Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

(Luận văn thạc sĩ file word) Nghiên cứu đề xuất giải pháp quy hoạch khu nuôi trồng thủy sản vùng trũng tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 116 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam Đồng bằng sơng Hồng, với địa hình đa
dạng ( địa hình biển, ven biển, đồng bằng, gò đồi, bán sơn địa, núi đất, núi đá vơi),
Ninh Bình có nhiều cảnh quan du lịch, di tích lịch sử như vườn quốc gia Cúc
Phương, khu hang động Tam Cốc-Bích Động, Địch Lộng, đền vua Đinh Lê, nhà
thờ Phát Diệm, Chùa Non Nước, Khu du lich Tràng An…, có vị trí địa lý thuận lợi
trong giao thương với Thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Ninh Bình có điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế tổng hợp bao gồm
các ngành Công nghiệp, dịch vụ-du lịch, nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng
thuỷ sản. Tuy nhiên trong thời gian qua các tiềm năng này của Ninh Bình chưa
được phát huy và mang lại hiệu quả cao.
Huyện Nho Quan nằm ở phía Tây-Nam của tỉnh, cũng như những vùng
chiêm trũng khác, thuộc khu phân lũ của sơng Hồng Long. Đời sống nhân dân cịn
rất nhiều khó khăn do sản xuất nơng nghiệp bấp bênh. Ngành nuôi trồng thuỷ sản
nước ngọt tại huyện Nho Quan nói riêng và Ninh Bình nói chung mới chỉ mang tính
chất tận dụng các loại hình mặt nước sẵn có như ao, hồ nhỏ, các khu ruộng trũng
ngập nước và sông suối tự nhiên mặc dù đã hình thành từ lâu đời.
Thực tế tiềm năng diện tích ruộng trũng có thể chuyển đổi sang ni
trồng thuỷ sản của tỉnh là rất lớn, tiểm năng này vẫn chưa được khai thác một
cách tương xứng. Nguyên nhân là do việc chuyển đổi các diện tích ruộng
trũng sang ni trồng thuỷ sản hiện nay vẫn mang tính tự phát và thiếu các
quy hoạch chuyển đổi phù hợp nên hệ thống cơ sở hạ tầng của các vùng nuôi
được chuyển đổi hầu như chưa có, hệ thống ao ni được thiết kế quá đơn
giản. Qua khảo sát cho thấy người dân thường tận dụng ngay bờ ruộng cũ để
làm bờ ngăn, do vậy thường xuyên bị rò rỉ mất nước, chiều cao bờ thấp rất
khó khăn trong ni trồng nhất là mùa mưa lũ.Điểm quan trọng nữa là hệ
thống xử lý cấp và thoát nước thải vẫn chưa được đề cập đến nuôi trồng thuỷ
sản mà chủ yếu phục vụ mục đích nơng nghiệp là chính.



Làm thế nào để người dân vùng chiêm trũng có được cuộc sống ổn định và
sản xuất đạt hiệu quả cao thoát khỏi cảnh nghèo là một vần đề hết sức cần thiết và
cấp bách. Chủ trương phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Ninh Bình định hướng sớm
thốt khỏi tình trạng thu nhập thấp và từng bước rút ngắn khoảng cách về GDP
trên đầu người so với cả nước, trên cơ sở khai thác tiềm năng, nguồn lực và tiềm
lực của tỉnh. Trong đó đẩy mạnh phát triển ni trồng thuỷ sản vùng ruộng trũng là
một trong những chủ trương được ưu tiên hàng đầu của tỉnh.
Ba xã Quỳnh Lưu, xã Phú Lộc, xã Sơn Thành thuộc huyện Nho Quan có
diện tích ruộng trũng rất lớn chỉ cấy được một vụ chiêm, còn vụ mùa đất để
hoang. Đây là mặt hạn chế trong sản xuất nơng nghiệp nhưng lại có thế mạnh
trong việc chuyển đổi sang canh tác kết hợp phát triển việc nuôi cá trong
ruộng lúa. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, do nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng chưa có nên chưa hình thành được những vùng nuôi lớn, phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng của vùng. Hệ thống kênh mương trong vùng chưa hồn
chỉnh, chưa liên thơng thuận tiện, chất lượng đào đắp chưa cao và lại ít có kinh phí
tu sửa nạo vét cho nên rất hạn chế trong việc cung cấp, thốt nước ni trồng thuỷ
sản và tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Qua khảo sát các trục kênh đều bị
bồi lắng và khả năng chuyển tải nước kém. Trên kênh chưa có các hệ thống cống
điều tiết, cống lấy nước vì vậy việc phân phối nước cho hệ thống gặp rất nhiều khó
khăn.
Trong những năm vừa qua, một số người dân địa phương đã tự đầu tư
đắp bờ, nạo vét kênh để nuôi thuỷ sản, nhưng nguồn kinh phí cịn hạn chế nên
chưa đồng bộ và có nhiều vùng đã xuống cấp; do vậy nhiều vùng nuôi không được
quản lý theo quy trình, năng suất thấp, và rất nhiều rủi ro cho người ni. Vì vậy
để phát triển nuôi trồng thuỷ sản một cách bền vững, phát huy thế mạnh của
vùng thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản là vô cùng
cấp bách và cần thiết. Đây là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh
tế vùng.



Chính vì vậy, đề tài : “Nghiên cứu đề xuất giải pháp quy hoạch khu
nuôi trồng thủy sản vùng trũng tỉnh Ninh Bình” là cấp thiết, sẽ tập trung
giải quyết được các vấn đề cho nuôi trồng thủy sản, nhằm đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi sản xuất và phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao đời sống
của nhân dân, góp phần ổn định chính trị xã hội và an ninh quốc phịng.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Nghiên cứu hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi đáp ứng được nhu cầu nước
cho vùng ni trồng thủy sản kết hợp. Từ đó hình thành vùng nuôi tập trung
quy mô khoảng 530 ha tại 03 xã Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Thành thuộc
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình phục vụ cho hình thức ni trồng thuỷ sản
quảng canh cải tiến chủ lực là nuôi cá rơ phi đơn tính ghép với các đối tượng
là cá truyền thống, năng suất đạt từ (3,0 đến 3,3) tấn/ha/vụ, tạo nguồn nguyên
liệu phục vụ xuất khẩu thuỷ sản.
- Nghiên cứu chất lượng môi trường nước tại khu nuôi tập trung, đánh giá
được chất lượng nước cấp cho vùng nuôi trồng thủy sản từ đó đề xuất biện
pháp cơng trình và phi cơng trình để đảm bảo chất lượng nước theo định
hướng phát triển bền vững.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Quy hoạch khu nuôi trồng thủy sản vùng trũng
tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu: 03 xã Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Thành thuộc
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.1. Nội dung nghiên cứu
- Đề xuất các giải pháp thủy lợi để đáp ứng đủ cho vùng quy hoạch tập
trung nuôi trồng thủy sản tại 03 xã Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Thành thuộc
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.



- Đánh giá môi trường nước ảnh hưởng đến việc ni trồng thủy sản
của vùng nghiên cứu từ đó đưa ra các phương án bảo vệ môi trường định
hướng phát triển bền vững.
3.2. Phương pháp tiếp cận
a. Tiếp cận tổng hợp:
Xem khu vực nghiên cứu là 03 xã Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Thành
thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, trong đó các điều kiện cấu thành hệ
thống gồm: địa hình, địa chất, khí hậu, nước, sinh vật, con người, phương thức
quản lý, khai thác .v.v…, là các thành phần của hệ tương tác có quan hệ ràng
buộc, tácđộng lẫn nhau.
b. Tiếp cận hệ kinh tế – sinh thái – môi trường:
Mục tiêu cơ bản của việc quy hoạch tài nguyên nước là quản lý, khai
thác và sử dụng tài nguyên phục vụ lợi ích con người và phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, việc khai thác tài nguyên sẽ tác động tới hệ sinh thái và mơi trường.
Vì vậy cách tiếp cận này bảo đảm nguyên tắc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường và đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Đặc biệt với
vùng nghiên cứu là vùng nuôi trồng thủy sản và đối tượng nuôi chủ lực là cá rô
phi nên nước thải ra rất ảnh hưởng đến môi trường xung quanh nếu khơng có biện
pháp xử lý.
c. Tiếp cận tích hợp thơng tin (ảnh viễn thám, bản đồ và hệ thống
GIS):
Vùng nghiên cứu có cấu trúc địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên biến động.
Do vậy để nắm bắt thông tin cập nhật về tài nguyên về đất, nước phục vụ cơng tác
nghiên cứu địi hỏi phải tích hợp các thơng tin như ảnh vệ tinh; khai thác bản đồ
chuyên ngành ( bản đồ sử dụng đất, bản đồ về các vị trí khai thác nước ngầm, bản
đồ các vùng dân cư, đường xá...) và so sánh, đối chiếu với tài liệu khảo sát mặt
đất.



d. Tiếp cận kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu và tiếp thu
công nghệ:
+ Tiếp cận các kết quả nghiên cứu về tài nguyên nước vùng trũng thuộc
khu phân lũ của sơng Hồng Long để ứng dụng vào điều kiện cụ thể của vùng
nghiên cứu.
+ Sử dụng các công cụ tiên tiến để triển khai thực hiện đề tài như: Sử
dụng các phần mềm tính tốn để phục vụ cơng tác tính tốn, dự báo diễn biến
nguồn nước tại vùng nghiên cứu .
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp kế thừa;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu;
- Phương pháp phân tích, xử lý, đánh giá số liệu;
- Phương pháp sử dụng mơ hình tốn.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình nằm ở phía Tây bắc tỉnh Ninh Bình, Phía
Bắc giáp tỉnh Hà Nam với diện tích tự nhiên gần 460 km2, gồm có thị trấn Nho
Quan và 26 xã.
- Phía Bắc giáp các huyện Yên Thủy và Lạc Thủy tỉnh Hịa Bình
- Phía Đơng giáp các huyện Gia Viễn, Hoa Lư
- Phía Tây giáp huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa
- Phía Nam giáp với thị xã Tam Điệp.

Hình 1.1: Vị trí địa lý tỉnh Ninh Bình



Hình 1.2: Vị trí địa lý của huyện Nho Quan trong tỉnh Ninh Bình
Nho Quan có dịng sơng Bơi nối với sơng Hồng Long ra sơng Đáy. Ngồi
ra cịn có sơng Lạng và sơng Bến Đang. Huyện có quốc lộ 12B, 45, tỉnh lộ 438,
477, 492 chạy qua. Vùng quy hoạch cách thủ đô Hà Nội khoảng 90km nằm trên
trục quốc lộ 1 A, là tuyến giao thông xuyên Bắc Nam cùng với các tỉnh lộ,
huyện lộ và hệ thống sơng Ngịi đã tạo cho vùng quy hoạch một vị trí thuận lợi
trong việc giao lưu, tiếp cận với các tỉnh trên cả nước đặc biệt là Hà Nội.


Vùng nghiên
cứu

Hình 1.3. Vị trí địa lý vùng nghiên cứu
a. Xã Quỳnh Lưu
Quỳnh Lưu là một xã miền núi nằm ở phía nam huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình. Xã này nằm trên Quốc lộ 12B nối thị xã Tam Điệp với thị trấn Nho
Quan đi các tỉnh Hịa Bình, Sơn La đồng thời cũng là điểm cuối của Quốc lộ
38B nối tới thành phố Hải Dương. Xã cũng có Đại lộ Tràng An (đường nối
chùa Bái Đính - Cúc Phương) đi qua. Trụ sở xã cách trung tâm thành phố Ninh
Bình 24 km. Xã này xưa là quê hương của anh hùng Lương Văn Tụy. Đây
cũng là xã được công nhận Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở Ninh Bình,
được coi là quê hương của cách mạng Ninh Bình. Theo đề án điều chỉnh quy
hoạch tổng thể hệ thống đơ thị đến năm 2030, tầm nhìn 2050 của tỉnh Ninh Bình
thì xã này được quy hoạch thành đơ thị tại ngã ba Anh Trỗi.
+ Diện tích: 16,92 km²
+ Dân số: 7622 người


+ Mật độ dân số: 450 người/km²

Địa giới hành chính, xã này nằm giáp các xã:
+ Phía đơng giáp xã Sơn Lai, Nho Quan
+ Phía nam giáp các xã Sơn Hà và Quảng Lạc, Nho Quan
+ Phía tây giáp các xã Phú Long và Phú Lộc, Nho Quan
+ Phía bắc giáp xã Sơn Thành, Nho Quan
b. Xã Phú Lộc
Phú Lộc là một xã miền núi nằm ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Được
thành lập theo quyết định số 199/QN ngày 22/7/1964 trên cơ sở tách từ xã Yên
Phú. Xã này nằm trên quốc lộ 12B nối thị xã Tam Điệp với thị trấn Nho Quan đi
các tỉnh Hịa Bình, Sơn La và quốc lộ 45 đi Thanh Hóa, ngã ba Rịa là một nút giao
thông trong xã. Xã cũng nằm trên Đại lộ Tràng An (đường nối chùa Bái Đính Cúc Phương) đi qua. Trụ sở xã cách trung tâm thành phố Ninh Bình 24 km. Theo
đề án điều chỉnh quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị đến năm 2030, tầm nhìn 2050
của tỉnh Ninh Bình thì xã này được quy hoạch thành đơ thị Rịa.
+ Diện tích: 9,55 km²
+ Dân số: 5975 người
+ Mật độ dân số: 626 người/km²
Địa giới hành chính, xã này nằm giáp các xã:
+ Phía đơng giáp xã Quỳnh Lưu, Nho Quan
+ Phía nam giáp các xã Phú Long, Kỳ Phú huyện Nho Quan
+ Phía tây giáp xã Văn Phú huyện Nho Quan
+ Phía bắc giáp các xã Thanh Lạc và Sơn Thành huyện Nho Quan
Hiện nay có một đơn vị bộ đội là Trung đồn 202 đóng qn trên địa bàn xã
Phú Lộc.
Phú Lộc là một trong 5 xã của huyện Nho Quan được chọn xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2011-2015. Đối chiếu với bộ tiêu chí Quốc gia về XDNTM


thì đến 2011 Phú Lộc mới chỉ đạt 2 trong tổng số 19 tiêu chí. Việc XDNTM ở Phú
Lộc gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng. Hơn 8 km đường trục xã
xuống cấp; tỷ lệ đường liên thơn, liên xóm cứng hóa chỉ đạt khoảng 10%. Hệ

thống kênh mương, đường giao thông nội đồng phần lớn chưa được kiên cố hóa.
Trường Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung hoc phổ thông tuy đã đạt chuẩn Quốc
gia giai đoạn 1 song vẫn chưa đạt u cầu của bộ tiêu chí Quốc gia nơng thơn mới.
Trạm y tế xã đã được xây dựng từ lâu, cơ sở vật chất thiếu thốn, nghèo nàn. Việc
bố trí sắp xếp khu dân cư của xã không đồng đều, kiến trúc nhà ở lộn xộn, chắp vá,
thiếu hệ thống tiêu, thoát nước…
Mục tiêu xã là tăng thu nhập của người dân lên gấp 4 lần, giảm tỷ lệ hộ nghèo
từ 12% xuống dưới 6% và chuyển dịch cơ cấu lao động từ 80% nông nghiệp
xuống 30% vào năm 2015.
Người dân Phú Lộc sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa trong khi diện tích
canh tác tồn xã chỉ có gần 500 ha, trong đó trên 200 ha vùng trũng cấy 1 vụ lúa.
Giá trị kinh tế trên một đơn vị canh tác của xã hiện mới đạt 33 triệu đồng/ha.
Trong khi đó xã gần như khơng có nghề phụ, tồn xã chỉ có 10 doanh nghiệp xây
dựng, 1 cơ sở may công nghiệp với số lượng công nhân không nhiều.
Hiện nay xã đã chuyển đổi 250 ha cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi cá-lúa nâng
cao thu nhập. Bên cạnh đó xã tập trung vào việc phát triển 20 ha trồng rau sạch,
khuyến khích người dân chăn ni các cây, con đặc sản. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của các HTX, tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp, dịch vụ phát triển trên
địa bàn nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản, thực
phẩm sử dụng nhiều lao động.
c. Xã Sơn Thành
Sơn Thành là một xã nằm ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Được thành lập
theo quyết định số 199/QN ngày 22/7/1964 trên cơ sở tách từ xã Thành Công. Trụ
sở xã cách trung tâm thành phố Ninh Bình 23 km.


+ Diện tích: 5,60 km²
+ Dân số: 3183 người
+ Mật độ dân số: 568 người/km²
Địa giới hành chính, xã này nằm giáp các xã:

+ Phía đơng giáp xã Sơn Lai, Nho Quan
+ Phía nam giáp các xã Quỳnh Lưu và Phú Lộc huyện Nho Quan
+ Phía tây giáp xã Thanh Lạc, Nho Quan
+ Phía bắc giáp các xã Gia Phong và Gia Minh huyện Gia Viễn
Xã Sơn Thành có chợ Lam, là 1 trong 9 chợ quê trên địa bàn Nho Quan nằm
trong danh sách 107 chợ loại 1, 2, 3 ở Ninh Bình năm 2008.
1.1.2. Địa hình
Huyện Nho Quan là huyện nằm trong khu vực tiếp giáp giữa vùng ĐBSH và
vùng Bắc Trung bộ, vùng quy hoạch có địa hình khá phức tạp mang tính chất đặc
trưng của vùng núi cao và vùng bán sơn địa. Đồng thời đây cũng là vùng đất trũng
nằm trong khu vực phân lũ phía Nam đồng bằng sơng Hồng. Địa hình của vùng
Quy hoạch mang đặc điểm của ba vùng rõ rệt nhất.
a. Vùng núi cao
Là vùng có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại với
các loại cây trồng và cây ăn quả đồng thời cũng là vùng có điều kiện thuận lợi để
phát triển chăn ni các loại đại gia súc và các loại con nuôi đặc sản.
b. Vùng bán sơnđịa
Vùng này có nhiều tiềm năng phát triển du lịch và công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng.
c. Vùng đồng bằng
Vùng này có nhiều thuận lợi để phát triển nông nghiệp trồng lúa, màu và
các cây công nghiệp ngắn ngày.


d. Vùng đồng chiêm trũng
Đây là vùng mang đầy đủ các nét đặc trưng của vùng chiêm trũng đồng
bằng sông Hồng, sản xuất nơng nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và luôn bị tác
động lớn của thiên tai lũ lụt làm mất mùa. Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn.
Vùng chiêm trũng có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển ngành thủy sản.
1.1.3. Khí hậu

Vùng quy hoạch mang những đặc điểm khí hậu của tiểu vùng đồng bằng
sơng Hồng mùa hè nắng nóng mưa nhiều đầu vụ có những đợt gió Tây Nam khơ
nóng gay gắt, mùa đơng lạnh và ít mưa.
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm là 23,20C, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 39 0C, nhiệt độ
tối thấp tuyệt đối 6 0C. Tổng nhiệt độ trung bình năm trên 8.500 0C. Số tháng có
nhiệt độ trung bình trên 200C là 8-9 tháng. Sự phân chia mùa tương đối rõ rệt. Mùa
lạnh bắt đầu từ cuối tháng 9 đầu tháng 10 và kéo dài tới cuối tháng 3. Nhiệt độ
trung bình các tháng mùa đơng dưới 20 0C, tối thấp dưới 150C. Tuy nhiên, trong
những tháng lạnh nhất cũng có ngày nhiệt độ trung bình trên 200C, tối cao trên
250C giống những ngày thời tiết của của mùa nóng. Mùa nóng bắt đầu từ cuối
tháng 4 đầu tháng 5 và kết thúc khoảng trung tuần tháng 10.
b. Chế độ mưa
Tổng lượng mưa trung bình năm từ 1800 đến 1950mm, lượng mưa tập
trung vào 6 tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm từ 80 đến 85% tổng
lượng mưa cả năm. Lũ lụt cũng thường xảy ra vào thời điểm này. Về mùa khô,
lượng mưa rất thấp chỉ chiếm khoảng 15 đến 20% tổng lượng mưa năm. Thời
gian mưa nhiều nhất từ tháng 7 đến 9, lượng mưa lớn nhất là 297,6mm (tháng
9).


c. Độ ẩm
Độ ẩm khơng khí trung bình năm là 83%, độ ẩm tương đối cao là 90%, độ
ẩm tương đối thấp là 70%. Giữa tháng có ẩm độ lớn nhất 91% (tháng 2) và nhỏ
nhất 80% (tháng 10) chênh lệch khơng nhiều. Vào nửa sau của mùa đơng thường
có mưa phùn trong nhiều ngày đã duy trì tình trạng ẩm ướt thường xun. Do đó,
mùa đơng ở đây khơng phải là mùa khơ mà là mùa ít mưa, có thời kỳ độ ẩm cao
tới 82%.
d. Lượng bốc hơi
Lượng bốc hơi trung bình cả năm từ 850 – 870mm. Trong đó mùa hè chiếm

60% lượng bốc hơi cả năm. Lượng bốc hơi lớn nhất là 105 mm vào tháng 7, trong
đó tháng 2 có lượng bốc hơi nhỏ nhất là 45mm.
e. Số giờ nắng
Số giờ nắng bình quân trung bình trong năm 1631 giờ/năm. Tổng lượng bức
xạ 95-125 kcal/ cm2/ năm. Tháng có lượng bức xạ lớn nhất là tháng 5-12 kcal/cm2/
tháng. Mức năng lượng hiệu dụng có thể thu được từ mặt trời hàng năm rất lớn,
tạo phát triển mạnh mẽ của sinh vật, nhất là thực vật. Vì vậy, mùa màng có thể
quay vịng 2-3 lần/ năm với thời vụ ngắn ngày.
f. Gió
- Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa. Mùa hè, hướng gió hình
thành là hướng gió Đơng và Đơng Nam. Về mùa đơng hướng gió chính là gió
mùa đơng bắc.
- Hướng gió thịnh hành vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10) là từ
Đông Nam (ĐN) đến Nam (N) vào các tháng V, VI, VII. Vận tốc gió mạnh
nhất trong trường hợp bão đổ bộ >50m/s
- Hướng gió thịnh hành vào mùa đơng từ Tây Bắc (TB) đến Đơng Bắc
(ĐB). vận tốc gió mùa này từ 4-11m/s
- Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là gió Tây Bắc, Bắc và Đơng Bắc.
Từ tháng 2 đến tháng 4 chuyển dần sang Đông Bắc, Đông Nam và Đơng.
Mùa đơng gió thịnh hành ít tác động vào bờ.


Bảng 1.1. Một số thơng số thời tiết trung bình tháng và năm khu vực nghiên cứu
Chỉ

Tháng
1

tiêu
Gió (m/s)

T0(0C)

2

3

4

Tb

5

6

7

8

9

10

11

12

năm

1,9


2,1

1,6

2,0

2,2

2,1

2,1

2,1

2,0

16,3 17,0 19,7 23,4 27,3 28,2 29,2 28,4 27,2 24,8 21,5 17,4

23,4

2,2 2,0 1,7 2,0

Độ ẩm (%) 85

88

91

90


85

83

82

86

86

85

82

83

86

( Nguồn: Đề án khai thác tổng hợp và sử dụng hợp lý tài nguyên Bắc Bộ)
g. Bão và áp thấp nhiệt đới
Mùa bão chủ yếu bắt đầu từ cuối tháng 6 đến tháng 9. Theo số liệu
thống kê thì trong 45 năm từ năm 1956 – 2000 có 103 cơn bão đổ bộ vào khu
vực bờ biển Quảng Ninh – Thanh Hố. Trong đó có 10 cơn bão và áp thấp
nhiệt đới đổ bộ trực tiếp vào vùng biển Nam Định – Ninh Bình. Thời gian kéo
dài trung bình của các cơn bão từ 4-5 ngày. Đặc biệt có cơn bão tháng 9/1986
kéo dài tới 22 ngày.
Vùng quy hoạch thiết kế chi tiết nằm sát biển nên khi bão đổ bộ chịu
ảnh hưởng rất lớn của gió bão. Bên cạnh sức tàn phá mạnh mẽ của gió thì khu
vực này cịn chịu ảnh hứng chịu các sóng biển và nước dâng do bão tác động
vào đê biển.

Bảng 1.2. Số cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào vùng
biển Nam Định-Ninh Bình
Khu vực đổ bộ

T5

T6

T7

T8

T9

T10 T11 T12 T ổng

Qninh - T. Hố

1

17

22

33

25

4


-

1

103

N. Định-N.Bình

-

3

1

3

3

-

-

-

10

( Nguồn: Đề án khai thác tổng hợp và sử dụng hợp lý tài nguyên Bắc Bộ )
1.1.4. Địa chất
Là vùng đất được hình thành bởi sự bồi lấp của phù sa sông Hồng đồng
thời là vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng nên thành phần đất đai

của vùng quy hoạch tương đối phong phú. Bao gồm các loại sau:


Đất phù sa không được bồi lắng hàng năm. Đất có phản ứng ít chua, có độ
phì cao, có thành phần cơ giới từ thịt nặng đến đất sét. Đây là vùng dân cư tập
trung nên hầu hết diện tích được bố trí để trồng lúa màu và các loại cây công
nghiệp ngắn ngày khác.
Đất phù sa Glay: được phân bố ở địa hình thấp, trũng thường xuyên bị gập
nước.
Đất chua, có độ pHkcl = 4.3 – 4.5 thành phần cơ giới thường là thịt nặng hàm
lượng mùn thấp, đạm, lân tổng số và dễ tiêu từ nghèo đến trung bình.
Đất phù sa có tầng loang lổ đỏvàng: do ảnh hưởng của chế độ nước và quá
trình canh tác đã xuất hiện q trình tích lũy sát nhóm hình thành vón, đá ong. Tỉ
lệ kết vón trong đất khá cao. Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình,
hàm lượng các chất dinh dưỡng đạm, lân tổng số và dễ tiêu là trung bình.
Đất xám bạc màu: do phân bố ở địa hình dốc nên quá trình rửa trơi, xói mịn
đất diễn ra liên tục làm cho đất bị mất các chất dinh dưỡng. Các kim loại kiềm bị
rửa trôi thành phần cơ giới nhẹ, tầng mặt chủ yếu là cát, phản ứng đất chua, hàm
lượng mùn và các chất dinh dưỡng nghèo. Đất này chủ yếu trồng một vụ lúa và
một vụ màu.
1.1.5. Thủy văn
a. Hệ thống sông
Vùng quy hoạch nằm trong vùng trung du miền núi nên hệ thống sơng ngịi
khơng nhiều lắm, các dịng sơng đều có độ dốc nhỏ trên tồn vùng quy hoạch có
các sơng sau:
-Sơng Bến Đang
Cịn gọi là sơng Mới ở Nho Quan hay sông Trinh Nữ ở Yên Mô, là
một chi lưu của sông Đáy, chảy dọc qua địa bàn các huyện Nho Quan, thị xã
Tam Điệp và huyện n Mơ của tỉnh Ninh Bình. Sơng là ranh giới tự nhiên
bao bọc tứ giác nước Hoa Lư, giữa 2 dãy núi Tam Điệp và dãy núi Tràng

An - Tam Cốc.


Sông Bến Đang nối từ đoạn sông Rịa đổ vào sơng Hồng Long tại Đồi
Khoai, xã Quỳnh Lưu, Nho Quan. Sông chảy qua các xã: Quỳnh Lưu, Sơn Hà,
Yên Sơn, Tân Bình, n Bình rồi đổ vào huyện n Mơ làm ranh giới tự nhiên
giữa các xã Yên Thắng và Mai Sơn, Yên Hòa và Khánh Thượng, Yên Hưng và
Yên Phú, Yên Mỹ và Yên Phong, Yên Nhân vàYên Từ. Tại xã Yên Hòa còn một
nhánh nữa chảy qua làng Trinh Nữ, các xã Yên Thành, Yên Mạc rồi đổ vào sông
Bút được gọi là sông Trinh Nữ.
Sông Bến Đang là một con sơng thốt lũ, úng được mở rộng từ những năm
đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX nên nó cịn được gọi là sơng Mới, đoạn hạ lưu của
nó là sơng Trinh Nữ nổi tiếng trong sử sách. Đoạn đầu sơng Bến Đang có
nhiệm vụ tiêu thốt lũ núi và nhận nước tiêu úng từ các khu vực sản xuất nơng
nghiệp thuộc một phần diện tích 9 xã (Văn Phương, Văn Phú, Phú Lộc, Thượng
Hòa, Thanh Lạc, Sơn Thành, Phú Long, Quỳnh Lưu, Sơn Lai) thuộc huyện Nho
Quan và 4 xã (Gia Phong, Gia Minh, Gia Sinh, Gia Lạc) thuộc huyện Gia Viễn
chảy xuống phía Nam, qua sông Ghềnh gặp sông Bút rồi chia ngả đổ vào sơng
Vạc, sơng Càn ra biển Đơng. Khi thốt nước sơng có thể ngược theo sơng Rịa
chảy lên phía đơng bắc đổ ra sơng Hồng Long thơng qua Ân Lê cuối sông
Rịa trên địa phận huyện Gia Viễn.
- Sông Đáy
Sông Đáy nguyên là một phân lưu lớn đầu tiên ở hữu ngạn sông Hồng, bắt
đầu từ cửa Hát Môn chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam hợp biển Đông tại
Cửa Đáy. Nhưng đến năm 1937, sau khi xây dựng xong đập Đáy, nước sông Hồng
không thường xuyên vào sông Đáy qua cửa đập Đáy trừ những năm phân lũ, vì
vậy phần đầu nguồn sông (từ km 0 đến Ba Thá dài 71km) sông Đáy coi như đoạn
sông chết. Hiện tượng bồi lắng và nhân dân lấn đất canh tác cản trở việc thốt lũ
mùa mưa. Lượng nước để ni sơng Đáy chủ yếu là do các sông nhánh, quan
trọng nhất là sơng Tích, sơng Bơi, sơng Đào Nam Định, sơng Nhuệ.



Sơng Đáy là trục tiêu chính trong mùa lũ, sơng Đáy hồn tồn mang đặc thù
của sơng đồng bằng. Sơng Đáy chảy giữa lưu vực với chiều dài khoảng 247km,
lòng và bãi sông biến đổi mạnh về chiều rộng. Theo đặc điểm địa hình lịng dẫn,
có thể chia dịng sơng Đáy ra các đoạn dưới đây:
+ Đoạn sông từ Vân Cốc đến đập Đáy dài 12km, dạng hình phễu rộng trên
10km. Đây là khu chứa lũ Vân Cốc có diện tích khoảng 3200ha tương ứng với độ
cao 16m.
+ Đoạn từ đập Đáy đến Mai Lĩnh dài 23km, chiều rộng trung bình giữa hai
bờ đê khoảng 3000m, lịng sơng quanh co, uốn khúc, nước lũ chủ yếu tràn trên bãi
giữa hai đê.
+ Đoạn Mai Lĩnh - Tân Lang dài 75km, lòng sông quanh co, uốn khúc, chảy
theo hướng Bắc - Nam.
+ Đoạn Tân Lang - Gián Khẩu dài 53km, sông chảy theo hướng Tây Bắc Đông Nam đến Phủ Lý, sau đó từ Phủ Lý đến Gián Khẩu đổi thành hướng Bắc Nam, ở bờ hữu có dãy núi đá vơi Ninh Bình. Từ bờ sơng vào chân núi là các
cánh đồng của 7 xã thuộc huyện Kim Bảng, có đê bối bao quanh để ngăn lũ nội
đồng.
+ Đoạn từ Gián Khẩu đến biển dài 82km, lịng sơng mở rộng dần, chỗ rộng
nhất tới 600m và chỗ hẹp nhất là 150m. Bờ tả có những bãi khá rộng, khoảng cách
giữa 2 đê tới 3 - 4km. Đoạn sông này luôn chịu ảnh hưởng của thủy triều.
Sơng Đáy có chế độ dịng chảy phức tạp, bị ảnh hưởng bởi tổ hợp lũ
lớn 3 sơng Đáy, sơng Hồng Long nhập tại Gián Khẩu và sông Hồng phân lũ
qua sông Đào Nam Định nhập tại Độc Bộ. Việc tiêu nước trên sông Đáy dùng
động lực là chính, chỉ có một số khu vực miền núi, trung du và giáp biển là có
thể tự chảy vì lợi dụng được độ dốc và thuỷ triều. Đây là trục sơng tự nhiên
có tác dụng lớn đến lũ sơng Hồng Long.
- Sơng Tích


Sơng Tích là chủ lưu lớn của sơng Đáy, là nhánh sông cung cấp nước tự

nhiên lớn nhất cho thượng nguồn sơng Đáy hiện nay. Sơng Tích với diện tích
1330km2 bắt nguồn từ núi Tản Viên, đổ ra sông Đáy tại Phúc Lâm 105°42’20” kinh độ Đông và 20°48’40” vĩ độ Bắc. Sơng dài 91,0km với độ dốc
bình qn lưu vực là 5,8% chảy qua nhiều vùng đồi đất và nham cứng, độ cao bình
quân lưu vực ở mức 92m so với mặt biển, với độ rộng bình quân lưu vực là
17,6km.
Lưu vực sơng Tích có dạng hình lơng chim, tồn bộ sơng Tích có 25 nhánh
cấp một, các nhánh phần lớn nhập lưu bên bờ phải, hệ số đối xứng là - 0,07, bên
bờ phải có 16 suối với diện tích tổng cộng là 910km2, bờ trái có 9 suối với diện
tích tổng cộng là 390km2.Các nhánh cấp một bên bờ phải đáng lưu ý là :
+ Suối Hai bắt nguồn từ núi Ba Vì nhập lưu tại An Thịnh.
+ Sơng Hang bắt nguồn từ núi Ba Vì nhập lưu tại đồi Ĩ.
+ Sơng Giản bắt nguồn từ núi Viên Năm nhập lưu tại Trung Lạc.
+ Sông Bùi bắt nguồn từ núi Mỗ nhập lưu tại Bùi Xá.
+ Sông Bến Gõ bắt nguồn từ núi Đồi Bù nhập lưu tại Cơng An.
- Sơng Hồng Long
Sơng Hồng Long, thượng lưu dịng chính có tên là sơng Bơi, bắt nguồn từ
phía Nam thị xã Hịa Bình. Từ hạ du chỗ hợp lưu sông Bôi, sông Lạng, sông Đập
(sông Canh Bầu) tại Kênh Gà gọi là sơng Hồng Long và chảy vào sông Đáy tại
Gián Khẩu. Chiều dài sông kể từ Hưng Thi đến Gián Khẩu là 63,2 km và đoạn
sông chảy qua khu Bắc Ninh Bình dài khoảng 10 km. Diện tích lưu vực 1515 km2,
trong đó diện tích đất núi rừng chiếm tới hơn 1280 km2.
Trong phương hướng quy hoạch thuỷ lợi trước đây thì vùng phân lũ sơng
Hồng Long nằm trên địa bàn 20 xã và có thể phân định thành các vùng phân lũ
với mức độ khác nhau:


Vùng thường xuyên chịu lũ: bao gồm 6 xã huyện Nho Quan ( Xích Thổ,
Gia Sơn, Gia Lâm, Gia Thuỷ, Phú Sơn và một phần xã Lạc Vân), một phần diện
tích ngồi đê huyện Nho Quan và Gia Viễn.
Vùng bị ngập do phân lũ xảy ra 3-5 năm một lần: Gồm 3 xã Đức Long, Gia

Tường và một phần xã Lạc Vân.Vùng ngập do phân lũ hữu sơng Hồng Long
( khu Lạc Khoái): Bao gồm 4 xã huyện Gia Viễn ( Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong,
Gia Sinh) và 8 xã huyện Nho Quan (Thượng Hoà, Sơn Thành, Thanh Lạc, Sơn
Lai, Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Văn Phú, Văn Phương). Chế độ dịng chảy của sơng
Hồng Long rất phức tạp:
+ Mực nước mùa kiệt phụ thuộc vào nước dềnh lên từ sông Đáy do ảnh
hưởng thuỷ triều và lượng nước bổ sung vào sông Đáy từ sông Đào Nam Định.
+ Mùa lũ, nước lũ từ thượng du đổ về đến khu vực nghiên cứu thường bị dồn
ứ do mực nước lũ trên sơng Đáy. Khi mực nước lũ trên sơng Hồng Long và sơng
Đáy dâng cao, có nguy cơ ảnh hưởng đến khu vực hạ du sơng Đáy thì phải phân lũ
vào các khu phân chậm lũ.
Thực tế từ những năm của thập kỷ 1960 đến nay đã có 8 lần phải phân lũ vào
khu hữu Hồng Long, cũng từ đó đến nay các tuyến đê tả Hoàng Long, hữu Hoàng
Long, Gia Tường - Đức Long, Năm Căn được hình thành và từng bước được nâng
cấp. Hiện tại chỉ còn khu Xích Thổ là khu vực ngập lũ thường xuyên.


Hình 1.4: Đập tràn Lạc Khối bên sơng Hồng Long
Bảng 1.3. Đặc trưng hình thái lưu vực của một số sơng nhánh
TT

Sơng Nguồn sơng Cửa sơng Chiều

1

Tích Núi Tản Viên

2

Thanh Hà


3

Ba Thá

dài

vực

(km)

(km2)

91

1300

Vùng núi Kim Bơi

Ba Thá

40

271

Hồng

Vùng núi TX Hồ

Gián Khẩu


125

1515

Long

Bình

4 Nhuệ C
5

DT lưu

ống Liên Mạc Phủ Lý

Châu Sông Hồng Phủ Lý

6 Đào Sông

Hồng

27

80

1070

368
Độc Bộ


32

185


Bên bờ trái có sơng Cao Nhang bắt nguồn từ núi Phú Ngô nhâp lưu tại Cao
Nhang. Ba nhánh lớn Suối Hai, Đồng Mơ, Ngải Sơn, Bến Gõ đã có hồ chứa.
Độ dốc đáy sơng chính khơng lớn nhưng độ dốc các sơng nhánh rất lớn,
trung bình từ 1,1 – 2% có suối lên tới 3%.
Lịng sơng Tích có thể chia làm 3 đoạn:
+ Từ nguồn đến cống Chuốc: mặt cắt hẹp, lịng chính trung bình rộng
10 – 15m; độ dốc 0,8m/km.
+Từ cống Chuốc đến cống Trơi: lịng sơng mở rộng hơn đoạn trên; độ
dốc 0,3m/km.
+Từ cống trôi đến Ba Thá lịng sơng rộng trung bình từ 30- 40m, độ
dốc chỉ còn 0,1m/km.
Một đặc điểm quan trọng là tuy lòng sơng Tích bé nhưng thềm sơng
khá rộng, bề rộng trung bình của thềm sơng khoảng 2000m –3000m và hơn
nữa như các vùng Văn Miếu, Thạch Thất, Quốc Oai, thuận lợi cho việc dẫn lũ
nếu phân lũ qua Lương Phú.
Mùa lũ của sơng Tích bắt đầu từ tháng VI đến tháng X. Với tâm mưa
lớn Ba Vì, lượng mưa trung bình nhiều năm đạt trên 2200mm, cường độ mưa
lớn, đã đo được 750mm trong 24 giờ. Tháng VII trên sơng Tích gắn liền với
dơng và bão, tháng IX là tháng có nhiều bão ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh
Hồ Bình và Hà Tây, theo hướng đi thịnh hành của bão là Tây Tây Bắc nên
bão đổ bộ từ Thái Bình đến Vĩnh Linh đều gây ra mưa lớn trên lưu vực.
-Sông Rịa
Là một đoạn sông ngắn với lưu vực nhỏ bắt nguồn từ dãy núi Tam Điệp
nhập với sông Bến Đang tại khu Đồi Khoai, sau đó nối với sơng Hồng Long

tại vị trí Âu Lê. Hai bờ sơng hiện nay đã được đắp đê cao tới cao trình từ 3.5 4 m, bề rộng sông khoảng 30 - 40m. Lũ của sông Rịa chủ yếu tập trung vào
khu Lạc Khoái, tuỳ theo điều kiện tiêu thoát lũ hoặc qua Âu Lê ra sơng Hồng


Long (nếu mực nước sơng Hồng Long ở mức thấp) hoặc chảy qua cầu Bến Nhảy
theo sông Bến Đang xuống phía Nam Ninh Bình.
-Sơng Đào Nam Định
Sơng Đào cũng là phân lưu lớn thứ hai của sông Hồng tại Phù Long ở phía
Bắc thành phố Nam Định và chảy vào sông Đáy tại Độc Bộ. Đây là con sông đào
từ cuối đời Trần. Khi mới đào, sông hẹp và nông, dần dần lịng sơng sâu, có nơi
trên 15m, nên có khả năng chuyển tải khối lượng nước khá lớn của sơng Hồng vào
sơng Đáy (Trung bình hàng năm khoảng 20 tỷ m3). Lưu lượng nước trung bình
mùa cạn khoảng 250 - 300m3/s, đây là nguồn nước ngọt chủ yếu cho hạ lưu sông
Đáy. Vào mùa lũ, lưu lượng nước sông khá lớn, trận lũ tháng 8/1971, lưu lượng
lớn nhất qua sông Đào Nam Định tới 6700 m 3/s. Sông Đào dài 32 km, diện tích
lưu vực 185 km2 ( Bờ phải 157 km2, bờ trái 28 km2).
Về mùa lũ, sông Đào Nam Định gây áp lớn về lũ đối với sông sông Đáy,
nhưng lũ lớn sông Hồng không xuất hiện đồng bộ với hệ thống sơng Đáy và
sơng Hồng Long. Lũ lớn nhất sơng Hồng Long thường xuất hiện vào tháng 9,
tháng 10, cịn lũ sơng Hồng lớn nhất thường xuất hiện vào tháng
8. Sau khi có các hồ chứa Hịa Bình, Sơn La, Tun Quang thì từ đầu tháng 9 các
hồ chứa tích nước nên áp lũ sơng Hồng đối với sơng Đáy và sơng Hồng Long
giảm đáng kể.
Có thể nói, sơng Hồng Long là con sơng lớn nhất của tỉnh Ninh Bình, có
chế độ thuỷ văn rất đa dạng. Thời kỳ mùa lũ, sơng Hồng Long vừa bị tác động
của lũ thượng nguồn của 3 nhánh sông Kim Bơi, Lạng, và sơng Đập dồn về. Mặt
khác cịn chịu tác động rất lớn của lũ sông Đáy, lũ sông Hồng phân qua sông Đào
Nam Định. Tổ hợp của 3 dạng lũ này khá phức tạp, ít khi xuất hiện đồng bộ 3 dạng
lũ lớn nhất. Nhưng thường gặp ở dạng lũ trung bình và mực nước cao làm cản trở
việc tiêu thốt lũ của sơng Hồng Long, nhất là hai huyện Nho Quan và Gia Viễn.



-Các sông trục nội đồng
+ Sông Vạc là sông nội địa lớn trong khu Nam Ninh Bình, nó được nối với
sông Chanh, Hệ Dưỡng, sông Vân ở thượng lưu Cầu Yên và sông Bến Đang qua
Thắng Động. Chiều dài ra đến cửa Kim Đài là 27km, đoạn đầu cao trình đáy đáy=
-3  -4m, bề rộng 4050m, đoạn cuối đáy= -6  -7m, bề rộng 70  90m. Ngoài
nhiệm vụ là trục tiêu chính cho khu Nam Ninh Bình nó cịn nhiệm vụ trữ và dẫn
nước tưới từ sơng Đáy qua các âu Lê, âu Chanh, âu Vân và âu Mới đưa vào các
sông nhỏ khác cung cấp nước tưới cho hầu hết phần đồng bằng Nam Ninh Bình.
+ Sơng Gềnh nối sơng Bến Đang với sơng Vạc, cao trình đáy từ -1,0  2,0 m, bề rộng B= 40 50m.
+ Sông Trinh Nữ nối sông Gềnh với sông Cầu Hội, sông hẹp và nông
đảm nhận cả hai nhiệm vụ tiêu và tưới cho phía Tây khu Nam Ninh Bình.
+ Sơng Cầu Hội cũng là trục tiêu chính của Nam Ninh Bình đồng thời cịn
dẫn và trữ nước tưới cho phần đồng bằng giáp vùng bán sơn địa. Chỗ sâu nhất cao
trình = -3,0m, cịn đoạn đầu chỉ từ -1,3  -1,8m. Do tác dụng lũ sông Tống và
triều biển nên việc tiêu nước bị hạn chế, mặt khác cửa Càn đang ngày càng
kéo dài ra biển, không thuận lợi cho tiêu, mức độ bồi lắng lớn do dòng chảy cơ
bản rất nhỏ.
b.Dòng chảy trong vùng nghiên cứu
- Dòng chảy lũ
Mùa lũ trong vùng kéo dài năm tháng, bắt đầu từ tháng VI và kết thúc vào
cuối tháng X. Theo tài liệu quan trắc, lũ lớn nhất thường xảy ra vào tháng VIII, IX
.
Dịng chảy lũ trên các sơng chính trong lưu vực:
+ Sơng Bơi + Hồng Long: ở Hưng Thi lũ khá lớn vì chưa bị điều tiết nhiều
về tới Mai Phương và tới Gián Khẩu thì lũ điều hồ hơn vì đã bị điều


tiết rất nhiều vào khu hữu và một phần phân qua Đầm Cút ra nhập vào sông Đáy ở

Địch Lộng. Lưu lượng lũ lớn nhất của sơng Hồng Long tham gia nhập vào sông
đáy ở ngã ba Gián Khẩu cũng chỉ cịn dưới 1000 m3/s.
+ Sơng Tích: Ở Chí Thuỷ lũ khơng lớn như ở Hưng Thi vì có khả năng điều
tiết lũ dọc sơng Tích rất lớn, Qmax chỉ đạt khoảng 500m 3/s. Về đến ngã ba sơng
Tích – Đáy, lưu lượng lũ lớn nhất tham gia nhập vào sông Đáy cũng chỉ khoảng
trên 500 m3/s.
+ Sông Đáy: Ở dưới ngã Ba Thá lưu lượng lớn nhất cũng chỉ đạt khoảng 500
m3/s. Trường hợp có phân lũ sơng Hồng vào sơng Đáy qua Vân Cốc và đập Đáy thì
lưu lượng lớn nhất như lũ tháng VIII năm 1971 cũng chỉ đạt 798 m3/s
Theo tính tốn trước đây, lưu lượng đỉnh lũ về đến dưới Phủ Lý cũng chỉ
đạt khoảng 1000 m3/s.
Như vậy thành phần đỉnh lũ sông Đáy so với sơng Hồng Long thấp hơn 2
lần. Cịn về tổng lượng nước thì chưa có số liệu đáng giá vì còn tuỳ thuộc lượng
nước bơm tiêu ra.
Theo tài liệu lũ được bổ sung từ tài liệu mực nước của hai trạm trạm thủy
văn Hưng Thi và Ba Thá, thống kê vẽ đường tần suất dòng chảy đỉnh lũ Các đặc
trưng thống kê đuợc xác định theo chuỗi lưu lượng đỉnh lũ đã bổ sung và hồn
ngun, kết quả tính tốn lũ đỉnh lũ theo chuỗi hoàn nguyên thống kê trong
bảng 1.19 và bảng 1.20.
Bảng 1.4. Lưu lượng đỉnh lũ theo tần suất tại trạm Ba Thá và Hưng Thi
Vị trí Đặc trưng th

ống kê dòng

Lưu lượng đỉnh lũ theo các
tần suất tính tốn (m3/s)

chảy lũ
Q max


Cv

Cs

1%

2%

5%

Hưng Thi

1225,5

0,56

0,96

3284

2956

2504

Ba Thá

267,47

0,38


0,76

560

515

453


Bảng 1.5. Tung độ đường tần suất lưu lượng đỉnh lũ trạm Ba Thá và Hưng Thi
Hưng Thi
Thứ

Tần

tự

suất

Ba Thá

Thời gian
Q m³/s

P(%)

lặp lại
(năm)

Tần suất

P(%)

Thời gian
Q m³/s

lặp lại
(năm)

1

0.01

5315.01 10000.000

0.01

823.94

10000.000

2

0.10

4321.59

1000.000

0.10


695.92

1000.000

3

0.20

4015.52

500.000

0.20

655.92

500.000

4

0.33

3791.51

303.030

0.33

626.46


303.030

5

0.50

3603.42

200.000

0.50

601.59

200.000

6

1.00

3284.20

100.000

1.00

559.07

100.000


7

1.50

3093.60

66.667

1.50

533.49

66.667

8

2.00

2956.25

50.000

2.00

514.95

50.000

9


3.00

2759.17

33.333

3.00

488.18

33.333

10

5.00

2503.67

20.000

5.00

453.18

20.000

11

10.00


2139.44

10.000

10.00

402.59

10.000

- Dòng chảy kiệt
Khu vực phía Tây và Tây Bắc là khu vực núi đá vôi, khả năng trữ nước rất
lớn trong mùa lũ. Việc đánh giá dịng chảy kiệt trong vùng có nhiều hang động
như vùng này là rất khó khăn. Với số liệu phân tích một số trạm đặc trưng và kết
quả khảo sát kiệt tháng III/1995 và tháng III/2006, cho thấy sơ bộ mơ số dịng
chảy kiệt (bình qn tháng kiệt) khoảng 4÷5 l/s.km 2, ở nơi có nhiều hang động thì
mơ số dịng chảy kiệt có thể cịn khá hơn.
Nếu tính dịng chảy mùa kiệt trong lưu vực và vùng nghiên cứu chỉ dựa vào
các sơng miền núi thì sẽrất nhỏ (sơng Tích, Thanh Hà, Hồng Long, sơng Vạc),
trên các sơng suối này nhiều cơng trình hồ chứa vừa và nhỏ đã được xây dựng nên
dòng chảy mùa kiệt trên sơng rất nhỏ. Vùng nghiên cứu có sơng


×