Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghi lễ vòng đời của người chăm islam ở an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.16 KB, 8 trang )

TĨM TẮT
Nghi lễ vịng đời của người Chăm Islam ở An Giang chứa đựng nhiều nét đặc sắc,
thể hiện những quan niệm về vũ trụ quan, nhân sinh quan của các tín đồ Islam giáo. Nhìn
nhận một cách đúng đắn, khách quan và khoa học về các giá trị của nghi lễ vòng đời
người Chăm Islam An Giang là cơ sở quan trọng để đề ra những chủ trương, chính sách
phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo các vấn đề an sinh cho
cộng đồng dân tộc.
Văn hóa người Chăm Islam An Giang nói chung và các nghi lễ vịng đời nói riêng
cịn mang nhiều dấu ấn Hồi giáo chính thống đồng thời cũng ít nhiều mang tính bản địa
do q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa trong mối quan hệ cộng cư với người Việt, người
Khmer, người Hoa… Mặc dù vậy, có thể khẳng định, các nghi lễ vịng đời của họ vẫn
còn giữ lại nhiều giá trị truyền thống độc đáo. Điều đặc biệt là những nghi lễ vòng đời
người Chăm Islam từ khi sinh ra đến khi chết luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Các
nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam An Giang so với người Chăm Bà ni và Chăm Bà
la mơn có những điểm tương đồng nhất định, nhưng về cơ bản vẫn có sự khác biệt. Nhìn
chung, nghi lễ vịng đời của người Chăm Islam An Giang, người Chăm Bà ni hay người
Chăm Bà la mơn khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận đều chứa đựng những giá trị độc đáo.
ABSTRACT

Đối với người Chăm Islam ở An Giang, từ trước đến giờ đã có rất nhiều đề tài,
chuyên luận, bài báo khoa học… đề cập với nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang
lại là một vấn đề cịn bỏ ngỏ. Thiết nghĩ, nghiên cứu văn hóa người Chăm ở An Giang
nói chung và nghi lễ vịng đời nói riêng là một việc làm cần thiết. Nó góp phần khẳng
định những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Chăm ở An Giang; khu biệt với
những đặc trưng, giá trị văn hóa của người Chăm Bà la môn, Chăm Bà ni khu vực miền
Trung, đồng thời nghiên cứu một cách có hệ thống nghi lễ vòng đời của người Chăm ở
An Giang còn là cơ sở để đề xuất những kiến nghị nhằm duy trì và phát huy những giá trị
văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc này.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là nghi lễ vòng đời người Chăm Islam trên địa bàn tỉnh An


Giang. Chúng tôi sẽ khảo sát các nghi lễ dựa trên ba giai đoạn chủ yếu của đời người:
sinh, thành niên, tử. Trên cơ sở đó, chúng tơi đối chiếu với nghi lễ vòng đời của người
Chăm Bà la môn và người Chăm Bà ni khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp nghiên cứu tư liệu: Tìm hiểu các cơng trình, bài viết,
các ấn phẩm có liên quan đến đối tượng kể cả tư liệu trên Internet để từ đó có những đánh
giá, nhận định khách quan, biện chứng về đối tượng.


5.2. Phương pháp khảo sát:
- Mục đích: Thu thập thơng tin chi tiết về nghi lễ vòng đời của người Chăm.
- Nội dung khảo sát: Các bước chuẩn bị, các nội dung được thực hiện trong từng
nghi lễ vòng đời của người Chăm.
5.3. Phương pháp so sánh:
So sánh các nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang và người Chăm
Bà la môn; Chăm Bà ni (Ninh Thuận, Bình Thuận) để tìm ra những nét tương đồng và dị
biệt.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Khái quát về người Chăm Islam ở An Giang:
Trước đây, các nhà khoa học và báo giới thường gọi người Chăm Islam ở An
Giang bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Ví dụ như “Người Chăm Châu Đốc”, “Người
Chăm Châu Giang”, “Người Chăm Hồi Giáo ở An Giang”, “Người Chăm Hồi Giáo ở
Châu Đốc”… Hiện nay, để thống nhất cách gọi, các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ
“Chăm Islam” để chỉ người Chăm theo đạo Hồi chính thống. Người Chăm ở An Giang
được gọi là “Chăm Islam An Giang”. (Trong tiếng Ả Rập, chữ “Islam” (‫ )مالسإل‬có nghĩa
là Hồi giáo).
Người Chăm Islam ở Nam Bộ nói chung và ở An Giang nói riêng được hình
thành từ hai nguồn chủ yếu: từ Trung Bộ chuyển cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và
một phần khác khơng nhỏ do chiến tranh loạn lạc phải chạy sang Chân Lạp, sau đó trở về
vùng đất Tây Nam này.

hiện nay người Chăm ở An Giang có trên13.700 nhân khẩu, khoảng 2.810 hộ,
7404 nữ, 6.318 nam sống chủ yếu tập trung ở các Puk (ấp) hay trong những Pơlây (xã)
xen kẽ với người Kinh.
2. Nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang:
2.1 Nghi lễ trong giai đoạn sinh:
phụ nữ Chăm khi mang thai phải kiêng nằm võng, kiêng leo trèo (sợ té sẽ hư
thai); không được ngồi quay lưng ra hướng cửa chính (sợ sinh con chậm); mỗi khi làm
việc gì phải làm cho xong thật mau lẹ (sau sẽ dễ sinh); chỉ được ăn uống ngồi, kiêng ăn
đứng hoặc vừa ăn vừa đi (sợ dao động thai nhi)… Hiện nay, đời sống xã hội phát triển,
phụ nữ Chăm khi mang thai và sinh nở thường đến các cơ sở y tế địa phương, được tư
vấn và chăm sóc sức khỏe theo phương pháp y học hiện đại, do vậy, sự kiêng cữ như
trước kia đã phần nào được giản lược. Sau khi sinh, lá nhau phải được rửa sạch và chôn
ngay dưới chân cầu thang. Theo quan niệm của người Chăm Islam ở An Giang, việc chôn
nhau thai dưới chân cầu thang là để sau này đứa trẻ dù có đi bất kỳ nơi đâu, vẫn nhớ nơi
chơn nhau cắt rốn, nhớ gia đình tổ tiên mà tìm về. Khi sinh con xong, người mẹ phải nằm
lửa đúng một tuần. Sau một tuần ấy, người ta sẽ hốt bếp cho người phụ nữ. Tất cả than,
xác thuốc uống đều được gói chung lại, đem chơn nơi chân cầu than như nhau thai.
Thông thường, sau khi sinh được 7 ngày, người ta sẽ làm lễ cắt tóc và đặt tên cho
đứa trẻ. Tại buổi lễ, người trong gia đình bồng đứa trẻ ra và đi lại trước các ông Hakêm,
Tuôn và Imâm, rồi đến các vị bô lão để những người này ban phúc lành bằng cách đọc


vào tai nó những câu kinh rồi nhúng lơng gà vào lọ nước quệt lên trán nó. Tiếp theo, Ơng
Hakêm hoặc các vị bô lão sẽ đọc kinh rồi dùng kéo cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu đứa trẻ,
thoa chút dầu thơm và tiến hành đặt tên cho nó. Người Chăm Islam có ba cách đặt tên
chủ yếu: đặt tên thánh, đặt tên trí thức và đặt tên thường.
Nghi lễ trong giai đoạn trưởng thành
Tục cắt da quy đầu: (Khotanh) Đối với người Chăm Islam, tục cắt da quy
đầu là một nghi lễ được tôn trọng triệt để, dù không được minh định trong thánh kinh
Koran. Nghi thức này nhằm mục tiêu đảm bảo sự “sạch sẽ” cho những người con trai

trong quá trình thực hiện những nghi lễ tại thánh đường, nó cịn đánh dấu bước ngoặt lớn
trong cuộc đời đứa trẻ, chứng nhận đứa trẻ Islam đã đến tuổi thành niên, có đầy đủ năng
lực và trực tiếp lãnh hội trách nhiệm cũng như đức tin đối với Allah. Các đứa bé trai trạc
13-15 tuổi sẽ được tập hợp lại. Người ta sẽ giải thích cho đứa trẻ biết nguyên do vì sao
phải thực hiện tục này và yêu cầu chúng phải nghiêm chỉnh thực hiện để làm trịn bổn
phận của một tín đồ Islam. Ơng Chèn Kho tanh (người thực hiện việc cắt da quy đầu
trong một xóm Chăm) sẽ đọc kinh và tiến hành cắt da quy đầu cho chúng. Đứa trẻ được
thoa một chất thuốc lên đầu dương vật (các loại thuốc dân gian). Sau đó, Chèn Kho tanh
dùng một chiếc kẹp tre kẹp da quy đầu của đứa trẻ mà kéo lên. Tiếp theo, ông dùng dao
bén cắt lớp da quy đầu. Cắt xong, Chèn Kho tanh sẽ thoa thuốc cầm máu lên vết cắt.
- Tục cấm cung: Theo quan niệm của người Chăm Islam, phụ nữ phải kín đáo.
Bởi lẽ, nếu phụ nữ để cho người khác giới nhìn thấy, họ sẽ dễ sinh ra tà ý, từ đó dẫn đến
những hành động tội lỗi, trái với đạo luật Hồi giáo. Ngoài vấn đề ăn mặc kín đáo, giai
đoạn trước năm 1975, phụ nữ Chăm Islam ở An Giang còn phải chịu cấm cung (ga sâm).
Theo tìm hiểu của chúng tơi, tục cấm cung của người Chăm Islam An Giang không giống
với tục cấm cung của người Chăm Bà ni khu vực Miền Trung. Nếu người Chăm Bà ni
xem cấm cung như là một nghi thức “thành đinh” (đánh dấu sự trưởng thành) của phụ nữ
thì đối với người Chăm An Giang, tục cấm cung mang một hành động để gia đình và bản
thân thiếu nữ tự quản lý mình tốt hơn. Nhiều người còn cho rằng, trước kia người Chăm
Islam ở An Giang khơng có tục cấm cung, nhưng khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, bọn
chúng thường hay bắt bớ phụ nữ đẹp, do vậy, phụ nữ Chăm không dám đi ra đường mà
suốt ngày trốn trong nhà. Nếu có đi đâu thì phải đi cùng với người thân. Dần dà, việc phụ
nữ đến tuổi thành niên bị cấm cung đã trở thành phổ biến, thành tục. Đây là một cách lý
giải cũng khá thuyết phục về nguồn gốc tục cấm cung của người Chăm Islam ở An
Giang. Bởi lẽ, từ sau năm 1975, khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, hiện tượng phụ nữ
Chăm bị cấm cung ngày một giảm đi và hầu như hiện nay không còn nữa.
- Nghi thức cưới xin: Đối với người Chăm Islam, hôn nhân không chỉ là bổn phận của
con cái đối với gia đình mà cịn là bổn phận của một tín đồ đối với Thượng đế. Gia đình
người Chăm Islam ở An Giang là gia đình phụ quyền, chồng đi cưới vợ, làm chủ tài sản
của gia đình, có quyền thừa kế tài sản nhiều hơn nữ giới, được quyền cưới vợ lẻ. Tuy

nhiên, hầu hết các gia đình đều là gia đình một vợ một chồng.
Đối tượng kết hơn: Khuyến khích kết hơn giữa anh chị em họ. Điển hình như con chú,
con bác, con dì, con cơ, con cậu. Cơ gái có thể lớn tuổi hơn chàng trai chứ không nhất
thiết phải nhỏ hơn. Nguyên tắc cơ bản trong chế độ hôn nhân của người Chăm Islam là
nam, nữ phải cùng tôn giáo. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có trường hợp người Chăm


Islam kết hôn với người không cùng tôn giáo. Đối với người ngoại đạo, họ phải thực hiện
một số thủ tục và làm lễ nhập đạo trước khi làm lễ cưới.
Độ tuổi kết hôn: trước đây, nam nữ thường được xây dựng gia đình rất sớm, bởi vì hơn
nhân của họ do cha mẹ sắp xếp, khi ấy, độ tuổi của nữ khi kết hôn thường vào khoảng 15
– 18 tuổi. Cịn nam kết hơn ở độ tuổi từ 16 – 20. Hiện nay, tuổi kết hôn của nữ thường là
khoảng 18 – 20, còn nam từ 20 – 25.
Nguyên tắc kết hơn:
• Đối tượng kết hơn phải là người Chăm Islam hoặc những người đã đảm bảo đức tin
với Thánh Allah, thề sẽ tuân thủ các luật tục Hồi giáo.


Trong lễ cưới bắt buộc phải có cơ dâu và chú rể.



Cơ dâu chú rể là những người trưởng thành và có đủ trí khơn.

• Bắt buộc hơn lễ phải được sự chấp thuận của cha vợ và chú rể (biểu hiện của chế độ
phụ quyền).


Phải trao đủ số tiền đồng cho cơ dâu.


Trang phục: Ngồi trang phục cổ truyền cơ dâu và chú rể cịn mặc những trang phục cưới
hiện đại.
Vị chủ hơn (ơng Wali): Ơng Wali phải là người thuộc về họ bên nội của cô dâu (phụ hệ).
Có thể là cha cơ dâu hoặc ơng nội, ơng cố, anh em trai của cô dâu, chú bác ruột… Cũng
có thể mời các vị giáo cả, phó giáo cả hay các vị chức sắc, những người lớn tuổi có uy tín
trong xóm làm Wali.
Ơn Uốk và mụ Uốk: nhất thiết nhà trai phải có ơn Uốk và nhà gái phải có mụ Uốk. Đây là
những người rất am hiểu về các tập tục của dân tộc. Họ hướng dẫn cho cô dâu và chú rể
từ cách ăn mặc, trang sức đến cách trang trí phịng hoa chúc, các nghi thức hành lễ…
Ngoài ra, theo quan niệm của người Chăm Islam, ơn Uốk và mụ Uốk cịn có “phép
thuật”, có khả năng giúp cô dâu chú rể chống lại các thế lực “ma quái” theo quấy phá
đám cưới cũng như cuộc sống của đôi vợ chồng sau này.
Người mai mối (maha): Khi gia đình nhà trai xác định được đối tượng cần tiến tới hôn
nhân, họ sẽ nhờ mụ maha hay ơng maha đến nhà người con gái để tìm hiểu, dọa hỏi ý
kiến. Chủ yếu họ sẽ nói cho gia đình cơ gái biết có người muốn kết tóc se tơ với cơ; cho
gia đình cơ biết là họ sẽ đi tiền đồng, tiền chợ bao nhiêu. Maha thường là những người
trung niên trở lên, có uy tín. Nếu là mụ maha thì thường là vợ của ơng giáo cả, phó giáo
cả hay vợ của các thầy, các chức sắc trong làng.
Cách chọn ngày cưới: Không nhất thiết phải coi ngày khi cưới hỏi. Thông thường, họ sẽ
tổ chức vào khoảng thời gian sau mùa hành hương, tức tháng 12 theo lịch Islam (khoảng
tháng 3 tây lịch) hoặc tổ chức vào dịp sinh nhật Thiên sứ Muhammad, khoảng 12/3 theo
lịch Islam (khoảng tháng 7 Tây lịch). Vào thời điểm này, các gia đình người Chăm
thường tổ chức ăn mừng linh đình, nếu tổ chức đám cưới thì rất tiện lợi.
- Lễ hỏi (hay cịn gọi là đám nói): Vào ngày này, gia đình chú rể khoảng mười người bao
gồm cha mẹ, anh chị em và những người hàng xóm có uy tín sẽ mang lễ vật đến nhà cơ
gái. Trong đồn, nhất thiết phải có vị Ahly (trưởng các xóm, ấp) và ơng bà mai đi cùng.


Bên nhà gái, thường phải có cha mẹ cơ gái, thân nhân họ hàng và ông Ahly tham dự để
chứng kiến. Theo thông lệ, trong lễ này, nhà trai sẽ trao tiền chợ cho gia đình cơ gái.

Trong lễ nói, cha mẹ chàng trai khơng bắt buộc phải có mặt mà chỉ cần có người đại diện
trong dịng họ và ông maha hoặc mụ maha đứng ra trao đổi với nhà gái là được. Sau đó,
nếu xảy ra việc từ hơn thì chỉ cần thơng báo cho ơng mai hoặc bà mai mà thôi. Từ lễ hỏi
đến lễ cưới thời gian dài, ngắn tuỳ mỗi gia đình.
- Lễ cưới: Thường diễn ra trong hai ngày: ngày nhóm họ và ngày cưới (ngày đưa rể).
Ngày nhóm họ: Ngày nhóm họ (Harie padưng baguk) còn gọi là ngày dựng việc. Trong
ngày này, nhà trai và nhà gái đều trang hoàng nhà cửa lộng lẫy, sạch sẽ, tinh tươm. Cô
dâu sẽ được mụ Uốk trang điểm thật lộng lẫy, còn chú rể sẽ được Ôn Uốk hướng dẫn về
nghi thức ăn mặc, các cách hành lễ... Chiều ngày nhóm họ, cơ dâu và chú rể được mặc
trang phục cưới truyền thống của dân tộc và được trang điểm như trong ngày cưới chính
thức. Ôn Uốk và mụ Uốk sẽ tiến hành làm lễ cho cô dâu và chú rể ở hai nơi khác nhau.
Sau đó, có một vị bơ lão sẽ khấn vái đọc kinh cùng những người chung quanh chúc tụng
hướng về cơ dâu hoặc chú rể. Bài kinh này có nội dung như lời giao ước chấp nhận cuộc
hôn nhân trước Thánh Allah.
Tối đến các thanh niên tụ hợp tại cô dâu và nhà chú rể để chúc mừng. Cô dâu và chú rể sẽ
tiếp đãi bạn bè. Đây là dịp để các cơ gái cấm cung được gia đình đưa đến tham dự. Thơng
thường, các bè mẹ có con trai sẽ nhân dịp này mà xem mặt, tìm kiếm bạn đời cho con trai
mình.


Ngày cưới: cịn gọi là ngày đưa rể. Trong ngày này, họ hàng và bạn bè đàng trai cùng tụ
hợp để đưa chàng rể về nhà cô dâu. Người ta thường nhờ hai em bé trai bưng hai cái
khay. Một khay đựng tiền đồng, một khay đựng trầu cau. Ngoài ra, lễ vật nhà trai mang
qua nhà gái cịn có một mâm trái cây, một mâm bánh ngọt, một chén nhỏ đựng gạo.
Đến nhà gái, mọi người chỉ được tập trung ở phịng ngồi, chuẩn bị cho lễ trao tiền đồng
và lễ “Kobol”. Nhà gái thường trải chiếu cho quan khách ngồi ngay gian ngoài. Khi mọi
người ổn định chỗ ngồi xong, ông Wali sẽ giao số tiền đồng cho đại diện nhà gái trước sự
chứng kiến của mọi người.
Tiếp theo, họ sẽ tiến hành lễ gả, gọi là “Kobol”. Chú rể được đưa đến ngồi trước mặt cha
mẹ vợ, vị đại diện chủ hôn bên nhà gái, ông mai bà mối và những người làm chứng. Một

người đứng tuổi, có uy tín, thường là vị chức sắc trong giáo hội, được nhà gái yêu cầu
trước sẽ đọc những lời “khot bah” cho chú rể nghe. Nội dung lời “khot bah” là những
khuyến cáo về hôn nhân, nghĩa vụ của vợ chồng, những điều cấm kỵ của luật tục và luật
đạo trong cuộc sống vợ chồng.
Sau lời “khot bah”, vị chủ hôn bên nhà gái sẽ nắm lấy tay chú rể, long trọng tun bố:
“gia đình tơi bằng lịng gả con gái tơi, tên......... cho chàng trai, tên.................... với số tiền
đồng là.......”. Lập tức, chàng rể phải trả lời ưng thuận: “Tôi xin nhận người con gái này,
từ đây là vợ chính thức của tơi, có nộp số tiền đồng là................”.
Khi chú rể đáp lại xong, ông Wali và các bô lão sẽ đọc kinh chúc phúc cho đôi trẻ.
Sau khi mọi người cầu nguyện xong, chú rể được Ơn Uốk đưa vào phịng cơ dâu, đến
trước mặt cô dâu, đạt khai trầu xuống và rút cây trâm cao nhất trên đầu cô dâu. Đây là
cây trâm có biểu tượng hình mặt trăng lưỡi liềm và ngơi sao, một biểu tượng chứng tỏ cô


dâu là người Islam. Một vị bô lão sẽ đứng ra cầu nguyện cho cô dâu và chú rể, mọi người
cùng hồ theo. Sau đó, chú rể sẽ thay trang phục và cùng ra gian nhà ngoài tiếp chuyện
cùng bạn bè.
Tối đến là lễ hợp cẩn (mă săm chăm nêk). Những người phụ nữ đứng tuổi, có đầy đủ
chồng con đến giăng mùng, chuẩn bị gối mền cho đôi tân lang và tân nương. Trước khi
động phịng hoa chúc, đơi vợ chồng sẽ cùng ăn chung bữa cơm đầu tiên, có tính tượng
trưng cho việc bắt đầu sự chung sống của hai người. Người ta cũng bày tiền ra cho hai vợ
chồng giành. Người ta tin rằng nếu vợ hoặc chồng giành lấy được nhiều tiền hơn, sau này
họ sẽ là người nắm tài sản, quyền hành trong gia đình.
Sau 3 ngày, họ hàng, cha mẹ chú rể cùng nhau đến thăm hai vợ chồng mới, đem theo đủ
các thứ vật dụng cần dùng cho một gia đình. Nhà gái cũng làm một bữa tiệc để đãi đàng
trai cùng một số bà con đến chứng kiến tài sản của nhà trai tặng cho vợ chồng mới.
- Nghi lễ trong giai đoạn tử: Người Chăm Islam quan niệm, con người có 4 thế giới.
Trong đó, cõi sống chỉ là cõi tạm để chuyển qua cõi vĩnh hằng sau khi con người chết đi
và chịu sự phán xét cuối cùng của Thánh Allah. Chính vì quan niệm đó mà người Chăm
Islam tỏ ra hết sức bình thản đối với cái chết.

Khi gia đình có người hấp hối, người nhà sẽ đi báo cho bà con lân cận đến để cùng đọc
kinh cầu cho linh hồn người chết bình thản rời khỏi cõi đời. Khi bệnh nhân tắt thở, người
nhà sẽ dùng tay thấm nước sạch vuốt mặt người chết.
Thường thì người chết được chôn trong ngày (24 giờ). Nếu chết buổi sáng thì chiều chơn;
nếu chết buổi tối thì sáng hơm sau chôn. Trước khi chôn, tử thi phải được tắm rửa (lễ
mộc dục) sạch sẽ. Người ta sẽ đưa tử thi vào bên trong, dùng xà phòng và nước sạch cọ
rửa nhiều lần. Dùng bơng gịn tẩm dầu thơm ngốy lỗ tai, mắt, mũi, miệng tử thi nhiều
lần cho thật sạch.
Khi tắm rửa tử thi xong, người ta đặt tử thi lên một bộ ván và xé vải trắng liệm tử thi. Vải
trắng thể hiện sự tinh khiết của người chết. Vải chỉ được dùng tay xé, không được dùng
dao kéo cắt và cũng không được dùng kim chỉ may lại. Tiếp theo, người ta quấn tử thi
bằng ba lớp vải trắng. Các khớp xương của tử thi có thể được lót thêm lớp bơng gịn.
Khâm liệm xong, ơng Hakêm hoặc ông Ahly sẽ đến kiểm tra xem tử thi có được liệm
đúng thủ tục Islam hay không. Nếu đúng rồi, các ông sẽ đọc kinh cầu nguyện cho vong
hồn người chết. Mọi người cũng đọc theo. Không cúng bánh trái, nhang đèn cho người
chết. Người Chăm cũng khơng có tục nhận tiền phúng điếu.
Người Chăm Islam ở An Giang chôn người chết. Huyệt mộ khác hẳn so với các dân tộc
khác. Huyệt phải sâu quá đầu người (khoảng 1,8 mét), chiều dài khoảng 1,8 đến 2 mét,
chiều ngang khoảng 1 đến 1,2 mét. Huyệt luôn được đào theo hướng Bắc - Nam. Dưới
đáy huyệt của người Chăm Islam An Giang, bên phía Tây, người ta khoét một cái lỗ theo
chiều dài vừa với tử thi. Khi chôn, tử thi nằm nghiêng bên phải, mặt và ngực quay về
hướng mặt trời lặn (hướng Tây, hướng của Thánh địa Mecca). Ngoài ra, tử thi phải được
ép vừa vặn vào cái lỗ đã khoét, dùng tấm ván chèn bên ngoài rồi mới lấp đất lại. Phần
phía dưới của người chết phải trực tiếp chạm với đất. Ngay cả tấm ván chặn tử thi cũng
phải là ván mau mục để thi thể người chết sớm phân hủy, vong hồn của họ mới sớm về
với Thượng đế. Không được chôn theo quần áo hay bất kỳ vật gì cho người chết.


Người ta để tử thi lên một tấm ván to gọi là “hanh đu”. Các thanh niên sẽ khiêng “hanh
đu” ra đồng chôn. Thông thường người chết được chôn trong nghĩa địa của Islam. Trong

quá trình vận chuyển “hanh đu”, nghiêm cấm tiếng khóc than, khơng có tiếng kèn trống
gì cả.
Người thân và bà con đi đưa tang đứng quanh huyệt để đọc kinh cầu nguyện cho người
quá cố. Lúc bấy giờ, họ sẽ gọi tên thánh (được đặt trong lễ cắt tóc và đặt tên lúc nhỏ)
người quá cố nhiều lần để nhắn nhủ những điều họ cần chuẩn bị để tiếp đón hai vị thần
Monkar và Nakir đến thẩm vấn.
Phần mộ của người Chăm Islam không được đắp mô lên mà phải được san lấp cho bằng
phẳng, đánh dấu phần mộ bằng cách dựng hai tấm bia hoặc đóng hai thanh gỗ ở đầu và
chân mộ. Trên đó có ghi họ tên người chết, ngày, tháng, năm qua đời. Dựng xong hai tấm
bia xem như công việc chôn cất hồn tất.
Buổi tối ngày chơn cất, bạn bè, người thân của tang chủ đến nhà tang chủ để cầu nguyện.
Các đoạn kinh Koran được ngâm đọc với giọng trầm đều. Sau khi cầu nguyện, tang chủ
đãi cháo gà hoặc bánh ngọt tùy hồn cảnh từng gia đình. Việc cầu nguyện như thế sẽ diễn
ra trong ba đêm liền. Sau đó, người ta cịn cầu nguyện vào các đêm thứ 7, thứ 10, thứ 40,
thứ 100 và một lần nữa vào đúng 1 năm kể từ lúc người mất. Người ta không tổ chức lễ
giỗ mà bất cứ lúc nào có của ngon vật lạ, họ có thể cầu nguyện để tưởng nhớ chung cho
những người quá cố. Họ cũng khơng nhất thiết đọc kinh tại nhà mà có thể nhờ thầy Imâm
đọc giùm.
Người Chăm Islam ở An Giang không làm bàn thờ để thờ cúng ông bà, tổ tiên. Giáo luật
nghiêm cấm việc thờ cúng các di ảnh hay mẫu tượng. Trong nhà có người chết cũng
khơng mặc tang phục. Họ cũng không cần chọn đất mai táng. Ai chết ở đâu thì chơn ở
khu vực đó, chỉ cần thực hiện đúng quy tắc mai táng là được. Ngoài ra, họ cũng khơng có
tục tảo mộ.
Các nghi lễ vịng đời của người Chăm Islam An Giang so với người Chăm Bà ni
và Chăm Bà la mơn vẫn có những điểm tương đồng nhất định, nhưng về cơ bản vẫn khác
nhau. Sự tương đồng này bắt nguồn từ cội rễ xa xưa tổ tiên của ba cộng đồng người này,
đó là có chung nguồn gốc, cùng sống chung trong vương quốc Champa. Tuy nhiên, theo
dịng lịch sử, với q trình di cư, cộng cư liên tục, mỗi cộng đồng dân tộc sẽ có sự giao
lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa cho phù hợp. Trong sự biến đổi ấy, nhất định có sự
biến đổi các nghi lễ vịng đời. Mặt khác, vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo khác biệt là nguyên

chính dẫn đến sự khác biệt trong các nghi lễ vòng đời của mỗi cộng đồng dân tộc. Điều
đáng nói là, tuy có sự khác biệt cơ bản, nhưng nhìn chung nghi lễ vịng đời của người
Chăm Islam An Giang, người Chăm Bà ni hay người Chăm Bà la mơn khu vực Ninh
Thuận, Bình Thuận đều chứa đựng những giá trị độc đáo. Chúng ta cần có những giải
pháp hợp lý để duy trì và phát huy các giá trị tích cực, khắc phục những điểm lạc hậu,
tiêu cực trong nghi lễ vòng đời của ba cộng đồng dân tộc này.
Qua quá trình điền dã, khảo sát và nghiên cứu một cách hệ thống về nghi lễ vòng
đời của người Chăm Islam ở An Giang, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau đây:
- Cần có những chính sách hợp lý nhằm phục dựng các nghi lễ vòng đời của
người Chăm Islam ở An Giang. Bởi lẽ, hiện nay hầu hết các nghi lễ này đã có những biến


đổi nhất định. Mặc dù sự biến đổi ấy vừa mang yếu tố tích cực, vừa chứa những hạn chế.
Song, nếu chúng ta khơng phục dựng, bảo tồn thì một thời gian không lâu, các nghi lễ
truyền thống này sẽ biến dạng hoặc mất đi. Theo chúng tôi, khi phục dựng các nghi lễ,
cần phải sao chụp, ghi hình và lưu trữ, bảo quản một cách nghiêm túc.
- Đọc qua hơn 2.000 danh mục đề tài, bài viết về văn hóa Chăm trong và ngồi
nước, chúng tơi nhận thấy các học giả đã đề cập ở khá nhiều phương diện. Tuy nhiên, hầu
hết chỉ tập trung nghiên cứu văn hóa Chăm Bà la môn, Chăm Bà ni khu vực Miền Trung.
Trong khi đó, việc nghiên cứu về người Chăm Islam ở An Giang cịn khá khiêm tốn. Văn
hóa người Chăm Islam An Giang chứa đựng nhiều yếu tố đặc sắc, cần phải được các nhà
khoa học trong và ngoài nước quan tâm hơn nữa. Riêng tỉnh An Giang cần có những
chương trình, đề án cụ thể nhằm khuyến khích việc nghiên cứu, vực dậy những giá trị văn
hóa độc đáo còn tiềm ẩn trong cộng đồng dân tộc.
- Liên quan đến vấn đề nghi lễ vòng đời người Chăm Islam, chúng tơi nhận thấy
nên có những cơng trình sưu tầm, dịch thuật các bài, đoạn kinh được đọc trong các nghi
lễ này. Ví dụ: Những bài kinh đọc trong cắt tóc và đặt tên cho đứa bé; kinh đọc khi làm lễ
cắt da quy đầu, kinh đọc trong các nghi lễ cưới xin và trong tang lễ…
- Nhờ những chủ trương, chính sách tích cực của Đảng và Nhà nước, đời sống vật
chất của đồng bào Chăm Islam ở An Giang đã có sự tiến bộ rất rõ nét trong thời gian qua.

Tuy vậy, việc tiếp thu các yếu tố mới trong đời sống hiện đại ít nhiều đã ảnh hưởng đến
những giá trị truyền thống của dân tộc, nếu khơng có sự sàng lọc thích hợp. Hiện nay,
hầu như chỉ có các vị giáo cả, phó giáo cả hoặc các vị chức sắc, bô lão ở các làng Chăm
là nắm được những nghi lễ vòng đời truyền thống của dân tộc mình khá hồn chỉnh.
Trong khi đó, giới trẻ Chăm dần thờ ơ với các phong tục truyền thống, thay vào đó là sự
sín ngoại, sự đua địi đơi khi thái quá. Trước tình hình này, các cấp, các ngành hữu quan
cần có chính sách, biện pháp thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy vốn văn hóa dân tộc.
Văn hóa người Chăm Islam ở An Giang chứa đựng nhiều yếu tố đặc sắc. Nghi lễ
vòng đời người là một trong những yếu tố quan trọng trong văn hóa tinh thần của cộng
đồng Chăm Islam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm sâu sắc của các cấp chính
quyền địa phương, đồng bào Chăm ở An Giang ngày càng phát triển về mọi mặt, sánh vai
với các dân tộc anh em trong quá trình hội nhập. Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nền văn hóa Chăm có nhiều biến đổi và cũng có chiều hướng mai một. Đó là điều tất
yếu, khách quan. Các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương cần có những chính
sách phù hợp và những giải pháp kịp thời nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quý
báu này, góp phần quan trọng vào chiến lược xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.



×