Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Cac bien phap ren luyen cam thu van hoc cho hoc sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.24 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Các biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh</b>


<b>trong dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông.</b>




Điều kiện đầu tiên của mọi sự phân tích, đánh giá, thẩm định giá trị của văn bản nghệ
thuật là người đọc có cảm thấy văn bản đó hay, hấp dẫn và xúc động thực sự khi đọc hay
không. Nghĩa là trong đọc hiểu văn bản nghệ thuật, người đọc, dù ít hay nhiều phải huy
động thoạt đầu là tri giác và sau đó là liên tưởng, tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới
nghệ thuật của văn bản, thể nghiệm giá trị tinh thần và hứng thú với sắc điệu thẩm mĩ của
nó. Nếu q trình này khơng xảy ra thì người đọc, dù bằng cách nào đi nữa, cũng khó có
thể hiểu được sâu sắc văn bản mình đọc. Và khơng riêng gì việc tiếp nhận văn bản văn
học mà đối với việc tiếp nhận bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác thì cũng diễn ra quá
trình tương tự. Quá trình tâm lí nói trên chính là cảm thụ văn học. ở đây, chúng tôi phân
biệt giữa cảm thụ và tiếp nhận văn học.


Tiếp nhận văn học là toàn bộ quá trình biến văn bản thành tác phẩm. Đây là một hoạt
động gồm nhiều bước, nhiều cung đoạn; và người đọc gần như phải huy động toàn bộ
những năng lực tinh thần của mình. Sách <i>Lý luận văn học</i> viết: “Khái niệm tiếp nhận bao
hàm các khái niệm cảm thụ, thưởng thức, lí giải, đồng cảm” (4). Còn cảm thụ văn học là
hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Cơ sở, nguồn gốc của cảm thụ là sự
nhân hoá tự nhiên bên trong của con người thơng qua q trình lao động sản xuất. Cấu
trúc của cảm thụ là sự đan xen phức tạp của các yếu tố tri giác, lý giải, tưởng tượng, cảm
xúc. Trong cấu trúc của cảm thụ các nhân tố lý tính đã hồ tan vào trong đó như muối,
như đường hồ tan trong nước, khơng thể nhận biết trở thành siêu lý tính. Mục đích của
cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương
nhằm đào tạo, bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Với cách quan niệm
như trên về cảm thụ, chúng tôi nhận thấy việc xác lập các biện pháp rèn luyện cảm thụ
cho học sinh trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở trường phổ thơng có ý nghĩa quan
trọng; đặc biệt nó góp phần đảm bảo tính nghệ thuật đặc thù của mơn ngữ văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

thích trí tưởng tượng của học sinh, hình thành các phẩm chất của người đọc…) không


cho phép giới hạn ở các biện pháp phân tích, nghiên cứu văn học trong khi phân tích ở
nhà trường”(3). Do đó, phải xác định các biện pháp đặc thù nhằm mục đích “phát triển trí
tưởng tượng của người đọc và đồng thời dùng làm phương tiện để phát hiện và đưa việc
cảm thụ của người đọc vào việc phân tích”(3). Nhưng trong khn khổ giáo trình, các tác
giả khơng thuyết minh cơ sở lý thuyết để xác định các biện pháp nói trên.


Theo chúng tơi, chính cấu trúc, cơ chế của cảm thụ văn học là cơ sở để xác lập các biện
pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc. Do đó, phần đề xuất các biện
pháp của chúng tôi phong phú hơn về số lượng cũng như khác về nội dung của từng biện
pháp.


ở trong nước, có thể nói cho đến nay, chưa có cơng trình nào tập trung xây dựng các biện
pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh ở trường phổ thơng. Ngun nhân chính là
vì các nhà nghiên cứu hoặc đồng nhất giữa hai khái niệm tiếp nhận và cảm thụ hoặc
không phân định dứt khốt ranh giới giữa hai khái niệm này. Nói thế, không phải các
biện pháp xây dựng cảm thụ văn học cho học sinh chưa được đề cập tới; phần lớn các
biện pháp này được đề xuất trong các cơng trình nghiên cứu các mặt, các nhân tố riêng
của cảm thụ văn học như liên tưởng và tưởng tượng mà tiêu biểu là cơng trình <i>Cơng nghệ</i>
<i>dạy văn</i> của Phạm Toàn và <i>Rèn luyện tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học tác </i>
<i>phẩm văn chương </i>của Nguyễn Trọng Hồn. Nhưng cũng vì thế các biện pháp được xác
định chưa tập trung.


Trên cơ


sở khái niệm cảm thụ văn học, đặc biệt là xác định được cấu trúc của nó, chúng tơi đề
xuất những biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh trong dạy đọc hiểu văn bản
ở trường phổ thơng. Xin được trình bày nội dung từng biện pháp cụ thể:


<i><b>1. Đọc diễn cảm: </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu
không tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình
thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và
có thể khiến các em bỗng nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản.


Đó là chưa nói nếu như giáo viên u cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội cho các
em bộc lộ bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý thức đọc sao cho
cuốn hút chứ không phải là qua chuyện, và đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể
nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn
tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hồn tồn khơng phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi
mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn.


Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại phải đọc diễn cảm.
Trước hết, vì ngơn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc biệt, nhà văn phải là nghệ sĩ
ngôn từ. Ngơn từ văn học là ngơn từ mang tính hình tượng, biểu cảm, và ở những tác
phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc của ngơn từ. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm
thơ vang lên như một bản nhạc làm cho nó ngân nga trong hồn người. Giáo sư Trần
Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm tác phẩm thơ là phải đọc làm sao cho tác phẩm “sáng
hết hình và ngân hết nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện khác quan trọng hơn, đấy là nội
dung cảm hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể hiện những rung động mãnh liệt, cảm
hứng nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao lột tả được
nội dung tình cảm của nó, phải đọc đúng giọng điệu, làm lây lan cảm xúc của nhà văn
đến người đọc, truyền cảm hứng cho độc giả. Ngay tên gọi đã nói đúng bản chất của việc
đọc diễn cảm, đó là người đọc phải thể hiện xúc cảm, tình cảm trong giọng đọc.


Những cảm xúc này khơng phải giả tạo mà phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn
bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn trước hết khơng phải là “khoe giọng”
mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện
pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn
bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận


lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện pháp có tác dụng rèn luyện
cảm thụ văn học cho học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>2. Trần thuật sáng tạo</b></i>


Đây là biện pháp thường được dùng với học sinh THCS vì nó phù hợp với đặc điểm tâm
lý cúng như năng lực của các em. Trần thuật sáng tạo là tự đặt mình vào một nhân vật
nào đó trong văn bản mà trần thuật lại câu chuyện của nó. Hình thức này phát huy sáng
tạo của học sinh, rèn luyện năng lực hoá thân, nhập thân vào nhân vật. Khi trần thuật,
trong chừng mực nào đó, học sinh phải đặt mình vào vị trí nhân vật, thể nghiệm những gì
mà nhân vật nếm trải trong tình huống của nó, từ đó hiểu sâu sắc hơn về nhân vật và mở
rộng kinh nghiệm đời sống. Biện pháp này khiến học sinh hào hứng học tập, xoá bỏ
khoảng cách với văn bản, phát huy được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp
này một cách linh hoạt, khơng nên rập khn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc,
hoặc thực hiện ở phần củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh.


Giáo viên nhất thiết phải có sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn, uốn nắn
cần thiết. Mục đích chính của trần thuật sáng tạo khơng phải là để học sinh nắm vững hệ
thống cốt truyện của văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản. Do đó, giáo viên phải
định hướng việc trần thuật vào lĩnh hội và thể nghiệm giá trị của văn bản. Chẳng hạn, lưu
ý học sinh diễn tả thế nào về những tình huống trọng yếu, những diễn biến tâm lý và xúc
cảm tế nhị của nhân vật. Cũng cần lưu ý rằng đây là biện pháp phát huy sáng tạo của học
sinh nhưng giáo viên phải có định hướng để học sinh khơng vì cảm xúc và tình cảm mà
thay đổi ý đồ sáng tác của nhà văn hay tính cách của nhân vật.


<i><b>3. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng.</b></i>


Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chúng là những câu hỏi
trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm của học
sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe tiếng nói của


trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: <i>Em có ấn tượng thế nào </i>
<i>về văn bản?</i> Dạng câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn tượng chung. Và ở dạng
tương tự, sẽ có các câu hỏi như: <i>Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ, khổ thơ, câu thơ…</i>
<i>trong bài thơ; hay hành động, ngơn ngữ, tích cách nhân vật… trong truyện)?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>muốn chôn vùi cả hình hài và thân xác mình”,</i> và hỏi học sinh: <i>Khi chúng ta xấu hổ </i>
<i>chúng ta có cảm giác thế nào khi đứng trước mặt mọi người?</i>


Hay để bình giá về chi tiết anh thanh niên trong <i>Lặng lẽ Sa Pa</i> của Nguyễn Thành Long
vì “thèm người” nên ngáng gỗ dọc đường không cho xe đi qua để gặp và trò chuyện cùng
những người qua đường, giáo viên có thể hỏi học sinh: <i>Có thể hiểu thèm người là cảm </i>
<i>giác mà ai cũng có khi phải ở hồn cảnh một mình hay cơ đơn khơng? Tại sao tác giả </i>
<i>khơng nói anh rất cơ đơn, rất muốn gặp ai đó để nói chuyện mà lại nói là “thèm người”?</i>
<i>Và các em đã bao giờ trải qua cảm giác này hay chưa? Em nghĩ gì về anh thanh niên?</i>


Những câu hỏi dạng này khiến học sinh phải huy động kinh ngiệm bản thân để soi sáng
bản chất nhân vật, dễ đồng cảm sâu sắc với tình huống và cảnh ngộ của nó.


Ngồi ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học sinh. Văn
học dùng ngôn ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật thể của ngơn ngữ nên hình tượng
văn học khơng thể tác động trực tiếp vào giác quan của người đọc, mà chỉ tác động gián
tiếp thông qua liên tưởng, tưởng tượng. Cho nên thưởng thức văn bản văn học đòi hỏi
phải huy động tưởng tượng, hình thức tưởng tượng để làm nổi bật lên bức tranh đời sống
trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái tạo.


Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên có
thể đặt các câu hỏi với dạng sau: <i>Em hình dung thế nào về bức tranh (Với bài Thu điếu </i>
<i>của Nguyễn Khuyến chẳng hạn thì bức tranh ở đây là bức tranh mùa thu) được tác giả </i>
<i>thể hiện trong tác phẩm?</i> ở đây, hồn tồn khơng phải là việc phân tích bức tranh mà là
yêu cầu học sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy bức tranh đó


trong đầu mình, và trong chừng mực nhất định là sống với nó, đồng cảm với nó. Khả
năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc có
xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà văn sáng tạo
nên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i><b>4. Dùng lời bình đúng thời diểm </b></i>


Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cảm
thụ cho học sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về
vẻ đẹp của văn chương; sau đến, rèn luyện khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm
mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của
mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu về tình
cảm trong giờ văn. Nhưng tuyệt nhiên giáo viên khơng được lạm dụng biện pháp này, bởi
nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn
bản chứ khơng phải là trổ tài trình diễn để thơi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ tung
ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc
đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khoái cảm
thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết phải giàu cảm xúc, là sản phẩm của sự xúc động sâu
sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác, nó phải độc đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn
tượng, ưu tiên tiên những lối diễn đạt giàu hình ảnh nhằm tác động mạnh đến học sinh.


Hơn nữa, giáo viên chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm
và việc bình giá nó giúp học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản.


ở đây, chúng tơi muốn nói đến những lời bình có khả năng đánh thức liên tưởng của học
sinh, nó tựa con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật văn bản.
Tại sao lời bình lại có chức năng này? Vì bản thân lời bình đó chứa đựng liên tưởng thẩm
mỹ hết sức nhạy bén. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng bình văn chẳng qua là thể
hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác phẩm. Chẳng hạn, Xuân Diệu
bình chùm thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, ông kể lại chuyến về thăm quê nhà thơ,


vùng đồng bằng chiêm trũng, ngịi bút của ơng phác thảo cảnh vật nơi đây, những phong
cảnh đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến, và từ những phác thảo rất duyên dáng đó, Xuân Diệu
dẫn ta vào những câu thơ của Nguyễn Khuyến, những câu thơ đã vẽ nên cái hồn, cái thần
của mùa thu, “điển hình cho mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”.


Tương tự, giáo viên có thể khơi gợi học sinh nhớ về những đêm ngắm trăng sáng, những
lần xa quê không ngi nỗi nhớ mà kí thác nỗi nhớ nhà lên tạo vật, lên vầng trăng khuya
để từ đó cảm nhận nỗi nhớ quê hương bồi hồi, bồn chồn, thẳm sâu, và vô cùng da diết,
tắm vào không gian bàng bạc, vào vầng trăng trên trời của nhà thơ Lý Bạch trong bài


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thương hoá vào trong tiếng quốc quốc đau lòng, sầu thảm; tiếng gia gia khản giọng của
Bà Huyện Thanh Quan trong bài <i>Qua đèo ngang. </i> Nghĩa là phải gợi lên những tình
huống của nhân vật, liên hệ với tình huống của bản thân để từ đó có những lời bình thích
đáng, xuất phát từ những rung động sâu xa, chân thật của tâm hồn. Nó làm cho rung động
của nhà văn nay hiện hình trong tâm hồn của học sinh. Học sinh nói về nhân vật, về văn
bản là đang nói lên chính nỗi lịng mình.


<i><b>5. Đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác</b></i>


Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật
khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy học sinh hình thành
những ấn tượng về văn bản.


Thông thường, một số giáo viên đối chiếu văn bản với nghệ thuật hội hoạ hoặc điện ảnh.
Tuy nhiên, giáo viên không được lạm dụng, việc sử dụng các hình ảnh này mang tính
chất đối chiếu, so sánh về hai cách cảm thụ, hai cách nhìn, và hướng tới khơi gợi cảm thụ
chứ hồn tồn khơng được dùng hình ảnh làm tài liệu trực quan như một số người vẫn
hay làm bởi đó là biện pháp thủ tiêu trí tưởng tượng của học sinh, học sinh dễ có xu
hướng đồng nhất văn bản với các tác phẩm nghệ thuật khác. Một số văn bản trong



chương trình đã được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh thì giáo viên có thể cho các em
xem trong giờ ngoại khố và có thể nêu ra một số vấn đề để các em thảo luận.


Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như <i>Mùa xuân nho nhỏ</i> của Thanh Hải,


</div>

<!--links-->

×