PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và rèn kỹ năng học tập của học sinh
đang được quan tâm. Cách thức đổi mới và phương pháp thực hiện phải thể hiện được quan
điểm “Lấy người học làm trung tâm”. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình dạy học ở trường
phổ thông, tính chủ động của người thầy vẫn vẫn còn nhiều, người học chưa thật sự chủ
động trong việc khám phá, tìm kiếm tri thức mới.
Để hoạt động dạy học đạt kết quả cao thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay cần tập trung vào vấn đề rèn các kỹ năng học tập cho học sinh, đặc biệt lưu ý đến việc
phát triển các kỹ năng tự học, tự tìm kiếm và khai thác thông tin. Có như vậy chúng ta mới
mong đào tạo ra thế hệ trẻ năng động, sáng tạo đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Trong những kỹ năng tự học cần trang bị cho học sinh thì kỹ năng diễn đạt nội dung
khi tự lực nghiên cứu sách giáo khoa là thiết thực nhất mà học sinh cần có được trong nhà
trường phổ thông. Và cũng để mai này khi các em đến với giảng đường đại học sẽ không
thấy bỡ ngỡ khi tiếp xúc với “mớ tài liệu” khổng lồ.
Chính vì những lý do nói trên, tôi quyết định chọn vấn đề: “CÁC BIỆN PHÁP RÈN
LUYỆN CHO HỌC SINH KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT NỘI DUNG TRONG QUÁ
TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LỰC NGHIÊN CỨU SÁCH GIÁO KHOA
TRONG DẠY HỌC SINH HỌC 10 – PHẦN SINH HỌC TẾ BÀO” làm đề tài nghiên
cứu của mình với lý do hy vọng thay đổi cách dạy và học để nâng cao hiệu quả đào tạo
trong nhà trường phổ thông.
1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng diễn đạt nội dung thông qua các biện pháp sử dụng
sơ đồ hình, sơ đồ logic dạng bảng…
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Nếu thiết kế và sử dụng các biện pháp đó hợp lý thì sẽ rèn luyện cho học sinh có kỹ
năng diễn đạt nội dung tốt khi tự lực nghiên cứu SGK sẽ giúp học sinh có hứng thú khi tìm
hiểu tài liệu mới đồng thời phát triển được các năng lực tư duy khoa học.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Các biện pháp sử dụng sơ đồ logic dạng bảng, sơ đồ hình.
5. NỘI DUNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Với mục đích đã nêu, nhiệm vụ nghiên cứu gồm những vấn đề cơ bản sau:
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
5.2 Nghiên cứu quy trình, kỹ thuật diễn đạt nội dung.
5.3 Phân tích nội dung chương trình sinh học lớp 10- phần sinh học tế bào để
chọn ra đơn vị kiến thức dùng để rèn luyện kỹ năng diễn đạt nội dungở học sinh.
5.4 Xây dựng và vận dụng quy trình tổ chức hoạt động tự lực nghiên cứu SGK để
rèn kỹ năng diễn đạt nội dung.
5.5 Xây dựng câu hỏi, bài tập cho việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt nội dung
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
• Thu thập, phân loại, tổng hợp các tài liệu và các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài.
• Nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học.
• Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sinh học 10.
6.2 Phương pháp chuyên gia:
Trao đổi, xin ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa
học giáo dục để tìm kiếm tư liệu phục vụ đề tài.
7. LƯỢC SỬ VẤN ĐỀ:
2
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý luận về các phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh được nghiên cứu nhiều. Trong việc đó, các tác giả
tập trung nghiên cứu nhiều các biện pháp, phương pháp rèn luyện một số kỹ năng cho học
sinh như:
- Kỹ năng đọc sách trong “Lý luận dạy học sinh học – phần đại cương” của GS.TS Đinh
Quang Báo, Nguyễn Đức Thành.
- Kỹ năng đọc sách trong “Các biện pháp hướng dẫn nghiên cứu sách giáo khoa trong dạy
học sinh học 10 phân ban để rèn luyện một số kỹ năng đọc sách cho học sinh” của Hoàng
Nguyên Văn.
- Kỹ năng đọc sách trong “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy sinh học” của GS.TS
Đinh Quang Báo, Đặng Thị Dạ Thủy, Đỗ Thị Phượng, Nguyễn Thị Nghĩa.
8. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Quy trình và các biện pháp rèn luyện cho học sinh kỹ năng diễn đạt nội dung
trong tổ chức hoạt động tự lực nghiên cứu sách giáo khoa
9. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi chương trình: chương II, chương III chương trình sinh học lớp 10
10. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
• Nêu được cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt nội dung giúp cho chất
lượng của quá trình dạy và học được nâng lên.
• Xây dựng quy trinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt nội dung
• Đề xuất các biện pháp, phương pháp dạy học để tổ chức rèn luyện kỹ năng diễn đạt
nội dung (Phương pháp trực quan, hỏi đáp với các phương tiện trực quan, mô hình,
tranh vẽ, bài tập, thí nghiệm, phim, hình ảnh...)
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Khái niệm kỹ năng và kỹ năng diễn đạt nội dung:
1.1.1.1 Kỹ năng:
Theo Trần Bá Hoành: “Kỹ năng là khả năng là khả năng vận dụng những tri thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào trong thực tiễn, kỹ năng đạt đến mức hết sức thành
thục, khéo léo thì trở thành kỹ xảo”
Hay theo Nguyễn Đình Chỉnh, Kỹ năng là thao tác đơn giản hoặc phức tạp mang tính
nhận thức hoặc mang tính hoạt động chân tay, nhằm thu được một kết quả
Mỗi kỹ năng chỉ được biểu hiện thông qua một nội dung, tác động của kỹ năng lên nội
dung ta đạt được mục tiêu.Như vậy, Mục tiêu = Kỹ năng x Nội dung
Tóm lại, Kỹ năng là hệ thống các thao tác, các hành động phức hợp của một hoạt động,
là năng lực vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt động nhằm thực hiện có kết quả
một kiểu nhiệm vụ về lý luận hay thực tiễn
1.1.1.2 Kỹ năng diễn đạt nội dung: Là thao tác biến dạng ngôn ngữ này thành dạng ngôn
ngữ khác hợp quy luật. Để thực hiện tốt kỹ năng diễn đạt nội dung cần chuẩn bị tốt các kỹ
năng sau:
- Kỹ năng phân tích – tổng hợp
Phân tích là sự phân chia trong tư duy đối tượng hay hiện tượng thành những yếu tố
hợp thành, các dấu hiệu, các đặc tính riêng biệt của đối tượng hay hiện tượng đó thành những
yếu tố nhỏ hơn hoặc những mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận, quan hệ giống loài nhằm
tìm kiếm bản chất của chúng.
Trong dạy học vấn đề hình thành kỹ năng phân tích cho học sinh cần phải được coi
trọng. Tùy đặc điểm từng môn học và nhiệm vụ học tập cụ thể, các giáo viên đã đề ra những
yêu cầu phân tích khác nhau. Nhưng mục đích chủ yếu của việc rèn luyện kỹ năng phân tích là
hình thành ở các em thói quen tìm hiểu sự vật, hiện tượng có chiều sâu, nhằm nắm được bản
chất của đối tượng nghiên cứu, cho nên nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động phân tích trước hết là
nắm được cấu trúc của đối tượng, nghĩa là:
4
• Xác định các yếu tố tạo thành đối tượng.
• Tìm mối liên hệ giữa các yếu tố đó.
• Yếu tố trung tâm, yếu tố điều khiển của hệ thống nằm ở đâu?
• Hoạt động trong những môi trường nào, điều kiện nào?
Trên cơ sở đó mà xác định được tính chất, mâu thuẫn nội tại, động lực phát triển và các
vấn đề khác.
Tổng hợp là sự kết hợp trong tư duy các yếu tố, các thành phần của sự vật hay hiện
tượng trong một chỉnh thể. Trong thực tế mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại đồng thời các yếu
tố cũng như các mặt khác nhau tác động lẫn nhau. Để nhận thức đầy đủ sự vật, hiện tượng,
con người thường bắt đầu xem xét từ một tổng thể toàn vẹn, nghĩa là tổng hợp sơ bộ, sau đó
mới phân tích từng yếu tố, cuối cùng tổng hợp cao hơn, đầy đủ hơn.
Rèn luyện kỹ năng tổng hợp nhằm giúp học sinh sắp xếp những số liệu, những sự kiện
lộn xộn, rời rạc và đa dạng mà các em thu thập được qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực
tiễn thành những sự vật, những hiện tượng, những quá trình hoàn chỉnh, thống nhất.
Phân tích và tổng hợp là hai mặt của một quá trình tư duy thống nhất có sự liên hệ mật
thiết với nhau. Tổng hợp sơ bộ ban đầu cho ta ấn tượng chung về đối tượng nhờ đó mà xác
định được phương hướng phân tích cho đối tượng. Từ sự phân tích đối tượng sẽ giúp ta có một
nhận thức đầy đủ hơn về đối tượng, phân tích càng sâu thì sự tổng hợp cuối cùng càng cao,
càng đầy đủ. Sự tổng hợp hoàn chỉnh sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của sự phân tích tiếp theo.
Cứ như vậy, nhận thức ngày càng tiến sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Phân tích và tổng hợp trong Sinh học thường được dùng để phân tích cấu tạo cơ quan,
hệ cơ quan, cơ thể…; phân tích cơ chế, quá trình sinh học.
Phân tích và tổng hợp có các hình thức diễn đạt sau:
• Diễn đạt bằng lời.
• Diễn đạt bằng sơ đồ phân tích: Diễn đạt một cách trực quan bằng sơ đồ logic với
nguyên tắc cái toàn thể được chia nhỏ thành các bộ phận. Phép chia ấy được biểu diễn
bằng mũi tên.
• Phân tích bằng bảng hệ thống: Hình thức này vừa thể hiện được sự phân tích qua việc
đặt tên gọi các cột, vừa thể hiện được sự tổng hợp thông qua việc trình bày chúng ở các
5
ô, các cột, các dòng tương ứng. Hình thức này giúp chúng ta hệ thống các kiến thức và
đặc biệt là rất hiệu quả cho việc thực hiện biện pháp so sánh.
• Diễn đạt dưới dạng tranh sơ đồ: Tranh sơ đồ là một hình vẽ sơ lược thể hiện những nét
chính của đối tượng, hiện tượng.
- Kỹ năng so sánh
Trong nhận thức cùng với sự hiểu biết sự vật, hiện tượng là cái gì và như thế nào, còn phải
hiểu được sự vật, hiện tượng này không giống sự vật, hiện tượng khác ở chỗ nào thì phải sử
dụng đến phương pháp so sánh.
So sánh là sự phân tích những điểm giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng nhằm
phân loại sự vật, hiện tượng thành những loại khác nhau. Tùy mục đích mà phương pháp so
sánh có thể nặng về tìm sự giống nhau hay sự khác nhau. So sánh điểm khác nhau chủ yếu
dùng trong phân tích, so sánh điểm giống nhau thường dùng trong tổng hợp.
Qua sự so sánh giúp học sinh phân biệt, hệ thống hóa và củng cố các khái niệm đồng
thời so sánh là một thao tác tư duy rất quan trọng giúp học sinh tìm ra cái mới.
Các hình thức diễn đạt so sánh: Diễn đạt so sánh bằng lời, diễn đạt so sánh bằng bảng
hệ thống hay bảng phân tích, diễn đạt so sánh bằng tranh sơ đồ, diễn đạt so sánh bằng biểu đồ,
diễn đạt so sánh bằng sơ đồ logic.
- Kỹ năng hệ thống hóa:
Hệ thống hóa: Là biện pháp sắp xếp các thông tin về các đối tượng, hiện tượng nghiên
cứu theo một logic được chỉnh thể hóa theo một quan điểm nhất định nhờ đó phản ánh được
đầy đủ về đối tượng đó.
Theo Từ điển Tiếng Việt, hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng
chức năng có quan hệ với nhau chặt chẽ làm thành một thể thống nhất. Hệ thống hóa là làm
cho lớp sự vật hiện tượng trở nên hệ thống.
Hệ thống hóa chỉ thực hiện được trên cơ sở thông tin được xử lý qua phân tích, tổng
hợp. Hệ thống hóa có thể diễn đạt bằng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau: bảng, sơ đồ logic
dạng bản đồ khái niệm, sơ đồ hình vẽ, phim, song bảng và sơ đồ logic dạng bản khái niệm là
hình thức phổ biến, đặc trưng nhất.
- Kỹ năng khái quát hóa:
6
Khái quát hóa là hoạt động trí tuệ cấp cao nhằm gom các đối tượng có cùng thuộc tính
và bản chất vào một nhóm, là quá trình chuyển từ cái đơn nhất lên cái chung
Sự khái quát hóa giữ vai trò chủ yếu trong khi hình thành các khái niệm mới. Ở học
sinh, khái quát hóa diễn ra trên cơ sở phân tích, so sánh
Người ta phân biệt các hình thức sau đây của khái quát hóa:
• Sơ bộ: Diễn ra khi tri giác tài liệu mới, kết quả là hình thành biểu tượng chung về đối
tượng nghiên cứu.
• Cục bộ: Khi phát hiện ra bản chất bên trong của đối tượng nghiên cứu, dẫn tới việc
hình thành khái niệm cục bộ, tức là khái niệm riêng rẽ.
• Chuyên đề: Dẫn tới việc lĩnh hội một hệ thống khái niệm về những đối tượng cùng loại.
• Tổng kết: Khi hình thành hệ thống những khái niệm thuộc về một môn học.
• Liên môn: Nhờ đó mà lĩnh hội một hệ thống khái niệm giữa các môn.
Kỹ năng khái quát hóa ở mỗi học sinh luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập.
Khi được phát triển tới mức cao độ, chính kỹ năng này sẽ giúp học sinh tách được cái chung,
cái bản chất, những mối liên hệ bên trong mang tính quy luật của tài liệu nghiên cứu, học tập
bằng con đường phân tích chỉ một sự vật, hiện tượng điển hình mà thôi. Bằng cách đó, học
sinh sẽ tiết kiệm được sức lực, thời gian học tập của mình, biết khám phá các tri thức khoa học
bằng phương pháp tối ưu.
- Kỹ năng suy luận:
Suy luận là hình thức của tư duy nhờ đó rút ra phán đoán mới từ một hay nhiều phán
đoán theo các quy tắc logic xác định.
Bất kỳ suy luận nào cũng gồm tiền đề, kết luận và lập luận. Tiền đề (còn gọi là phán
đoán xuất phát) là phán đoán chân thực từ đó rút ra phán đoán mới. Kết luận là phán đoán mới
thu được bằng con đường logic từ các tiền đề. Cách thức logic rút ra kết luận từ các tiền đề gọi
là lập luận.
Quan hệ suy diễn logic giữa các tiền đề và kết luận được quy định bởi mối liên hệ giữa
các tiền đề về mặt nội dung. Nếu các phán đoán không có liên hệ về mặt nội dung thì không
thể lập luận để rút ra kết luận.
Căn cứ vào cách thức lập luận, suy luận được chia ra thành suy luận suy diễn và suy
luận quy nạp. Suy luận suy diễn là suy luận trong đó lập luận từ cái chung đến cái riêng, cái
7
đơn nhất. Suy luận quy nạp là suy luận trong đó lập luận từ cái riêng, cái đơn nhất đến cái
chung.
Khi học sinh được trang bị kỹ năng suy luận, học sinh có thể thu được tri thức mới từ
các tri thức đã biết nhờ suy luận.
1.1.2 Vai trò của kỹ năng diễn đạt nội dung:
- Hình thành văn hóa ngôn ngữ: Đây là một dạng văn hóa quan trọng trong khoa học và đời
sống. Cách thể hiện phong phú một vấn đề giúp khơi dậy sự hứng thú ở người tiếp nhận thông
tin bởi lẽ ngôn ngữ là lớp vỏ của nội dung.
- Hình thành văn hóa diễn đạt ý tưởng: Mỗi dạng ngôn ngữ mang một thế mạnh riêng, vận
dụng ngôn ngữ phù hợp để diễn đạt cho một ý tưởng giúp người tiếp nhận thông tin dễ hiểu,
dễ nhớ.
- Hình thành văn hóa đọc sách: Khi đọc sách nếu không biết sử dụng các dạng ngôn ngữ để
tổng kết và ghi nhớ những nội dung cốt lõi thì khó thu nhận thông tin một cách nhanh chóng
và hiệu quả.
- Đối với quá trình dạy học:
• Đây là một biện pháp để tích cực hóa hoạt động nhận thức, là con đường tư duy mới
hình thành tri thức, dạy học sử dụng biện pháp này sẽ đảm bảo được chủ trương đổi
mới phương pháp dạy học.
• Kỹ năng diễn đạt nội dung khoa học vừ là tri thức vừa là phẩm chất năng lực tự học của
học sinh. Diễn đạt nội dung khoa học bằng ngôn ngữ hợp lý là mức độ cao của tri thức.
• Vận dụng các biện pháp diễn đạt nội dung để tổ chức cho học sinh lĩnh hội các kiến
thức một cách nhanh chóng và trọn vẹn một vấn đề, hiểu vấn đề trong một chỉnh thể, hệ
thống.
• Có thể dùng biện pháp này để kiểm tra chất lượng thông hiểu tài liệu giáo khoa. Đạt
được kỹ năng này, tài liệu trở thành đối tượng sở hữu của học sinh.
1.1.3 Nội dung chương trình sách giáo khoa Sinh học 10
Sách giáo khoa Sinh học 10 mới thực chất là sinh học tế bào. Điều này đáp ứng mục tiêu
xây dựng chương trình sinh học trung học phổ thông thể hiện tính khái quát hóa về hệ thống
sống như là một hệ thống mở có tổ chức cao theo cấp bậc lệ thuộc từ thấp đến cao: Lớp 10:
sinh học tế bào; lớp 11: sinh học cơ thể; lớp 12: sinh học quần thể - loài, quần xã, hệ sinh thái
– sinh quyển. Quan điểm này thể hiện tính cơ bản và hiện đại của sinh học hiện nay.
8
Sách giáo khoa sinh học 10 được xây dựng trên quan điểm cấu trúc luôn đi đôi với chức
năng thể hiện ở tất cả các cấp độ tổ chức và được xây dựng trên quan điểm tiến hóa. Mỗi cấu
trúc, chức năng, hiện tượng, cơ chế đều thể hiện quá trình tiến hóa qua lịch sử phát sinh và
phát triển của sinh vật thể hiện ở cấp độ tổ chức tế bào.
Lớp 10 là lớp đầu cấp cho nên sách giáo khoa đã dành ra 2 bài để khái quát hóa các kiến
thức ở cấp trung học cơ sở, vừa có tính ôn tập, củng cố kiến thức trung học cơ sở, vừa là cơ sở
để học sinh dễ dàng tiếp thu các kiến thức mới của cấp trung học phổ thông. Đồng thời là cơ
sở cho các kiến thức ở lớp 11 và 12 về các cấp độ tổ chức cao hơn. Sinh học 10 chủ yếu đề
cập đến sinh học tế bào nhưng có phần sinh học Vi sinh vật, có thể xem đây là dạng trung gian
giữa cấp tế bào và cấp cơ thể.
1.1.4 Vai trò của sách giáo khoa:
Nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã khẳng định vai trò của sách cũng như SGK như sau:
- N.A.Môrôdôp: “Sách thật là kỳ diệu. Sách đã biến đổi thế giới,sách chứa đựng trí nhớ của
loài người, sách là cái loa của tư tưởng loài người, thế giới mà không có sách thì đó là thế giới
của rừng”
- Prenxit Bêcơn: “Sách là con thuyền tư tưởng lênh đênh trên mặt sóng thời gian, nâng niu chở
thứ tái vật quý giá của nó từ thế hệ này sang thế hệ khác”.
- Rơ -nê Đê – Cac: “Đọc mọi sách tốt khác nào trao đổi ý kiến với các nhân vật ưu tú của các
thế kỉ đã qua, và hơn thế nữa, cuộc trao đổi đặc biệt bổ ích vì những con người ưu tú này chỉ
thông báo cho chúng ta những tư tưởng cao quý của mình”
- V.I Lênin : “Sách là một sức mạnh to lớn”.
- Nhưng để cho sách trở thành những phương tiện có hiệu quả giúp cho sự phát triển của trí
tuệ và sự phong phú tinh thần của con người thì cần phải biết cách đọc sách. Cũng như Đ.I Pi-
ra-xép đã nhận xét rằng : “Sách chỉ bổ ích với những người biết cách đọc”.
Trong hoạt động dạy học, SGK được xem là một trong những phương tiện hỗ trợ đắc lực
nhất khi dạy học trên lớp, SGK được xem là tài liệu chính thống quan trọng nhất đối với giáo
viên và học sinh:
- Đối với học sinh: SGK để:
• Học sinh ôn bài.
• Học sinh học thuộc và tra cứu chính xác số liệu, định nghĩa, định lý, công thức, các sự
kiện.
9
• Học sinh khái quát hóa các nội dung cho từng mục, từng bài theo chủ đề.
• Học sinh hệ thống hóa nội dung theo quan điểm nhất định.
• Học sinh gia công tài liệu trong sách nhằm giải quyết một vấn đề nào đó.
- Đối với giáo viên:
• Là nguồn thông báo quan trọng nhất thông tin khoa học cho học sinh.
• Là công cụ giúp cho giáo viên biến sự tường minh trong sách thành cái chưa tường
minh để dạy học. Nghĩa là, sách là nguồn thông tin để giáo viên xây dựng các tình
huống để tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Thực trạng việc học của học sinh học ở trường THPT hiện nay
+ HS rất thích học môn sinh học vì kiến thức môn học mang lại sự hiểu biết về thực tiễn cuộc
sống và giải thích được nhiều hiện tượng xảy ra trên cơ thể thực vật, động vật và con người.
+ Tuy là đa số HS rất thích học, song một số HS vẫn không có hứng thú học tập và một số
đông HS chán nản, thờ ơ, trông cho hết giờ vì một số nguyên nhân sau
• Lượng kiến thức nhiều, khó tiếp thu, khó học.
• Ít tiếp xúc thực tế, không được thực hành thường xuyên.
• Bài tập chưa nắm bắt được.
• Thiết bị học sinh học còn hạn chế và thiếu thốn nhiều.
1.2.2 Thực trạng về phương pháp dạy học của giáo viên
- GV ít sử dụng phương pháp dạy khơi dậy óc tư duy sáng tạo, tự học, tự nghiên cứu của học
sinh mà chủ yếu thuyết trình nội dung SGK.
- Đời sống GV còn khó khăn, một số GV không toàn tâm toàn ý phục vụ giảng dạy.
- GV ít giải những câu hỏi và bài tập SGK cho HS, ít đưa thêm những câu hỏi liên hệ thực tế.
1.2.3 Nguyên nhân của những thực trạng trên:
- Thuận lợi: SGK có nhiều hình ảnh minh họa minh họa rõ ràng, sinh động; SGK có phần mở
rộng cho mỗi bài, có tính giáo dục và ứng dụng nhiều vào thực tiễn.
- Khó khăn: Nội dung kiến thức trong 1 tiết quá nhiều, thường dạy không kịp giờ, không đủ
thời gian giải thích cho HS hiểu rõ vấn đề; Phần tái hiện kiến thức đã học ở chương trình cấp 2
gặp khó khăn vì đa số HS đã quên kiến thức cũ; Lượng kiến thức quá nặng so với trình độ học
sinh lớp 10.
10