truyền thống (LNTT) là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch
sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm năm, thậm chí
hàng nghìn năm.
Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả của các làng
nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đồng thời cũng có một số nghề mới xuất hiện hoặc du
nhập từ nước ngoài vào các làng nghề truyền thống.
Như vậy, các tiêu chí để phân loại làng nghề chỉ mang tính tương đối, đan xen, bao
hàm lẫn nhau, làng nghề thủ công mỹ nghệ đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với làng nghề
TCTT, làng nghề TCMN là làng nghề TCTT trong đó TCMN là nghề chính hoặc chiếm ưu
thế so với các nghề thủ công khác.
Làng nghề truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ cơng, có phần lớn bộ phận
10


dân số làm nghề cổ truyền, là nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm
nghề mang tính truyền thống lâu đời kiểu cha truyền con nối, có sự liên kết hỗ trợ trong
sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có
cùng tổ nghề. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các
gia đình cùng dịng tộc, cùng phường nghề trong quá trình hình thành, phát triển nghề
nghiệp đã hình thành LNTT ngay trên làng xóm của họ. Về mặt định lượng, có thể hiểu
làng nghề có từ 35 - 40% số hộ trở lên chuyên làm nghề, giá trị sản lượng của nghề chiếm

trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Tuy nhiên, định nghĩa trên chỉ là một
thước đo tương đối. Bởi vì, đối với từng loại nghề khác nhau thì tỷ lệ nói trên cũng khác
nhau. Quy mô về số hộ và số lao động của các làng và các vùng cũng chênh lệch nhau
đáng kể. Mặt khác, cùng với sự thăng trầm trong quá trình phát triển của từng nghề và
làng nghề, dẫn đến số lượng hộ và lao động chuyên làm nghề TCMN có sự biến động
mạnh mẽ.
Ngày nay, khái niệm làng nghề khơng chỉ bó hẹp ở những làng nghề chỉ có những
người chun làm nghề thủ cơng nghiệp đơn thuần theo như cách phân chia trước đây.
Trong quá trình cơng nghiệp hố và chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện nay, trong các
làng nghề, các công nghệ sản xuất của nhiều nghề khơng cịn hồn tồn là kỹ thuật thủ
công, mà nhiều nghề đã sử dụng các công nghệ, kỹ thuật cơ khí hiện đại và bán cơ khí vào
q trình sản xuất. Đồng thời, trong các làng nghề đã xuất hiện
sở chuyên làm dịch

vụ đầu

vào và đầu

nhiều cơ
ra cho các hộ

chuyên làm nghề. Làng nghề truyền thống nói chung và làng nghề thủ cơng mỹ nghệ nói
riêng có thể được định nghĩa: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp,
bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điếm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn,
có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản pham khác
nhau. Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu
đời. ”. [9,14-16; 17,14; 36]

11



1.2. VAI TRỊ CỦA NGÀNH NGHÈ THỦ CƠNG TRUN THĨNG, THỦ CƠNG MỸ
NGHỆ TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TÉ - XÃ HỘI
1.2.1. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần tạo việc làm cho người lao động
Dân số và việc làm là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết và cùng tác động quyết
định lên tiến trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, giải quyết việc làm là một trong
những vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước. Trong các
ngành nghề thủ cơng nói chung và ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ nói riêng, lao động
thường chiếm tỷ lệ tới 60-65% giá thành sản phẩm, nên việc phát triển NN này sẽ phù hợp
với yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động đang tăng lên nhanh chóng, nhất là ở
nơng thơn. Theo thống kê trong lĩnh vực xuất khẩu, mỗi 1 triệu USD doanh thu hàng
TCMN thì thu hút khoảng 3.5004.000 lao động chun nghiệp/năm, cịn nếu là lao động
thời vụ thì sẽ tăng 3-5 lần mức đó. [41; 54; 13,125]
Quy mơ dân số cả nước năm 2006 ước tính 84,11 triệu người, trong đó dân số
thành thị 22,82 triệu người chiếm 27,1%, dân số nông thôn 61,29 triệu người. Số lao động
từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế ước tính 43,44 triệu người, tỷ lệ thất
nghiệp của lao động khu vực thành thị, nam chiếm 4,8% của nữ là 3,9% [42]. Vấn đề việc
làm ở nông thôn những năm gần là tâm điểm của những bức xúc. Nông thôn là nơi tập
trung 72,9% dân số (2006), trong đó 70% làm nghề nơng. Tình trạng nghèo và thiếu việc
làm trong khu vực này đang tạo ra một luồng di dân tự do rất lớn ra thành thị, làm cho dân
số đơ thị tăng đột biến gây nhiều khó khăn về an ninh xã hội và môi trường.

12


Bảng 1: SẢN XUẤT THỦ CÔNG NGHIỆP THEO KHU VựC, LÀNG
VÀ DÂN SĨ
Sơ làng
Dân sơ
Khu vực


1. Đồng băng sơng

Tống
số

Làng
nghề
(1)

%

Tống
số
trong (người)
T/số
5,9 13.501.335

Số làm
nghề
(người)
848.805

%
Trong
T/số
6,3

15.451


914

2. Đông Bắc

21.514

116

0,5

7.308.218

35.044

0,5

3.Tây Bắc

6.526

247

3,8

2.039.685

104.210

5,1


4. Bắc Trung bộ

16.059

341

2,1

8.760.322

137.568

1,6

5. Nam Trung bộ

4.008

87

2,2

4.774.156

44.730

0,9

6. Tây nguyên


5.357

0

-

3.159.246

-

-

7. Đông Nam bộ

3.485

101

2,9

6.071.412

93.716

1,5

8. ĐB sông Cửu

8.144


211

2,6

13.329.335

84.286

0,6

80.544

2.017

2,5

58.943.709

1.348.359

2,3

Hồng

long
Tổng

Nguồn : Tống hợp và điều tra của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JỈCA) & Bộ Nông
nghiệp và phát triên nông thôn Việt Nam năm 2004. (1,3-10)
(1) Số lượng làng nghề và số người tham gia làm nghề trên cơ sở tiêu chí điều tra lập bản

đồ.
Cả nước hiện có 2.017 làng nghề, với hơn 1,3 triệu lao động chuyên nghiệp và từ
3-5 triệu lao động thời vụ trong 1,423 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất có thu nhập
chính từ nghề thủ cơng. Khoảng 45% số làng nghề ấy là nghề TCMN truyền thống với
trên 40 nhóm nghề lớn, bao gồm hàng trăm nghề khác nhau [30]. Trung bình cả nước,
dân số mỗi làng nghề là 2.079 người, trong đó trên một nữa số làng nghề có từ 1.000 đến
5.000 người. Độ tuổi trung bình của người lao động trong các NNTC là từ 20-30 và nghề
thủ công đang tạo công ăn việc làm cho lao động trẻ. Bên cạnh đó một lực lượng dân số
đơng đảo từ 15 đến 80 tuổi tham gia làm nghề, đặc biệt ngành nghề TCMN còn sử dụng
một số lượng lớn lao động tàn tật không thể làm việc ở các ngành nghề khác và điều này
mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc.
Theo bảng 2, trên 10% tổng số hộ gia đình có thu nhập chủ yếu từ sản xuất thủ
cơng, đặc biệt các hộ gia đình nhóm này rất phổ biến ở đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
13


bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù các NNTC là các ngành nghề thu hút nhiều lao
động ở các vùng nông thôn nhưng quy mô của nhiều làng nghề thường nhỏ và chưa thực
hiện được mơ hình thu hút nhiều lao động. Ngoài ra, rất nhiều thợ tay nghề cao và thợ trẻ
bỏ quê đi làm việc cho các doanh nghiệp hay cơ sở lớn ở đô thị với mức lương cao hơn.
Do đó, quy mơ làng nghề đang có nguy cơ ngày càng bị thu hẹp. [1,3-9; 13,47; 1,4-9]
1.2.2. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần mở rộng thị trường, tăng giá trị
tong sản phẩm hàng hoá cho nền kinh te
Hiện nay, nhiều làng nghề TCMN đã và đang được khôi phục đồng thời với việc
phát triển các làng, cụm làng mới, nghề mới. Một số lượng lớn các làng nghề TCMN đã
được tăng cường hoạt động, kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hố, phục vụ xuất khẩu.
Ngồi ra, thu nhập của dân cư nói chung và dân cư nơng thơn nói riêng tăng lên sẽ mở ra
cơ hội mới của một thị trường nội địa tiềm năng, với sức mua ngày càng gia tăng đối với
các sản phẩm truyền thống độc đáo của công nghiệp nông thôn. Xu thế phát triển kinh tế,
hội nhập quốc tế và khu vực là những thách thức nhưng cũng đồng thời là cơ hội để sản

phẩm TCMN thâm nhập hiệu quả hơn vào thị trường khu vực và thế giới.
S ản phẩm của ngành nghề thủ công mỹ nghệ là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát
triển sản xuất hàng hố ở nơng thơn. Ngành nghề thủ công mỹ nghệ hàng năm luôn sản
xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hố lớn đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng của
từng địa phương nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Tỷ trọng hàng hoá ở các
làng nghề thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông. Những địa phương có
nhiều làng nghề thì nền kinh tế hàng hố thường phát triển hơn so với các địa phương có ít
làng nghề. Chẳng hạn, giá trị sản xuất công nghiệp nông thơn Thái Bình chiếm khoảng
75% tổng giá trị cơng nghiệp địa phương toàn tỉnh, ở Bắc Ninh là 73,7%.. Làng gốm Bát
Tràng (Hà Nội) thu nhập từ ngành nghề phi nơng nghiệp chiếm 99% tổng thu nhập của
tồn xã (riêng nghề gốm sứ chiếm tới 86%). [9,40]

14


Bảng 2 : TÌNH HÌNH CÁC Hộ SẢN XUẤT THỦ CÔNG NGHIỆP TRÊN CẢ NƯỚC
Khu vực
Hộ sản xuất
Tỷ lệ hộ SX thủ
Hộ
Phi NN
Tống
công
nghiệp(1) Thuần
(%)

nông

kiêm


(%)
Thuần

Hộ kiêm

Phi NN

Tống

nông

1. ĐB S.Hồng

15,6

22.115

429.893

80.187

532.195

4,2

80,8

15,1

100,0


2. Đông Bắc

5,3

10.853

40.222

32.011

83.086

13,1

48,4

38,5

100,0

3. Tây Bắc

7,2

3.223

8.787

14.830


26.840

12,0

32,7

55,3

100,0

4. Bắc trung bộ

8,7

17.506

74.991

76.509

169.006

10,4

44,4

45,3

100,0


5. Nam Trung bộ

7,7

14.253

38.987

29.292

82.532

17,3

47,2

35,5

100,0

6. Tây Nguyên

1,1

0

2.941

4.127


7.068

0,0

41,6

58,4

100,0

7. Đông Nam bộ

14,5

6.879

52.572

129.938

189.389

3,6

27,8

68,6

100,0


8. ĐB S.Cửu Long

11,8

32.762

72.572

227.747

332.742

9,8

21,7

68,4

100,0

Cả nước

10,8

107.591

720.626

594.641


1.422.858

7,6

50,6

41,8

100,0

Nguồn : Điều tra khảo sát Lập bản đồ Bộ NN&PTNT - JICA , 2002 1) Số hộ gia đình trả lời sản xuất TCN là nguồn thu chính trong Điều tra
khảo sát lập bản đồ

1
5


Bên cạnh thị trường nội địa có khả năng mở rộng, hàng TCMN của VN còn nhiều
tiềm năng xuất khẩu bởi nhu cầu thị trường thế giới hầu như chưa bị giới hạn do “vòngđời”
của

sảnphẩm

ngắn, xu hướng tiêu dùng ngày càng

hướng đến các

sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện với môi trường. Giai đoạn 19912000, kim
ngạch xuất khẩu xuất khẩu hàng TCMN của VN có nhịp độ tăng khá nhanh. Nếu năm 1991

mới đạt 6,8 triệu USD, năm 1996 đã đạt 124 triệu USD, năm 1999 là 168 triệu USD, thì đến
năm 2000 đạt hơn 235 triệu USD. Giai đoạn 2001 đến 2006 nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu
tương đối cao (bình quân là 17,87%) đã đưa mặt hàng TCMN trở thành một trong những
mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của VN (đứng thứ 8 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực).
Hiện nay, hàng TCMN xuất khẩu của VN đã có mặt tại thị trường của trên 100 quốc gia,
vùng lãnh thổ, trong đó tập trung là các thị trường Nga, Mỹ, Nhật, Đông Âu, EU, Bắc Mỹ,
Hàn Quốc, Đài Loan... sản phẩm hàng TCMN xuất khẩu của VN cũng rất đa dạng, nhiều
chủng loại (đồ gỗ, mây, tre đan, gốm sứ...). Trong “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn
20061010” của Bộ Thương mại, định hướng nhóm hàng TCMN chiếm một vị trí rất quan
trọng. Đây là một trong số ngành được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển bền vững,
xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Mục tiêu phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của
ngành TCMN đến 2010 là 1,5 tỷ USD. [47]
1.2.3. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ nâng cao thu nhập của người dân, góp phần
vào chương trình xố đói giảm nghèo của quốc gia
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt
được những tiến bộ đáng ghi nhận về giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo của VN đã giảm từ 58%
(năm 1993) xuống còn 20% (năm 2004); GDP bình qn đầu người từ dưới 200 đơla Mỹ/
người năm 1993 tăng lên khoảng 835 đô la Mỹ/người năm 2007.[21,6]
Trong các làng nghề TCTT, TCMN đã được khôi phục và phát triển đều giàu có hơn
các làng thuần nông khác trong vùng. Ở các làng nghề tỷ lệ hộ giàu thường rất cao, thường
khơng có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo rất thấp, thu nhập từ ngành nghề thủ công chiếm đại bộ
phận tổng thu nhập của dân cư trong làng, hệ thống cơng trình cơng cộng, kết cấu hạ tầng
phát triển, nhà cửa cao tầng của các hộ dân ngày một nhiều, tỷ lệ số hộ có các loại đồ dùng
tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ trọng khá. [9,44]

16


Bảng 3 : THU NHẬP BÌNH QUÂN THÁNG THEO KHU VựC VÀ GIỚI TÍNH
Trung

So với
Thu nhập trung bình
So sánh
Khu vực

bình
( nghìn

Cả nước

từ nghe thủ cơng

Nữ/Nam

(%)

(nghìn đồng/tháng)

(lần)

đồng)

Nam

Nữ

1. ĐB sơng Hồng

280,3


95

347,6

322,4

0,93

2. Đơng Bắc Bộ

210,0

71

360,1

260,0

0,72

3.Tây Bắc bộ

210,0

71

246,0

115,9


0,47

4. Bắc Trung bộ

212,4

72

376,7

297,3

0,79

5. Nam Trung bộ

252,8

86

396,0

320,4

0,81

6. Tây Nguyên

344,7


117

-

-

-

7. Đông Nam bộ

527,8

179

652,9

642,7

0,98

8. ĐB sông Cửu Long

342,1

116

452,4

415,0


0,92

Tông

295,0

100

312,0

312,0

0,79

Nguồn : “Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ đối mơi, 1996-2002 ”, Tống cục
thống kê. Điều tra khảo sát lập bản đồ, Bộ NNPTNT-JICA,2002 (Số liệu về thợ thủ công)
[1,3-11]
Việc làm đầy đủ, thu nhập bảo đảm, đời sống vật chất tinh thần ngày càng nâng
cao làm cho người lao động nói riêng và người dân ở các làng nghề nói chung sẽ n tâm
tập trung cho cơng việc của mình. Người lao động sẽ khơng phải rời bỏ q hương vì
sinh kế, thực hiện được q trình đơ thị hố phi tập trung. Mức thu nhập trung bình của
các hộ gia đình tham gia sản xuất thủ cơng thường cao hơn 3 - 4 lần so với người lao
động thuần nơng, có thể thấy rằng ngành nghề thủ cơng đóng góp rất lớn vào q trình
phát triển kinh tế nơng thơn do mức thu nhập trung bình của cả nam giới và phụ nữ làm
nghề thường cao hơn so với mức trung bình của cả nước, tỷ lệ nghèo chỉ khoảng 3,7% so
với 10,45% tỷ lệ nghèo cả nước .
Tuy nhiên, mức lương của người lao động trong ngành TCMN của Việt Nam hiện
nay đang còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Theo số liệu điều tra,
cơng nhân VN có thu nhập từ 0,2-0,6 USD/giờ, trong khi Indonesia từ 0,3-0,4 USD/giờ,
Trung Quốc từ 0,5-0,75 USD/giờ, Malaysia từ 1,25-1 ,l4 USD/giờ, Thái Lan từ 1,5

17


USD/giờ trở lên và ở Đài Loan khoảng 5 USD/giờ. [44]
Bảng 4 : ĐẶC ĐIÈM CÁC Hộ SẢN XUẤT THỦ CƠNG NGHIỆP TRÊN CẢ NƯỚC
Hộ
Hộ gia đình
Sơ hộ

%

(nghìn hộ)
Hộ sản xuất TCN (1)
Tổng số hộ

(2)

Thu nhập bình quân

Tỷ lệ

tháng của hộ (3)

hộ

Nghìn

USD

đồng


nghèo
(%)

1.423

9,9

905

69,5

3,7

14.390

100,0

713

46,9

10,4

Nguồn : Điều tra khảo sát lập bản đồ. Bộ NNPTNT-JỈCA, 2002
Hộ trả

lờisản xuất

thủ công nghiệp là nguồn thu


nhập chính từ từ Khảo sát lập

bản đồ
Các hộ gia đình bao gồm hộ nông, lâm, ngư nghiệp, hộ sản xuất, dịch vụ & kinh doanh và
các hộ khác.
1 USD = 15.200 đồng.
1.2.4. Phát triển ngành nghề thủ thủ công mỹ nghệ góp phần bảo tồn bản sắc văn hố của
dân tộc trong thời đại tồn cầu hố
Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Một sự phát triển đúng đắn phải là đến hiện đại từ truyền
thống, chỉ có như vậy mới khơng đánh mất mình trong q trình hiện đại hoá (HĐH). Phần
quý báu nhất trong di sản văn hoá là những giá trị truyền thống, tiêu biểu cho sức sống,
phẩm chất, tính cách, bản sắc dân tộc được lưu giữ tạo thành bàn đạp, sức mạnh bên trong
cho sự phát triển bền vững của cá nhân và cộng đồng. [55,333]
Nhiều nghề và làng nghề TCMN của nước ta đã nổi bật lên trong lịch sử văn hoá
Việt nam. Nhiều sản phẩm của các làng nghề sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao với các
đặc tính riêng có của làng nghề và những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn
thuần, trở thành những sản phẩm văn hoá được coi là biểu tượng của truyền thống dân tộc
Việt nam. Ngành nghề truyền thống, đặc biệt là các nghề thủ cơng mỹ nghệ, chính là di sản
q giá mà cha ông chúng ta đã tạo lập và để lại cho các thế hệ sau. Bởi vậy, phát triển

18


ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ góp phần đắc lực vào việc giữ gìn các giá trị văn hố của
dân tộc Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hố (CNH)-HĐH đất nước. [9,46]
Cả nước ta hiện có khoảng 300 làng nghề TCMN truyền thống trong tổng số khoảng
2.017 làng nghề; có những làng nghề nổi tiếng như làng lụa Vạn Phúc, gỗ Đồng Kỵ, gốm sứ
Bát Tràng, đúc đồng Ý n, thổ cẩm Hồ Bình, thổ cẩm Chăm, thêu Huế, chạm bạc Đồng

Xâm, sứ Bình Dương... Khi cuộc cạnh tranh với quy mơ tồn cầu mở ra, những sản phẩm
TCMN mà doanh nhân nước ta mang ra thị trường đều phải có sức cạnh tranh cao hơn
trước, khơng những trên thị trường thế giới mà còn ngay trên thị trường trong nước. Song,
điều cần nhấn mạnh là đó khơng chỉ là những hoạt động đơn thuần kinh tế mà ẩn chứa bên
trong các sản phẩm TCMN ấy ln ln có hàm lượng văn hoá, trước hết là văn hoá của
mỗi cơ sở sản xuất và rộng hơn, là bản sắc văn hoá của từng làng nghề và của cả VN ta. Nói
cách khác, kinh tế và văn hố gắn bó với nhau, hoà quyện vào nhau trong mỗi sản phẩm
TCMN. [32]
1.2.5. Phát triển ngành nghe thủ công mỹ nghệ theo hướng sản xuất hàng hố giúp đội ngũ
lao động có khả năng thích ứng với lao động cơng nghiệp, góp phần cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng thơn
Q trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều gắn liền với sự chuyển dịch lao
động từ nông nghiệp sang cơng nghiệp dịch vụ. Sự nghiệp CNH-HĐH địi hỏi nguồn lao
động không ngừng được bổ sung từ khu vực nông nghiệp. Nguồn nhân lực từ nơng nghiệp
cho q trình phát triển công nghiệp và dịch vụ, một mặt bổ sung cho khu vực thành thị, mặt
khác được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp ngay trên địa bàn nơng thơn
đã được thành thị hố theo hướng “nhập xưởng bất nhập thành”. Phát triển ngành nghề
TCMN sẽ thực hiện tốt việc phân công lao động tại chỗ, là nơi kết hợp nơng nghiệp-cơng
nghiệp có hiệu quả. Sự phát triển ngành nghề TCTT nói chung và các làng nghề TCMN nói
riêng là một trong những hướng rất quan trọng để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng CNH-HĐH.
Trên cơ sở hoạt động chung trong mọi sinh hoạt cộng đồng của làng xã VN, giao tiếp
bị hạn chế, giao lưu văn hố khơng được mở mang, tính bảo thủ đã xuất hiện như là một nét
điển hình của người nơng dân. Người nơng dân sản xuất nhỏ thường tuỳ tiện trong hoạt

19


động và giao tiếp nên thiếu tính kỹ luật. Họ muốn làm thì làm, thích nghỉ thì nghỉ, tuỳ theo
hứng thú, không bị kỷ luật của công việc, của tổ chức quy định. Tình hình đó đã tạo nên tác

phong tuỳ tiện, thiếu tinh thần trách nhiệm cá nhân, không tính đến hiệu quả kinh tế của sức
lực và thời gian. Như vậy, ở họ thiếu tính kỷ luật lao động và điều này đã trở thành lực cản
đối với sự phát triển của xã hội và của cả cá nhân trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.
Phát triển ngành nghề TCMN theo hướng sản xuất hàng hoá tạo điều kiện xố bỏ tình trạng
chia cắt, khép kín trong từng địa bàn, từng đơn vị, hình thành và phát triển các mối quan hệ
hợp tác, phân công lao động trong quá trình phát triển, thúc đẩy việc mở rộng giao lưu kinh
tế và văn hố giữa các vùng nơng thơn, giữa thành thị và nơng thơn, giữa trong nước và
nước ngồi, tạo điều kiện cho kinh tế-xã hội ở nông thôn phát triển theo hướng văn minh,
tiến bộ. Đồng thời sản xuất hàng hố làm cho trình độ nhận thức của lao động nơng nghiệp
được nâng cao, thói quen năng động, ý chí vươn lên và phong cách nghề nghiệp được tơi
luyện trong mơi trường kinh tế hàng hố, sẽ càng có điều kiện đápứng nhu
lượng

sức lao

cầuchất

độngngày càng tăng của

cơng nghiệp và dịch vụ. [6,95-105; 2,39-41]
1.2.6. Phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ theo hướng liên ket cùng ngành du lịch
Hệ thống làng nghề là một trong những nguồn tài nguyên du lịch quan trọng của
nước ta. Phát triển du lịch làng nghề không chỉ mang lại lợi nhuận kinh tế mà cịn là cơ hội
để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Ngoài những lợi thế như cảnh quan
thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hố đặc sắc, các làng nghề TCMN cịn có sức hút đặc biệt
bởi mỗi làng thường gắn với một vùng văn hố hay một hệ thống di tích. Chính điều này đã
tạo nên sức hấp dẫn riêng của các làng nghề. PGS.TS Phạm Trung Lương, Viện nghiên cứu
phát triển du lịch làng nghề nhận định : “Làng nghề truyền thống được xem như một dạng
tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghiã đặc biệt quan trọng. Bời các sản pham du lịch làng
nghề ln bao hàm trong nó cả những giá trị vật thế và phi vật thế”. [25]

Trong chiến

lượcphát triển

du lịch Việt

nam đến năm 2010 với mục tiêu

phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, từng bước đưa nước ta trở
thành một trung tâm du lịch có tầm cở của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt

20


nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Năm 2010
khách quốc tế đến Việt nam du lịch được dự đoán đạt từ 5,5 đến 6 triệu lượt người, khách
nội địa từ 25 đến 26 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt 4 đến 4,5 tỷ USD. [53]
Trong bối cảnh đó, việc phát triển các làng nghề phục vụ du lịch đã được nhiều địa
phương trên cả nước xúc tiến và đang tích cực triển khai quảng bá sản phẩm thủ cơng.
Nhiều tỉnh thành như Hà Tây, Hồ Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Đà Nằng... đang triển
khai mạnh mẽ loại hình này. Một số chuyên gia du lịch nhận định: “Sự kết hợp chặc chẽ
giữa du lịch và nghề thủ công truyền thống tại VN hầu như khơng có tại các nước ASEAN,
trừ Chiềng Mai (Thái Lan). Chính vì thế, đây là thế mạnh để nước ta khai thác”. Hà Tây là
tỉnh tập trung nhiều làng nghề nhất cả nước đã thu hút khách tham quan bằng cách tổ chức
lễ hội du lịch làng nghề truyền thống thường niên nhằm quảng bá những sản phẩm của làng
nghề trong tỉnh. Tại các kỳ hội

chợ,


nhiềulàng nghề

đãcó cơ hội

ký hợp

đồng xuất khẩu tại chỗ,
mang lại giá trị hàng tỷ đồng/năm. Làng gốm Bát Tràng, dân làng đã tự xây dựng bảo tàng
lịch sử gốm Bát Tràng ngay trong đình thờ tổ, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang ý nghĩa
tâm linh; chọn những gia đình có kỹ thuật sản xuất truyền thống là điểm đến trong mỗi
chương trình du lịch, đồng thời tổ chức mơ hình du lịch độc đáo bằng xe trâu. Ở Hội An,
người ta lập các xưởng nghề thủ công như thêu thùa, chạm khắc, dệt thổ cẩm, dệt lụa, dệt
chiếu, may đo theo yêu cầu của khách... Khách đến xem thợ làm, rồi mua những thứ họ
thích.
Du lịch

làng nghề,tức

vừa làm du lịch

vừa sản xuất sản phẩm làng nghề,

xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm làng nghề, nên hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, có thể thấy
rằng phát triển thị trường hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ khách du lịch có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. “Chương trình hành động Hà Nội” tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN đã đưa ra
sáng kiến “Hành lang Đơng Tây”, đó là phát triển các làng nghề dọc hành lang Đông-Tây
nhằm tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước: Campuchia, Lào, Myama, Việt Nam và
Thái Lan. Đây được xem là một phương pháp góp phần cải thiện mức sống và tạo việc làm
cho người dân địa phương. Hiệp hội làng nghề VN cần hợp tác với ngành du lịch từ Trung
ương đến địa phương để phát triển loại hình này, qua đó sẽ tạo ra sự phồn thịnh hơn cho các

làng nghề. Tuy nhiên, trên cả nước hiện chỉ khoảng 100 làng nghề được đầu tư đồng bộ về

21


hệ thống hạ tầng, số còn lại chưa được các làng nghề và chính quyền địa phương chú ý đầu
tư, quy hoạch hoặc có quy hoạch nhưng thực chất chỉ đặt tên mà khơng có sự đầu tư thoả
đáng về hạ tầng du lịch cũng như nâng tầm văn hoá và cơ chế phối hợp với các doanh
nghiệp lữ hành để thu hút khách. Thành ra nhiều làng có tên là điểm du lịch làng nghề
nhưng lại chỉ mang tính hình thức, phong trào nên khơng đem lại hiệu quả thiết thực.[53; 25;
44; 1,6-62; 31]
1.2.7. Phát triển ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ góp phần phát triển khối doanh nghiệp, định
hình nên một đội ngũ thương nhân mới
Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là khi VN chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc xây dựng chiến lược mở rộng liên kết, hợp
tác với nhau để hợp lý hố, chun mơn hố, hiệp tác hoá trên cơ sở thế mạnh của mỗi
doanh nghiệp nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện
nay, chưa có số liệu thống kê chính thức về số doanh nghiệp thuộc ngành nghề thủ công
tham gia hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, với trên 1.000 doanh nghiệp tham gia trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng TCMN là một trong những lực lượng đóng vai trị rất quan trọng
trong q trình phát triển và mở rộng thị trường quốc tế cho ngành hàng này.
Hình thức tổ chức sản xuất-kinh doanh phổ biến trong các làng nghề truyền thống là
hộ gia đình. Mơ hình này hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển, mỗi gia đình khơng đủ
sức nhận hợp đồng lớn, không mạnh dạn cải tiến sản phẩm, không đủtầm
định hướng phát

triển và vạchra chiến

lược


để
kinh doanh. Các

doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần được phát triển từ một số tổ sản xuất
hoặc một số hộ gia đình sản xuất-kinh doanh khá đã bắt đầu hình thành ở nhiều làng nghề.
Hình thức tổ chức này tuy chưa chiếm tỷ trọng lớn ở một số làng nghề hiện nay nhưng lại
đóng vai trị trung tâm liên kết mà các hộ gia đình là các vệ tinh, thực hiện các hợp đồng đặt
hàng với các hộ gia đình, giải quyết đầu vào, đầu ra của các làng nghề với các thị trường
tiêu thụ khác nhau. Khối doanh nghiệp trong các làng nghề dễ dàng tiếp cận với kinh doanh
lớn, công nghiệp hiện đại và có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển thành các doanh nghiệp
lớn thông qua việc thiết lập được nhiều mối liên kết kinh tế với các doanh nghiệp lớn ở

22


thành thị và các đơn vị trong các làng nghề.
Như vậy, đội ngũ doanh nghiệp đóng vai trị động lực thúc đẩy sự phát triển từ bên
trong các làng nghề. Bên cạnh q trình tự thân vận động của chính các doanh nghiệp, cần
có sự hỗ trợ từ phía nhà nước, chính quyền địa phương để các nghệ nhân, thợ cả, nghệ sỹ
tạo hình đang hoạt động trong ngành nghề TCMN có điều kiện phát huy năng lực vươn lên
thành các nhà kinh doanh giỏi. Chính khả năng nghề nghiệp của họ cộng với năng lực tổ
chức, quản lý sản xuất và tài năng kinh doanh của các nhà doanh nghiệp trong ngành TCMN
đã tạo nên sức sống mới của nhiều làng nghề truyền thống hiện nay trên toàn quốc, khơng ít
nghệ nhân, doanh nghiệp TCMN đã trở thành tỷ phú, tạo cơ hội có cơng ăn việc làm ổn định
cho nhiều người lao động ở khu vực nông thôn và thành thị, góp phần tích cực, có hiệu quả
vào công cuộc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. [22,2; 9; 43; 19]
1.2.8. Phát triển ngành nghe thủ cơng mỹ nghệ hướng vào xuất khẩu trực tiep góp phần tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
Theo dự báo của ngân hàng thế giới, kinh tế thế giới đạt tốc độ tăng trưởng bình

quân 4,3%/năm giai đoạn 2007-2010, nhập khẩu hàng hố của tồn thế giới là 6,7%/năm.
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và các
nước đang phát triển châu Á. Đây là yếu tố thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh cơng tác xuất
khẩu của mình để góp phần vào sự tăng trưởng chung của kinh tế đất nước. Tầm nhìn chiến
lược phát triển ngành TCMN đến năm 2020 của VN là xây dựng, tổ chức chặt chẽ và hợp
tác hiệu quả giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN. Mục tiêu quan trọng
trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2010 là chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Trong đó
nhóm hàng thủ cơng mỹ nghệ được xem là nhóm có nhiều tiềm năng và lợi thế xuất khẩu
[43; 54].
Các số liệu cho thấy, nhiều năm trở lại đây, hàng TCMN đuợc liệt vào danh sách 10
mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất. Nếu như năm 1998, hàng TCMN Việt Nam chỉ bán
ở 50 nước thì nay đã có mặt trên 100 nước và vùng lãnh thổ [41]. Kim ngạch xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ đạt mức tăng khá, từ 235 triệu USD năm 2001 lên trên 560 triệu
USD năm 2005 và 630,4 triệu USD năm 2006, mục tiêu năm 2007 đạt 820 triệu USD. Hàng

23


TCMN sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước, nguyên phụ liệu nhập
khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm, khoảng 3-5% giá trị xuất khẩu. Vì vậy giá trị thực
thu xuất khẩu hàng TCMN trên thực tế là rất cao, từ 95-97%. [56]
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ VN đã vươn tới các thị trường tiêu thụ lớn của thế giới
như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản. Đây là mặt hàng mà nhu cầu thị trường thế
giới hầu như chưa bị giới hạn bởi tính chất độc đáo và khác biệt của sản phẩm. Bên cạnh đó,
xuất khẩu mặt hàng này mang lại giá trị gia tăng lớn nên có thể coi là ngành hàng mủi nhọn
để tập trung phát triển xuất khẩu trong thời gian tới. Một số thị trường mục tiêu nên được
lựa chọn để đẩy mạnh xuất khẩu :
+ Thi trường Hoa Kỳ : Xuất khẩu của VN sang Mỹ có xu hướng ngày càng tăng, dự kiến sẽ
vượt con số 10 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007. Nhu cầu nhập khẩu của Hoa kỳ về mặt hàng

TCMN khoảng 13 tỷ USD/năm, xuất khẩu Việt Nam năm 2005 vào nước này chỉ chiếm
1,5% kim ngạch nhập khẩu. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ khoảng
77 triệu USD hàng TCMN, trong đó 36,8% là hàng gốm sứ, tăng 27,6% so với năm 2005 và
gấp 7 lần so với năm 2002. Phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên 3% đạt kim ngạch trên 0,4
tỷ USD. [30; 21,16]
+ Thị trường Liên minh Châu Ầu ( E U ) : EU là một tổ chức liên chính phủ của các nước
Châu Âu, là một trong 3 trụ cột kinh tế quan trọng của thế giới, có tốc độ tăng trưởng cao,
tương đối ổn định. Thị trường EU có nhu cầu rất lớn, đa dạng, phong phú về hàng hoá và
hàng TCMN là một trong những mạt hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang thị trường này.
Nhu cầu nhập khẩu của khối này về mạt hàng TCMN khoảng gần 7 tỷ USD/năm, xuất khẩu
của Việt nam năm 2005 vào EU chỉ chiếm 5,4% kim ngạch nhạp khẩu. Bộ Công Thương
nhạn định, trong tương lai EU sẽ là thị trường hứa hẹn của hàng TCMN Việt Nam. Vì vạy,
mục tiêu phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ lên trên 6,4% đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD [30; 57;
14,40].
+ Nhật Bản : Trong số các thị trường xuất khẩu hàng TCMN của VN, Nhạt Bản là thị
trường nhạp khẩu lớn, luôn chiếm từ 10-29% tổng kim ngạch xuất khẩu mạt hàng này. Các
mạt hàng TCMN VN xuất khẩu vào NB chủ yếu là hàng gốm sứ, đồ gỗ nội thất, mây tre
đan. Riêng hàng mây tre đan liên tục tăng với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng từ 30-

24


35% năm trong 10 năm trở lại đây. Kim ngạch xuất khẩu các mạt hàng này chiếm từ 5085% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN VN vào NB. Nhu cầu nhạp khẩu hàng TCMN
của Nhạt Bản khoảng 2,9 tỷ USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Nhạt Bản chỉ
chiếm 1,7% kim ngạch nhạp khẩu, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ lên trên 4% đạt kim ngạch
khoảng 150 triệu USD. [30; 26]
1.3. ĐẶC ĐIẺM NGÀNH NGHÈ THỦ CƠNG TRUYỀN THĨNG VIỆT NAM
Đặc điem lịch sử
Việt Nam là một trong những nước có nghề thủ cơng lâu đời, nhiều làng nghề, phố
nghề và trung tâm sản xuất kinh doanh hàng thủ cơng mỹ nghệ. Nhiều nơi có lịch sử nghề từ

bao thế kỷ, đến nay vẫn được duy trì và phát triển. Sản phẩm thủ cơng mỹ nghệ nước ta rất
phong phú, tinh tế. Các nghệ nhân và thợ thủ công Việt Nam tài hoa với đôi bàn tay khéo
léo, trí thơng minh, óc thẩm mỹ tinh tế đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị nghệ thuạt cao,
trong đó có khơng ít các sản phẩm được lưu giữ như một báu vạt vô giá.
Trống đồng Đông Sơn là một trong những loại sản phẩm của nghề đúc đồng đương
thời đã đạt đến tuyệt đỉnh về kỹ thuât và nghệ thuât. Giai đoạn này khá nhiều nghề thủ công
đã ra đời như luyện kim đen, rèn đồ sắt, chế tạo thuỷ tinh, dệt vải, đóng thuyền, nghề sơn...
bên cạnh một số nghề xuất hiện rất lâu trước đó như nghề đan lát, nghề chế tác đá, nghề
mộc... Trãi qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử nhiều ngành nghề thủ cơng của Việt
Nam đã có bước tiến mạnh mẽ như nghề gốm, nghề sản xuất tơ lụa, chạm khắc gỗ, đúc
đồng, kim hoàn... đều đã đạt tới trình độ tuyệt kỷ, tinh xảo cả về kỹ thuât và nghệ thuât được
bảo tồn, truyền đến ngày nay. [16,7]
Đặc điểm văn hoá
Bản sắc văn hoá của bất cứ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn tại của dân
tộc đó. Truyền thống văn hóa được biểu hiện tâp trung ở bản sắc văn hố dân tộc,đó vừa là
động

lựccũng

là mục tiêu của sự phát triển.

Nghề thủ công với

những sản phẩm của nó thât sự đã góp phần tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc và tự nó đã
là những di sản văn hố của dân tộc. Sản phẩm thủ cơng có hai loại giá trị truyền thống: một
là căn cứ vào giá trị kỹ thuât như nguyên vât liệu, quy trình sản xuất, kỹ thuât, mẫu mã... và
hai là giá trị văn hoá, bao gồm lối sống truyền thống và di sản của người dân, những câu

25



×