Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH DOANH

HOÀNG VĂN TIẾN

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH DOANH

HOÀNG VĂN TIẾN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VŨ HẢI

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Vũ Hải. Các số liệu, kết luận được
trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tác
giả hồn tồn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn./.

Xác nhận của Người hướng dẫn

Tác giả

Hoàng Văn Tiến


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn đến TS. Trần Vũ
Hải, người đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi về mặt khoa học trong suốt thời gian thực
hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Viện Đại học Mở Hà Nội, Khoa sau Đại học, Khoa Luật Kinh
tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thành viên gia đình, bạn bè đã động
viên, ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu hồn
thành bài luận văn của mình.
Tác giả

Hồng Văn Tiến


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH DOANH ................. 5
1.1 Những vấn đề cơ bản về thuế Thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh.......5
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh
doanh ........................................................................................................ 5
1.1.2. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ cá nhân kinh
doanh ..................................................................................................... 13
1.2 Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh
doanh ..................................................................................................... 15
1.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh
doanh ..................................................................................................... 15
1.2.2. Nội dung pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh ......... 19
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân
kinh doanh ............................................................................................. 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH
DOANH ...................................................................................................... 25
2.1. Thực trạng quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
kinh doanh ................................................................................................ 25


2.1.1. Quy định về đối tượng chịu thuế ................................................... 25
2.1.2. Quy định về chủ thể nộp thuế........................................................ 28
2.1.3. Phương pháp tính thuế và căn cứ tính thuế................................... 31

2.1.4. Quy định về thủ tục thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh......... 43
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh. 47
2.2.1. Những thành tựu đạt được ............................................................ 47
2.2.2. Những bất cập trong quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN đối
với cá nhân kinh doanh .......................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 57
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO THI HÀNH
PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH
DOANH ...................................................................................................... 59
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh . 59
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
kinh doanh ................................................................................................ 61
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện nội dung quy định pháp luật thuế TNCN đối
với cá nhân kinh doanh. ......................................................................... 61
3.2.2 Kiến nghị nâng cao cơ chế quản lý thuế TNCN đối với cá nhân kinh
doanh...................................................................................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 67
TỔNG KẾT ......................................................Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 72


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT

: Công nghệ thông tin

CSDL

: Cơ sở dữ liệu


GTGT

: Giá trị gia tăng

KSTNCN

: Kiểm soát thu nhập cá nhân

TNCN

: Thu nhập cá nhân

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau ba mươi năm đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế theo mơ hình kinh tế
thị trường định hướng XHCN, với phương châm cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất
nước cùng với lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp, Việt Nam đã đạt được những thành
tưu to lớn, tạo nên hình ảnh đầy sức thuyết phục về một Việt Nam đổi mới, phát
triển và hội nhập quốc tế. Đóng góp khơng nhỏ vào thành cơng chung đó là cơng
cuộc cải cách hệ thống thuế do nhà nước thực hiện. Các sắc thuế nói chung và thuế
TNCN nói riêng đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, là công cụ
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra.
Với nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát

triển. Trong đó, bộ phân cá nhân,hộ kinh doanh cũng được Nhà nước khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi cả về thủ tục thành lập đến cải cách quản lý thuế.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2014, cả nước có tổng
cộng 4.658 triệu hộ kinh doanh cá thể với số lượng lao động gần 8 triệu người. Với
số lượng đông đảo, loại hình sản xuất kinh doanh phong phú, có mặt khắp các địa
phương trong cả nước, các hộ kinh doanh cá thể đã và đang khẳng định vai trò cũng
như những đóng góp hiệu quả vào sự phát triển của đất nước. Bằng việc sử dụng số
lượng lớn lao động từ các hộ gia đình ở các địa phương, tạo ra các chủng loại sản
phẩm hàng hóa dịch vụ đa dạng, phong phú, các hộ kinh doanh cá thể không những
giải quyết việc làm, tăng thu nhập... mà còn là mạng lưới rộng lớn, phát triển về
những vùng xa, vùng khó khăn mà các lĩnh vực kinh doanh khác không đáp ứng
được. Đây là kênh phân phối và lưu thông hàng hóa quan trọng, giúp cân đối
thương mại và phát triển kinh tế địa phương.

1


Bên cạnh đó, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ kinh doanh cá
thể cịn đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Từ trước đến nay, khu vực kinh tế
ngồi Nhà nước là khu vực có tỷ trọng đóng góp cao nhất trong GDP. Theo số liệu
của Tổng cục Thống kê (2014), nếu như kinh tế Nhà nước đóng góp 32,2% vào
GDP, thì kinh tế ngồi Nhà nước góp tới 48,3%; (Kinh tế tập thể 5%, Kinh tế tư
nhân 10,9%, Kinh tế cá thể 32,3%); Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi 19,5%.
Với sự phát triển ngày càng nhanh của thành phân kinh tế cá thể, để quản thuế
đạt hiệu quả với nhóm đối tượng này, vừa qua Bộ Tài chính đã ban hành Thơng tư
hướng dẫn hoạt động thu thuế TNCN và thuế GTGT với nhóm cá nhân cư trú có
hoạt động kinh doanh. Quy định mới này đã đem lại những kết quả tích cực cả về
phía nhà nước và người dân. Bên cạnh đó, những quy định mới vẫn cịn một số
điểm vướng mắc cần phải tháo gỡ, giải quyết để hệ thông pháp luật thuế được hoạt
thiện và gắn liền với thực tế đời sống.

Chính vì vậy, người viết lựa chọn đề tài “Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối
với cá nhân kinh doanh” làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay có khá nhiều cơng trình nghiên cứu chun biệt về nội dung thuế thu
nhập cá nhân: Nguyễn Hải Ninh, “Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá
trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật
học, 2017, Hồ Thị Hải, “Một số vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học, 2014, Tạ
Minh Hảo, “Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam- Thực trạng và
giải pháp”, Luận văn thạc sĩ luật học, 2013,… Các cơng trình này được thực hiện tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Ngoài ra, các cơng trình nghiên cứu là những bài báo khoa học đăng trên tạp
chí khoa học như: Bùi Khánh Tồn(2016) “Hiện đại hóa ngành thuế nhìn từ quản lý
thuế đối với thương mại điện tử”, Tạp chí Tài chính kỳ 1, số tháng 2/2016, Ngô Thị
Thu Hà, Đinh Văn Linh (2016), “Hoàn thiện hành lang pháp lý về thuế đối với hộ
kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 Tháng 5/2016, Trần Minh Đức
(2012), “Cơ sở xác định thu nhập chịu thuế trong pháp luật Thuế thu nhập cá nhân
dưới góc độ cơng bằng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 2/2012,…

2


Những cơng trình nghiên cứu khoa học gần đây chủ yếu tập trung giải quyết
những vẫn đề chung của thuế TNCN mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào thực
sự phân tích, làm rõ vấn đề thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm sáng rõ các vấn đề lý luận về thuế TNCN
đối với cá nhân kinh doanh, qua đó dánh giá những thành tựu và hạn chế của quy
định pháp luật hiện nay về thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh và thực tiễn thi
hành pháp luật.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành
điều chỉnh hoạt động thu nộp thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh.
- Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, luận văn nghiên cứu cả chính sách và pháp
luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh của Việt Nam. Các nghiên cứu ngồi nước
chỉ có ý nghĩa tham khảo. Về thời gian, giới hạn nghiên cứu của luận văn là các văn
bản pháp luật về thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh cho đến thời điểm hiện tại và
trong mối tương quan với chính sách và pháp luật thuế hiện hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
Lênin, phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Những phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh. Phương
pháp phân tích dùng để luận giải những khái niệm, nội hàm, bản chất của vấn đề
nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp dùng để rút ra quy luật, từ đó kết luận vấn đề
nghiên cứu. Trong q trình phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, trong đó
chủ yếu là so sánh luật học, được sử dụng để làm nổi bật phân tích hoặc kết luận.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của cơng trình nghiên cứu
Về mặt lý luận, luận văn sẽ làm rõ những nguyên tắc, yêu cầu trong việc ban
hành và thực hiện pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh để làm cơ sở
đánh giá, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành sao cho có hiệu quả hơn.

3


Về mặt thực tiễn, luận văn sẽ tổng kết quá trình thực hiện pháp luật, đánh giá
những bất cập đã phát sinh trên thực tế để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật thuế
TNCN đối với cá nhân kinh doanh tại Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cơ cấu

của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân
kinh doanh
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN
đối với cá nhân kinh doanh tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thi hành pháp luật thuế TNCN đối
với cá nhân kinh doanh tại Việt Nam

4


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN
KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KINH DOANH
1.1 Những vấn đề cơ bản về thuế Thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình
thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện
các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chỉ
tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước " trích thủ" một phần
của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Một trong những phương thức huy
động để tạo nên nguồn lực tài chính này cho nhà nước chính là thuế.
Mặc dù sự ra đời của thuế mang tính tất yếu khách quan, song cũng phải thấy
rằng quan niệm về thuế ở mỗi thời kỳ lại khác nhau. Trong thời kỳ cổ đại, khi sức
sản xuất chưa phát triển, quan hệ trao đổi diễn ra chủ yếu dưới hình thức hiện vật thì
ý niệm về thuế khoá rất đơn giản và thuế phần lớn được thể hiện dưới dạng hiện vật
và lao vụ. Bước sang thời kỳ hiện đại cùng với việc mở rộng các chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước và sự phát triển của các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, các hình thức

thuế ngày càng đa dạng, phong phú và đã được tiền tệ hoá, nên trong thời kỳ này
phần lớn thuế được thể hiện dưới hình thức giá trị.
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối về khái niệm thuế. Với các
góc độ nghiên cứu khác nhau thì thuế được hiểu với các nghĩa khác nhau, cụ thể:
Theo từ điển tiếng việt, Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc
các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải nộp
cho nhà nước theo mức quy định. Như vậy, theo cách hiểu thơng thường có thể hiểu
thuế được biểu hiện bằng tiền hoặc hiện vật, là nghĩa vụ bắt buộc mà tổ chức, cá
nhân phải nộp cho nhà nước theo những điều kiện nhất định.

5


Nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra một định
nghĩa tương đối cổ điển về thuế: “ Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính
chất xác định, khơng hồn trả trực tiếp do các cơng dân đóng góp cho nhà nước
thơng qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà Nước".
Dưới góc độ kinh tế học, thuế lại được hiểu là: một hình thức phân phối thu
nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực
chính trị,tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và
khơng hồn lại.
Cịn dưới góc độ pháp lý thì: thuế là một khoản thu nộp bắt buộc mà các tổ
chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.
Như vậy, tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách thức Nhà nước sử
dụng, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm về thuế khác nhau, mỗi quan điểm đều
nhấn mạnh một chiều theo từng góc độ khác nhau. Mặc dù đến nay cịn nhiều tranh
cãi về khái niệm của thuế nhưng các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, để làm rõ bản
chất của thuế thì định nghĩa của thuế phải nêu bật được các nội dung sau:
Thứ nhất, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc. Tất cả chủ thể đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật đều phải nộp thuế.

Thứ hai, thuế mang tính quyền lực nhà nước. Bằng quyền lực chính trị, nhà
nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ gắn với
yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hồn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài
chính cho nhà nước. Chính vì thế, để gắn yếu tố quyền lực nhà nước cho thuế, các
quốc gia đều có xu hướng ghi nhận thuế ở văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất là
các luật thuế.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá và hồn trả trực tiếp. Thuế không phải là
khoản phải trả khi các đối tượng nộp thuế đã nhận được một lợi ích hay quyền lợi
cụ thể nào từ phía nhà nước. Bất kỳ ai khi đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ
thuế đối với nhà nước, không phân biệt họ đã nhận được những lợi ích cơng cộng
nào. Kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là các sản phẩm cơng,
đây là sự hồn trả một cách gián tiếp cho những khoản tiền nộp cho Nhà nước.
Người nộp thuế nhận được những lợi ích này thơng qua chi tiêu xã hội, những lợi
ích mà người nộp thuế được thụ hưởng trong xã hội.

6


Từ những đặc trưng cơ bản của thuế, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về
thuế như sau: "Thuế là khoản trích nộp bằng tiền, mang tính bắt buộc, tính quyền
lực nhà nước, tính khơng đối giá và hoàn trả trực tiếp do các tổ chức, cá nhân nộp
cho nhà nước khi đủ những điều kiện nhất định nhằm đáp ứng việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước".
Căn cứ đối tượng chịu thuế, các sắc thuế thường được phân loại thành thuế thu
nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản. Trong đó thuế thu nhập là loại thuế đóng vai
trị càng ngày quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam.
Thuế thu nhập là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập làm đối tượng tính
thuế. Tuy nhiên, hiện nay, có khá nhiều quan điểm về thu nhập. Dưới các góc độ
nghiên cứu khác nhau thì thu nhập lại được hiểu khác nhau, cụ thể:
Theo cuốn từ điển Bách khoa thì: “Thu nhập là giá trị nhận được của một

pháp nhân hay thể nhân nào đó trong một khoảng thời gian nhất định không phân
biệt nguồn gốc phát sinh. Giá trị đó có thể được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay
các giá trị vật chất, phi vật chất nhưng có thước đo chung là tiền tệ”
Từ điển Black’s Law lại đưa ra một định nghĩa khác: “Thu nhập là phần
chênh lệch giữa khoản thu về và chi phí bỏ ra. Loại thu nhập này lại gồm thu nhập
từ lao động( tiền công, tiền lương bao gồm cả lương hưu, các khỏa trợ cấp bao gồm
cả học bổng) và thu nhập tài chính ( lãi tiết kiệm, lãi mua bán chứng khoán, thu
nhập từ cho thuê bất động sản) và các thu nhập khác ( tiền thưởng…).
Ở phương diện kinh tế học, các nhà kinh tế học cho rằng, “thu nhập” được
hiểu là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất
định, mà trong đó “tiền” được hiểu là những lợi ích thu được cả bằng tiền và bằng
hiện vật mà được quy đổi thành tiền ở thời điểm nhận được, bao gồm cả giá trị của
các sản phẩm sản xuất ra để tự tiêu dùng, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, lao động hay ngoài lao động, từ quyền sở hữu tài sản….
Như vậy, dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng thu nhập của một tổ chức
hoặc cá nhân thường được nhận biết qua các dấu hiệu sau:

7


Thứ nhất, thu nhập luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế,
xã hôi – thể hiện tính sở hữu của chủ thể đó đối với khoản thu nhập và không phân
biệt nguồn gốc thu nhập.
Thứ hai, thông thường việc xác định thu nhập của chủ thể khác nhau trong một
thời gian nhất định được biểu hiện dưới hình thức giá trị, là hình thức thơng qua đó
có thể biết được tổng số thu nhập từ các nguồn khác nhau của một cá nhân hay một
pháp nhân khác.
Thứ ba, thu nhập được hình thành thơng qua quá trình phân phối lần đầu và
phân phối lại thu nhập quốc dân.
Thứ tư, thu nhập có thể tồn tại dưới hai hình thức là tiền tệ và hiện vật, nhưng

khi xác định thu nhập của một chủ thể nào đó thì chúng đều phải được quy đổi
chung về thước đo tiền tệ ( giá trị).[20]
Chính vì khơng có một định nghĩa cụ thể nên thông thường các nhà nghiên
cứu kinh tế, pháp lý không đưa ra định nghĩa tổng quát về thu nhập mà thường liệt
kê các khoản được gọi là thu nhập của các tổ chức, cá nhân khi các khoản này thỏa
mãn các dấu hiệu kể trên. Chẳng hạn như thu nhập từ hoạt động kinh doanh, tiền
lương, tiền công, đầu tư vốn, trúng thưởng…
Thuế thu nhập thường được phân chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh
nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Khác với thuế thu nhập doanh nghiệp, có đối
tượng chịu thuế là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu là các loại hình
doanh nghiệp thì thuế TNCN là loại thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập của các
cá nhân.[8]
Thuế TNCN được coi là công cụ quản lý, phân phối thu nhập cá nhân trong xã
hội. Các chủ thể nộp thuế TNCN là những cá nhân có thu nhập từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, từ tiền lương tiền cơng và những nguồn thu nhập khác. Trong đó,
thuế TNCN đánh vào thu nhập từ hoạt động kinh doanh của cá nhân được gọi là
thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh.
Hiện nay, kinh doanh được coi là hoạt động mũi nhọn phát triển kinh tế của các
quốc gia. Kinh doanh là hoạt động xảy ra hàng ngày dưới nhiều hình thức mà ta có thể
nhận biết được, tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về kinh doanh.

8


Theo Từ điển tiếng Việt, “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất
bn bán cho sinh lời”.
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là phương thức mà thông qua đó các chủ thể
kinh doanh quan hệ với nhau trong nền sản xuất hàng hóa. Hay nói cách khác, kinh
doanh phản ánh quan hệ giữa người với người trong sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị

đã bỏ ra ban đầu.[25]
Dựa trên nguồn gốc, có thể thấy kinh doanh là mơt phạm trù gắn liền với sản
xuất hàng hóa, có mối quan hệ mật thiết đối với quan hệ sở hữu. Kinh doanh bắt
nguồn từ quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và bị quan hệ sở hữu chi phối. Tính chất
chi phối của quan hệ sở hữu đối với kinh doanh thể hiện ở chỗ, mỗi chế độ sở hữu
lại có một chế độ, một kiểu kinh doanh nhất định; quan hệ sở hữu quy định bản chất
xã hội, mục đích và xu hướng vận động của quan hệ kinh doanh. Tuy nhiên quan hệ
sở hữu không tạo ra và cũng không làm tăng thêm sản phẩm, tăng thêm giá trị mà
nó chỉ là điều kiện cơ bản, tiên quyết của kinh doanh.[14]
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm kinh doanh được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật của Việt Nam. Khái niệm kinh doanh lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều
3 Luật công ty 1990 và sau đó được kế thừa và hồn thiện trong Luật Doanh nghiệp
(1999), Luật Doanh nghiệp (2005), và Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó:“Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, dù dưới góc độ nào, hoạt động kinh doanh cũng ln gắn liền với
hàng hố hoặc dịch vụ, và mục đích mà các chủ thể hướng tới khi hoạt động kinh
doanh đó là thu về lợi nhuận.
Trong nền kinh tế, có thể nói hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sức tăng trưởng
kinh tế và sự tồn tại của xã hội. Trong các chủ thể kinh doanh, bên cạnh những chủ
thể giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế như các doanh nghiệp,

9


thực tế cịn tồn tại một nhóm chủ thể kinh doanh nhỏ lẻ, nhưng có vai trị khơng nhỏ
đối với sự phát triển của nền kinh tế, chủ thể đó là cá nhân sản xuất kinh doanh.
Mặc dù hoạt động kinh doanh của cá nhân diễn ra với quy mô nhỏ, nhưng số lượng

cá nhân hoạt động kinh doanh lại vơ cùng lớn, do đó, vấn đề quản lý đối với nhóm
chủ thể này là vơ cùng quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa đưa ra một
khái niệm cụ thể về cá nhân kinh doanh.
Theo nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2007 về cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh
ghi nhận khái niệm cá nhân hoạt động thương mại như sau: “Cá nhân hoạt động
thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các
hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm những cá nhân
thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán khơng có địa
điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả
việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh
doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc khơng
có địa điểm cố định;
c) Bán q vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có
hoặc khơng có địa điểm cố định;
d) Bn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến
để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trơng
giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc khơng có địa
điểm cố định;

10


e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng ký kinh doanh khác”.

Như vậy, quy định này mới chỉ ghi nhận một nhóm cá nhân kinh doanh đặc
thù, đó là cá nhân kinh doanh thương mại. Trên thực tế, các cá nhân kinh doanh nói
chung có thể đăng ký kinh doanh hoặc khơng đăng ký kinh doanh để tiến hành hoạt
động kinh doanh và tiến hành nhiều hoạt động kinh doanh khác ngoài những hoạt
động đã được liệt kê ở trên.
Do đó, dựa trên khái niệm “kinh doanh” có thể hiểu: Cá nhân kinh doanh là
những cá nhân thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về thuế thu nhập
cá nhân đối với hoạt động kinh doanh như sau:
Thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh là khoản trích nộp bằng tiền của cá
nhân thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi đóng góp cho nhà nước.
Từ định nghĩa trên cho thấy Thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh
mang đầy đủ các đặc điểm của thuế nói chung như: là khoản thu mang tính bắt
buộc, mang tính quyền lực nhà nước, khơng có tính đối giá và hồn trả trực tiếp.
Bên cạnh đó, thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh cịn có một số đặc trưng cơ
bản như sau:
Thứ nhất, Thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh là loại thuế trực thu
Tính chất trực thu của loại thuế này thể hiện: Thuế TNCN đánh trực tiếp vào
thu nhập thuộc diện chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Chính vì thế, thuế TNCN đối
với cá nhân kinh doanh cũng mang đặc điểm chung của thuế TNCN đó là, người
nộp thuế và người chịu thuế là một. Cá nhân kinh doanh là người phải gánh tiền
thuế nhưng cũng đồng thời là người nộp thuế cho nhà nước. Đây là đặc điểm quan
trọng để phân biệt với các loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ

11



đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu… Chính vì thế nên cá nhân kinh doanh khó có
thể chuyển gánh nặng nộp thuế cho người khác. Do vậy, tâm lý của người chịu thuế
thường nặng nề hơn khi thực hiện nghĩa vụ thuế này so với các loại thuế gián thu.
Tuy nhiên, bên cạnh đó thì tính chất thuế trực thu của thuế TNCN còn tạo khả năng
để Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, từ
đó đảm bảo cơng bằng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Thứ hai, thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh có chủ thể nộp thuế là các cá
nhân kinh doanh.
Như đã phân tích ở trên, cá nhân kinh doanh là những cá nhân thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Trong
nền kinh tế, khi cá nhân kinh doanh là một bộ phận nhỏ, thì các doanh nghiệp lại
đóng vai trị chủ chốt với hoạt động kinh doanh đa dạng, quy mô hoạt động lớn,
nguồn vốn dồi dào. Chính sự khác biệt về hoạt động, cơ cấu tổ chức và quy mô nên
dù cùng tiến hành hoạt động kinh doanh, nhưng cá nhân kinh doanh hiện nay khơng
cịn xếp vào đối tượng nộp thuế TNDN như trước đây. Cá nhân kinh doanh có quy
mơ nhỏ lẻ, nguồn vốn khơng lớn, thu nhập có được từ hoạt động kinh doanh
thường chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, trong khi thuế TNDN lại là sự huy động
đóng góp vào ngân sách nhà nước đối với các doanh nghiệp – những chủ thể có
nguồn thu nhập lớn, do đó, nếu xếp cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế
TNDN là không hợp lý và đặt gánh nặng lên các cá nhân. Thuế TNCN đối với cá
nhân kinh doanh dù điều chỉnh vào thu nhập từ kinh doanh nhưng lại có cơ sở và
bản chất hồn tồn khác so với thuế TNDN.
Cá nhân nộp thuế TNCN bao gồm cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh
doanh. Cá nhân không kinh doanh được hiểu là cá nhân không tiến hành các hoạt
động kinh doanh, nguồn thu nhập của họ xuất phát từ sức lao động của chính họ
biểu hiện dưới dạng tiền lương, tiền công, hoặc những hoạt động khác như đầu tư
vốn, chuyển nhượng bất động sản… Từ khác biệt về nguồn hình thành thu nhập hay
chính là hoạt động mà các cá nhân thực hiện để tạo ra thu nhập sẽ dẫn đến các quy

định khác nhau để phù hợp với từng chủ thể.

12


Thứ ba, thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh điều chỉnh vào thu nhập từ
kinh doanh của cá nhân
Một cá nhân có thể vừa có thu nhập từ kinh doanh lại vừa có thu nhập ngồi
kinh doanh. Những thu nhập ngoài kinh doanh thường là những thu nhập phát sinh
từ hợp đồng lao động, thu nhập tài chính từ lãi tiền vay, tiền gửi,… Trong khi
những thu nhập ngoài kinh doanh như tiền lương, tiền công là những thu nhập
tương đối ổn định và xác định khá dễ dàng, thì thu nhập từ kinh doanh lại chịu
nhiều tác động từ thị trường, cung cầu của xã hội, bất ổn định và xác định tương đối
khó khăn nếu khơng có hố đơn, chứng từ đầy đủ. Do đó, thuế TNCN đối với cá
nhân kinh doanh được xây dựng dựa trên đặc điểm của hoạt động kinh doanh, lĩnh
vực ngành nghề để đưa ra cách xác định chính xác và hợp lý thu nhập chịu thuế
cũng như số thuế mà cá nhân phải nộp.
1.1.2. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ cá nhân kinh doanh
Thuế TNCN đối với thu nhập từ cá nhân kinh doanh có một số vai trị như sau:
Thứ nhất, thuế TNCN đối với thu nhập từ cá nhân kinh doanh góp phần tạo
nguồn thu cho NSNN
Thuế TNCN nói chung và thuế TNCN đối với thu nhập từ cá nhân kinh doanh
nói riêng là công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm huy động một bộ phận của cải
trong xã hội nhằm tạo nguồn thu cho NSNN. Bất kỳ nhà nước nào để thực hiện
được các chức năng cơ bản của mình đều phải có nguồn lực vật chất và thuế TNCN
đối với thu nhập từ cá nhân kinh doanh là một trong những nguồn thu quan trọng để
đáp ứng nhu cầu đó.
Thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh được hình thành từ việc
điều tiết một phần thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh trước khi hành vi tiêu
dùng xảy ra. Mức thu thuế sẽ tỷ lệ thuận với sự phát triển của nền kinh tế và thu

nhập của cá nhân kinh doanh trong xã hội, có nghĩa rằng thu nhập của cá nhân kinh
doanh càng cao thì mức thu từ thuế TNCN càng tăng. Đặc biệt, hiện nay hoạt động
kinh doanh của cá nhân nói chung và các cá nhân hành nghề độc lập rất phát triển.
Do đó, thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh nói riêng và thuế
TNCN nói chung đang dần đóng vai trị quan trọng trong cơ cấu nguồn thu từ thuế
cho NSNN.

13


Thứ hai, thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh là công cụ để
Nhà nước tái phân phối sản phẩm xã hội, giảm phân hóa giàu nghèo, góp phần
đảm bảo tính cơng bằng trong xã hội
Có thể nói, đây là vai trị đặc trưng và cơ bản nhất của thuế TNCN. Sở dĩ như
vậy là do thuế TNCN nói chung và thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh
doanh điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân đã thu hẹp được khoảng cách về
thu nhập của các cá nhân có mức thu nhập cao và các cá nhân có thu nhập thấp.
Theo Michel Bouvier, các sắc thuế trực thu trong đó có thuế TNCN có khả năng cá
nhân hóa tốt hơn, việc đánh thuế có tính đến điều kiện, hồn cảnh của người nộp
thuế nên nó đảm bảo tính cơng bằng tốt hơn[19]. Tính cơng bằng của thuế TNCN
đối với cá nhân kinh doanh còn thuế hiện ở chỗ nghĩa vụ của thuế được áp dụng
trên cơ sở có tính đến điều kiện và hoàn cảnh sống của người nộp thuế. Nếu thu
nhập của cá nhân kinh doanh không đạt đến mức nộp thuế ( hiện nay theo quy định
là 100 triệu) thì cá nhân kinh doanh đó khơng phải nộp thuế. Đây là một đặc điểm
mà các loại thuế gián thu không thể tính đến được bởi nghĩa vụ thuế chỉ có thể phát
sinh khi hành vi tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ xảy ra.
Thứ ba, thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh gắn liền với việc
thực hiện chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước.
Thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhận kinh doanh không chỉ là công cụ
huy động nguồn thu NSNN, thực hiện cơng bằng xã hội mà cịn là một trong những

công cụ quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Loại thuế
này điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân kinh doanh nên một mặt tác động
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ của các cá nhân kinh doanh.
Từ đó sẽ tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Ngoài ra, để
tiến hành thu thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh thì nhà nước cũng phải xây
dựng một hệ thống hành thu thuế, từ đó sẽ đánh giá được tình hình thu nhập của dân
cư cũng như thực trạng của nền kinh tế. Từ những đánh giá đó mà Nhà nước có thể
đưa ra các chính sách kinh tế khác phù hợp hơn như chính sách việc làm, chính sách
bảo hiểm, chính sách trợ cấp xã hội…

14


Thứ tư, thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh góp phần giúp
Nhà nước kiểm sốt thu nhập và hoạt động kinh doanh, phát hiện ra các hoạt động
kinh doanh bất hợp pháp.
Thực tế chứng minh nhiều khoản thu nhập của cá nhân nhận được từ việc thực
hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật
mà nhà nước chưa kiểm sốt được như tham ơ, nhận hối lộ, buôn bán hàng cấm,
trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến
đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì thế, cần phải kết hợp hữu hiệu
nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các
biện pháp ngăn chặn đó phải để đến vai trò của thuế TNCN.
Thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh giúp Nhà nước quản lý
hữu hiệu các hoạt động thương mại của cá nhân kinh doanh. Chính q trình áp
dụng pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh và giám sát thu thuế TNCN
đối với cá nhân kinh doanh sẽ giúp Nhà nước có thể phát hiện ra những vấn đề nảy
sinh. Từ đó, kịp thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung các quy định về thuế TNCN
đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh để các quy định này thích ứng với những
địi hỏi của thực tiễn. Đây là việc làm cần thiết nhằm quản lý tốt đối với hoạt động

kinh doanh đa dạng của các cá nhân, đặc biệt là các cá nhân hành nghề độc lập, các
cá nhân kinh doanh tự do. Ngoài ra, việc thu thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập
của cá nhân kinh doanh còn giúp Nhà nước kiểm tra, giám sát được hoạt động kinh
doanh của cá nhân, kiểm soát được tình trạng sử dụng hóa đơn, chứng từ trong hoạt
động kinh doanh, từ đó phát hiện ra các giao dịch bất hợp pháp, các giao dịch gian
dối, rửa tiền và kiểm soát được việc thu các loại thuế khác có liên quan đến hoạt
động kinh doanh như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi
trường...
1.2 Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh
1.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh
Để thực hiện hoạt động thu thuế nói chung và thuế TNCN đối với cá nhân kinh
doanh nói riêng, sự điều chỉnh của Nhà nước thông qua các quy định pháp luật là

15


hết sức cần thiết. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thuế TNCN đối
với cá nhân kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, tạo căn cứ pháp lý cho việc áp dụng
thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh trên thực tế. Bởi suy cho cùng, mặc dù Nhà
nước nào cũng có quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực
thì nhà nước phải sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của
mình để thực hiện các mục tiêu đã định.
Như vậy, có thể thấy pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh là tổng
hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế của cá nhân
kinh doanh có phát sinh thu nhập theo quy định của pháp luật.
Pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải được xây dựng dựa vào
các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật thuế của nhà nước là hệ
thống quan điểm chỉ đạo chi phối sâu sắc vấn đề đặt ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế
của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận hành của hệ thống pháp

luật thuế. Thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh cũng giống như các sắc thuế
khác đều có ảnh hưởng nhất định đến Nhà nước và người nộp thuế. Do đó, việc tuân
thủ các nguyên tắc đánh thuế là nhằm đảm bảo việc thu thuế đạt hiệu quả cao nhất
kể cả về số thu, chi phí và mực độ tác động xã hội của thuế. Hiện nay, thuế TNCN
đối với cá nhân kinh doanh phải tuân thủ các nguyên tắc điều chỉnh sau:
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo công bằng giữa các cá nhân kinh doanh trong
thuế TNCN
Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể
là cá nhân kinh doanh đều phải có địa vị bình đẳng trong kinh doanh để tồn tại phát
triển dưới sự chi phối của quy luật cạnh tranh. Trong đó, cần coi trọng sự đối xử
bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã
ghi nhận: “ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Chính vì thế, chính sách
thuế, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh phải được cụ thể
hóa một cách trung thực tư tưởng cơ bản này. Nguyên tắc này địi hỏi các cá nhân
kinh doanh khơng phân biệt là cá nhân kinh doanh trong nước hay nước ngoài nước

16


có hoạt động kinh doanh giống nhau (có hồn cảnh, điều kiện như nhau) đều được
đối xử bình đẳng, được áp dụng thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh như nhau,
không phân biệt đối xử về thuế suất, về ưu đãi thuế.
Thứ hai, nguyên tắc đánh thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải đảm
bảo cân bằng về lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế
Thu thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh là để đảm bảo giải quyết được
yêu cầu thu ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước nhưng cũng
phải phù hợp với khả năng đóng góp của các cá nhân kinh doanh, tức là những
người nộp thuế. Như vậy là giải quyết hài hịa giữa lợi ích của nhà nước và các cá
nhân kinh doanh. Nhà nước phải vùa thu thuế vừa phải ni dưỡng nguồn thu. Vì
thế, khi ban hành các quy phạm pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh

thì nhà nước phải cân nhắc kỹ lưỡng, không chỉ xem xét đến việc ngân sách nhà
nước thu được bao nhiêu mà phải xem xét nó trong tổng thể hệ thống thuế, xem xét
kỹ mức thuế, biểu thuế, tức là xam khả năng đóng góp của các cá nhân kinh doanh.
Thứ ba, nguyên tắc đánh thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải đảm
bảo tính khả thi và hiệu quả
Để thuế nói chung và thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh được ban hành
đưa vào áp dụng trong thực tế bảo đảm tính nghiêm minh, Nhà nước quản lý và
kiểm sốt được thì nó phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phù hợp với trình
độ quản lý của cán bộ thuế và trình độ của người dân. Vì thế khi xem xét tính hiệu
quả của thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh không chỉ xem xét đến tổng tiền
nhà nước thu được mà còn xem tác động điều tiết của thuế TNCN đối với đời sống
kinh tế, xã hội, các mục tiêu đặt ra khi ban hành và các chi phí quản lý thuế so với
số tiền thu được từ thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh. Hiệu ứng của chế độ
thuế nói chung và thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải được xem xét trên
nhiều phương diện kể cả trước mắt và lâu dàu. Nếu vì muốn tăng thu cho ngân sách
mà đặt mức thuế suất cao, vượt quá khả năng đóng góp của các cá nhân kinh doanh
thì hậu quả là pháp luật thuế TNCN sẽ gặp khó khăn trong áp dụng, kết quả khơng
tăng mà cịn hạn chế việc mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy động

17


cơ trốn thuế, buôn lậu, gây thất thu cho ngân sách và làm nảy sinh những tiêu cực
trong thu thuế. Chính vì thế, ngun tắc hiệu quả cịn địi hỏi trong quá trình nghiên
cứu xây dựng pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải tính đến kết
quả thu được và chi phí mà Nhà nước bỏ ra cho công tác quản lý thuế
Thứ tư, nguyên tắc đánh thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải bảo đảm
tính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện
Pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh được ban hành phải được
bảo đảm thực thi nghiên túc trong cuộc sống. Do đó, nếu pháp luật thuế TNCN quá

phức tạp, vượt quá trình độ khả năng thực hiện của hệ thống thu, vượt quá khả năng
hiểu biết của các cá nhân kinh doanh thì khơng thể tránh khỏi tình trạng thất thu,
lạm thu. Bên cạnh đó sẽ khiến cho pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh
thực hiện không nghiêm túc, khó kiểm tra, khó quản lý, gây ra sự bất bình đẳng
trong xã hội. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khi ý thức chấp hành pháp luật
thuế TNCN cịn hạn chế, trình độ đội ngũ cán bộ thuế đã được nâng cao nhưng chưa
hoàn toàn đáp ứng tốt so với yêu cầu, đặc biệt là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho
công tác thu thuế cịn chưa đầy đủ, hiện đại thì pháp luật thuế TNCN đối với cá
nhân kinh doanh phải đảm bảo được yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ
kiểm tra, phù hợp với trình độ hiểu biết, ý thức chấp hành và khả năng đóng góp
của các cá nhân kinh doanh, phù hợp với trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản
lý thu thuế, có như vậy pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh mới bảo
đảm tính khả thi cao.
Thứ năm, thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phải đáp ứng được yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập để hợp tác kinh tế quốc tế là một yêu cầu khách quan. Để hội nhập
quốc tế, hệ thống pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân
kinh doanh phải dựa trên nguyên tắc học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc
tế, nhằm tạo lập một hệ thống thuế vừa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước
ta, vừa mang tính phổ biến. Đây là xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới
trong quá trình cải cách hệ thống thuế. Việc nghiên cứu, so sánh pháp luật thuế

18


×