3
33
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
----------*-----------
ĐẶNG CẨM TÚ
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH
NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON
0 - 25 THÁNG TUỔI TẠI 3 TỈNH HÀ NAM,
QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ HIỆU QUẢ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP,2012-2015
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
HÀ NỘI - 2018
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp ni dưỡng trẻ tự nhiên
mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của trẻ. Cho
trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu,
tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi bảo đảm sự
tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần va trí t của trẻ [1]. Ni con bằng
sữa mẹ là biện pháp can thiệp có hiệu quả nhất trong giảm tỷ lệ mắc bệnh
và tử vong cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ hồn tồn góp phần quan trọng
giảm tỷ lệ mắc viêm phổi và tiêu chảy là 2 nguyên nhân chính gây tử vong ở
trẻ nhỏ. Theo ươc tính cua Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên
hơp quốc (UNICEF) chỉ riêng với can thiệp cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn
(BMHT) trong 6 thang đầu sẽ lam giam 1,3 triêu ca tử vong ở trẻ em dươi 5
tuổi mỗi năm trên toan thế giơi [1].
Ni con bằng sữa mẹ cịn có tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ. Nhiều
nghiên cứu đã chứng minh rằng các bà mẹ cho con bú giảm nguy cơ mắc ung
thư vú và buồng trứng là 2 nguy cơ hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ.
Mặc dù lợi ích của NCBSM, đặc biệt là cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn
đã được rất nhiều nghiên cứu khẳng định nhưng tỷ lệ vẫn NCBSM đang có xu
hướng giảm trong tồn cầu, đặc biệt là ở các nước có thu nhập cao [171].
Đánh giá ở 127 quốc gia về tình trạng ni con bằng sữa mẹ cho thấy chỉ có 37%
trẻ dưới 6 tháng được BMHT và thời gian cho con bú ở các nước thu nhập cao
ngắn hơn ở các nước thu nhập thấp. Trong khi hầu hết các bà mẹ ở châu Á
và châu Phi vẫn cho con bú ở thời điểm trẻ được 12 tháng tuổi thì ở các nước
Anh, Mỹ, Thụy Điển chỉ lệ này chỉ ở khoảng 20% [167].
Tình trạng NCBSM ở Việt Nam cũng tương tự như các nước đang
phát triển khác. Theo số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy chỉ có chỉ có
26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con BMHT trong 6
tháng đầu.
5
Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng NCBSM khơng được cải thiện.
Các yếu tố về chung tôc, khu vưc sớng [128], văn hóa, tơn giao, trinh đơ học
vấn, điều kiên kinh tế va ap lưc cua gia đinh cũng như cac ́u tớ về chính sach
thai sản va sư quang cao cua cac hãng sữa được nhiều nhà nghiên cứu khẳng
định là anh hưởng đến thưc hanh NCBSM [170]. Chính vì thế, một số mơ
hình can thiệp đã được tiến hành và cũng đã đạt được những thành công
nhất định. Theo báo cáo của Save the Children năm 2013 trong 10 năm (2000
- 2010), tỷ lệ BMHT trong 6 tháng tăng hơn 20% ở 27 quốc gia. Một số quốc
gia có tỷ lệ bú mẹ hồn tồn tăng nhanh như ở Sri Lanka tăng từ 17% (1993) lên
76% (2007); Campuchia từ 12% (2000) lên 74% (2010); Ghana từ 7% (1993) lên
63% (2008). Trong khi đó một số nước bao gồm cả Việt Nam, tỷ lệ BMHT trong
6 tháng đầu hầu như khơng cải thiện [93]. Với hiện trạng đó, nhiều chính sach
va can thiêp hỗ trơ cho ba mẹ ở nước ta đã đươc xây dưng va thưc hiên nhằm
tăng tỷ lê NCBSM như: Chiến lươc Quốc gia Dinh dưỡng giai đoan 2011 –
2020 [49]. Chiến lươc Dân số và sức khoẻ sinh sản giai đoan 2011 – 2020 [48],
cac quy định về quang cao cac san phẩm sữa cho trẻ dươi 12 thang tuổi theo
Nghị định số 21/2006/NĐ- CP cua Chính phu va Lt quang cao sớ
16/2012/QH13 cua Quốc hôi [47]. Luât lao đông sửa đổi số 10/2012/QH13 cho
phép lao đông nữ đươc nghỉ 6 thang sau khi sinh nhằm khún khích va tăng tỷ
lê NCBSMHT [17].
Để góp phần cải thiện thực hành cho trẻ bú sớm và BMHT, đồng thời
chuyển tải các chính sách, hướng dẫn vào thực tế chúng tôi thực hiện đề tài
“Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp
truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà
mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình, năm
2012-2015”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của
phụ nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình
năm
2012.
2. Đánh giá hiệu quả của biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức
khoẻ đối với kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ của các phụ nữ có
con dưới 2 tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình từ năm 2012 đến 2015.
Chương 1:
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ: la cach ni dưỡng trong đó trẻ trưc tiếp bú
sữa mẹ hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra [176].
Bú sớm: la cho trẻ bú ngay trong vòng 1 giờ sau khi sinh [171]. Bú
sớm giúp trẻ tận dụng được sữa non là loại sữa tốt chỉ tiết trong những ngày
đầu sau đẻ, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ
thể non nớt vừa ra đời của đứa trẻ.
Ni con bằng sữa mẹ hồn tồn: la đưa trẻ chỉ đươc bú sữa mẹ từ mẹ
hoặc từ vú nuôi hoặc từ vú mẹ vắt ra, ngoai ra không ăn thêm bất kỳ loai
thưc ăn, nước uống nào khác kể ca nươc lọc, trừ cac dang vitamin, khoang
chất bổ sung hoặc thuốc theo chỉ định của thầy thuốc [176]. Khuyến nghị
của WHO cho tất cả các bà mẹ cho con BMHT trong 6 tháng đầu .
Bú mẹ chủ yếu: la cach ni dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính
la sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể đươc cho ăn thêm nươc uống đơn thuần hoặc
môt số thưc ăn, đồ uống dang lỏng như nươc hoa qua, nươc đường, ORS
hoặc cac loai thưc ăn lỏng cổ truyền vơi sớ lượng ít [176].
Bú bình: la cho trẻ bú bằng binh sữa, bất kể sữa gi kể ca sữa mẹ vắt ra
cho vao binh [176].
Cai sữa: la sư chuyển giao vai trò cung cấp năng lương từ sữa mẹ
sang cac thưc phẩm trong bữa ăn gia đinh để kết thúc thời kỳ bú mẹ [174].
Theo khuyến cáo của WHO, sau thời gian bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu, cho trẻ ăn thức ăn bổ sung hợp lý và vẫn tiếp tục cho bú mẹ đến 24
tháng hoặc lâu hơn. Như vậy thời gian cai sữa khuyến nghị là 24 tháng hoặc
hơn [46].
1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn tự nhiên, lý tưởng nhất phù hơp với trẻ nhỏ. Sữa mẹ
có đủ Protein, Lipid, Vitamin và Khống chất với tỷ lệ thích hợp và dễ hấp
thu đáp ứng với từng giai đoạn phát triển của trẻ. Sữa mẹ còn chữa các chất
miễn dịch, kháng thể giúp trẻ chống các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, suy dinh
dưỡng béo phì và một số bệnh tật khác [171].
Thành phần Protein, lipid, glucid trong sữa mẹ
Lượng protein trong sữa mẹ ít hơn sữa động vật nhưng lại có đủ các
axit amin cần thiết với tỷ lệ cân đối đồng thời lại dễ hấp thu. Protein của sữa
mẹ gồm nhiều casein kết cầu mềm dễ hấp thụ hơn so với sữa động vật.
Thành phần Lipid trong sữa mẹ gồm nhiều acid béo cần thiết chuỗi dài,
không no dễ hấp thu cho trẻ. Đặc biệt, sữa mẹ có nhiều acid béo đóng vai trị
quan trọng trong việc phát triển và hồn thiện hệ thần kinh ở trẻ nhỏ như
DHA và ARA là 2 loại axit khơng có trong bất kỳ loại sữa động vật nào.
Lipid trong sữa mẹ cung cấp khoảng một nửa lượng Kalo cho trẻ bú mẹ.
Glucid trong sữa mẹ chủ yếu là đường lactose, hàm lượng 7g/10ml [171].
Thành phần Vitamin và muối khống
Vitamin trong sữa mẹ có đủ cho trẻ trong 4-6 tháng đầu nếu bà mẹ
được ăn uống đầy đủ, ngoại trừ Vitamin D là vitamin do cơ thể tự tổng hợp
khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Về thành phần muối khống thì lượng Fe
và ZinC trong sữa mẹ tuy ít nhưng có hoạt tính cao, dễ hấp thụ nên vẫn đáp
ứng được nhu cầu của trẻ [171].
Các yếu tố miễn dịch
Sữa mẹ được ví như như “liều vác xin đầu tiên” cho trẻ vì có chất thúc
đẩy hoàn thiện hệ thống miễn dịch ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Sữa
mẹ chứa nhiều globulin miễn dịch tạo kháng thể và các chất bảo vệ cơ thể
chống lại các bệnh nhiễm khuẩn bằng cách bọc niêm mạc ruột, bạch cầu,
tiêu diệt vi khuẩn, virut, nấm, chất không cho vi khuẩn bám mặt niêm mạc.
Hơn thế nữa, sữa mẹ còn thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển hệ
thống miễn dịch ở trẻ về sau.
1.3. Các giai đoạn sản xuất sữa mẹ
Sữa non: có từ ngay sau khi sinh và trong tuần đầu sau đẻ. Số lượng ít
trong ngày đầu (khoảng 40-50ml), nhiều hơn từ ngày thứ 2-3. Sữa non có
màu vàng nhạt, đặc sánh có nhiều kháng thể, bạch cầu hơn sữa trưởng thành
giúp trẻ sơ sinh chống nhiễm khuẩn và dị ứng. Hơn thế nữa, các chất giúp
phịng nhiễm khuẩn này tiếp tục góp phần vào việc hình thành và hồn chỉnh
hệ thống miễn dịch về sau cho trẻ. Chính vì vậy sữa non được coi như là liều
vắc xin đầu tiên giúp trẻ chống đỡ bệnh tật. Sữa non cịn có tác dụng xổ nhẹ
giúp tống phân su nhanh, kéo theo đào thải bilirubin nhanh. Vì vậy, trẻ được
bú sữa non ít vàng da hơn và thời gian vàng da cũng ngắn hơn. Sữa non cịn
có nhiều yếu tố phát triển giúp bộ máy tiêu hoá non nớt của trẻ nhanh chóng
trưởng thành. Lượng vitamin A trong sữa non rất nhiều giúp giảm nhẹ bệnh
khi trẻ mắc bệnh. Mặc dù số lượng sữa non ít nhưng vừa đủ so với kích
thước dạ dày và nhu cầu dinh dưỡng của trẻ sau khi sinh.
Sữa trung gian: là sữa tiết ra từ ngày 7-14, chuyển đổi từ sữa non sang
sữa trưởng thành. Lượng sữa nhiều hơn và có thay đổi một số thành phần cả
về số lượng và chất lượng.
Sữa trưởng thành: sữa được tiết ra sau 2 tuần là sữa trưởng thành. Nếu
bà mẹ được ăn uống đủ, nghỉ ngơi hợp lý sẽ sản xuất đủ sữa và giữ thành
phần sữa hằng định trong suốt thời gian cho con bú.
Chất lượng sữa tiết ra trong một bữa bú có khác nhau. Sữa tiết ra ngay
khi bắt đầu bữa bú gọi là sữa đầu, sữa tiết ra sau đó gọi là sữa cuối. Sữa đầu
thường lỗng hơn, có màu hơi xanh so với sữa cuối và số lượng nhiều hơn.
Sữa đầu có rất nhiều chất đạm (protein), lactosa và nhiều chất dinh dưỡng
khác. Sữa cuối có màu trắng hơn so với sữa đầu vì chứa nhiều chất béo hơn
và cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ. Vì vậy, trong mỗi bữa bú cần cho trẻ
bú hết từng bên vú một để trẻ nhận được đủ các chất đạm, dinh dưỡng ở sữa
đầu và nhiều chất béo ở sữa cuối.
1.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả
bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết qủa của nhiều
nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định các lợi ích của NCBSM đối với sự
lớn lên và phát triển toàn diện của trẻ; giảm nguy cơ bệnh tật cho mẹ và lợi
ích kinh tế cho cộng đồng.
1.4.1. Lợi ích đối với trẻ
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống cịn và phát triển tối
ưu cho trẻ em mà khơng có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa
mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu.
Cùng với sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đ ap ưng nhu cầu
thay đổi đó kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số
thành phần trong sữa mẹ cũng thay đổi để đap ưng phù hợp với nhu cầu phát
triển cua trẻ.
Cùng với lợi ích về dinh dưỡng, sữa mẹ có chứa các chất miễn dịch
giúp trẻ bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, giảm tỷ lệ mắc bệnh,
tử vong. Nuôi con bằng sữa mẹ la môt trong những thưc hanh có lơi nhất ma
ba mẹ có thể thưc hiên để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cho con mình. Tổ
chức Y tế thế giới đã đưa các bằng chứng khẳng định là trẻ đư ơc bú mẹ ít
phai đến bênh viên hơn hoặc ít phai uống thuốc, giam nguy cơ lây nhiễm va
mắc cac bênh như tiêu chay, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trung tai, nhiễm
khuẩn đường hơ hấp [171]. Kết qua phân tích từ nghiên cưu thuần tâp cua
Bachrach va công sư cho thấy rằng trẻ đươc nuôi bằng sữa công thưc phai
đối mặt vơi mối nguy nhâp viên do nhiễm khuẩn đường hô hấp dươi trong
năm đầu tiên cua cuôc sống cao gấp 3,6 lần so vơi trẻ đươc bú mẹ hoan toan
hơn 4 thang. Trẻ được bú sữa mẹ cũng được bảo vệ giảm nguy cơ nhiễm vi
rút vì chất béo trong sữa mẹ có tac dung khang vi rút, đã biệt là vi rút Hơp
bao hô hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) [169].
Sữa mẹ cịn có các chất cần thiết cho sự phát triển của não, giúp hoàn
thiện hệ thống thần kinh trung ương, tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển trí
thơng minh của trẻ. Trẻ được ni bằng sữa mẹ có chỉ sớ thơng minh va kết
quả học tâp cao hơn. Trẻ bú mẹ cang lâu thi cang có kha năng trí t cao
hơn, điều nay đươc thể hiên qua những kỹ năng vân đông, kỹ năng ngôn ngữ
va kha năng nhân thưc hoan thiên hơn, những trẻ đươc ni bằng sữa mẹ có
điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so vơi những đưa trẻ không đươc bú mẹ [135].
Những nghiên cứu trong thập kỷ qua đã chứng minh được một vai trò
quan trọng của sữa mẹ nữa là bảo vệ trẻ không tăng cân quá mức, giảm nguy
cơ mắc đai thao đường type I va II cũng như bênh tăng huyết ap va tim
mach. Nghiên cưu cua Christopher G. Owen va công sư cho thấy rằng
những đưa trẻ đươc ni bằng sữa mẹ có nguy cơ bị béo phi khi trưởng
thanh chỉ bằng 0,87 lần so vơi những đưa trẻ đươc nuôi bằng sữa công thưc
[143]. Những đưa trẻ đươc ni bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường
type II chỉ bằng 0,61 lần so vơi những đưa trẻ đươc nuôi bằng sữa công thưc
[144].
Với những lợi ích đối với sự sống cịn và sự phát triển tối ưu cho trẻ
em mà khơng có một loại thức ăn nào có thể thay thế được, Quỹ Nhi đồng
Liên hơp quốc UNICEF đã coi viêc NCBSM la 1 trong 4 biên phap quan
trọng nhất để bao vê sưc khỏe trẻ em [176].
Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau đẻ là cung cấp cho trẻ nguồn sữa
non quý giá từ mẹ. Như đã đề cập ở trên, sữa non có trong bầu vú mẹ, ngay
sau khi sinh sẵn sàng cho con bú ngay khi trẻ vừa lọt lòng mẹ. Sữa non c hứa
nhiều kháng thể, các protein kháng khuẩn và nhiều tế bào bạch cầu hơn sữa
trưởng thành giúp trẻ sơ sinh chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và
cung cấp khả năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ chống nhiều bệnh mà trẻ có
thể mắc sau đẻ [37]. Sữa non có tác dụng xổ nhẹ, giúp thải phân su và cũng
có tác dụng thải bilirubin ra khỏi ruột, giảm mức độ vàng da. Thêm vào đó,
sữa non chứa nhiều yếu tố tăng trưởng giúp ruột chưa trưởng thành của trẻ
tiếp tục phát triển sau sinh, giúp trẻ phòng dị ứng và phòng bệnh không dung
nạp những thức ăn khác. Sữa non chứa nhiều vitamin A có tác dụng làm
giảm độ nặng của các bệnh nhiễm khuẩn mà trẻ có thể mắc phải. Vì vậy, trẻ
được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là rất quan trọng, tận dụng
được thức ăn lý tưởng nhất, phù hợp nhất với trẻ mới sinh đồng thời cũng
tạo nền tảng vững chắc cho sự lớn lên và phát triển của trẻ [46].
Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã
khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung
cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước
uống nào khác [176], [171]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ
ni con bằng sữa mẹ hoan toan trong 6 thang đầu có thể cai thiên sư tăng
trưởng va phat triển, kết qua học tâp va thâm chí ca kha năng thu nhâp cua
trẻ trong tương lai [170]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng viêc NCBSMHT
trong 6 thang đầu đời la cach tớt nhất phịng tranh tử vong cho trẻ em, ươc
tính có thể giam hơn mơt triêu ca tử vong ở trẻ trên toan thế giơi mỗi năm
[172]. Vi vây, WHO khuyến cao cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú sớm
trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ
sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 24 thá ng
hoặc lâu hơn [171], [59].
1.4.2. Lợi ích đối với bà mẹ
Khi trẻ bú sẽ kích thích tún n san xuất oxytocin, vì thế cho con bú
sớm ngay sau khi đẻ sẽ giúp tử cung co hồi tốt, giảm nguy cơ chảy máu sau
đẻ [171]. Cac ba mẹ cho con bú thương giam cân nhanh hơn, đờng thơi ít
nguy cơ mắc cac bênh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng
trưng, loãng xương. Hàm lượng oxytocin trong mau cao hơn nên có thể giam
căng thẳng va chưng trầm cam ở bà mẹ sau khi sinh [138], [109]. Ni con
bằng sữa mẹ hồn tồn trong vịng 6 tháng đầu làm ức chế hoạt động của
buồng trứng, sẽ làm bà mẹ chậm có kinh trở lại, vì vậy ni con bằng sữa
mẹ có tác dụng như một biện pháp tránh thai tự nhiên [138]. Kết quả của
một số nghiên cưu cho thấy rằng nếu ba mẹ cho con bú hoan toan trong 6
thang đầu va khơng có dấu hiêu có kinh ngut trở lai thi kha năng mang
thai la dươi 2% [128].
1.4.3. Một số lợi ích khác
Ni con bằng sữa mẹ giúp gắn bó, tăng cường tinh cam mẹ con. Sữa
mẹ là nguồn thức ăn lúc nào cũng mới, sạch, ln có sẵn trong bầu vú mẹ
lúc nào trẻ cũng có thể bú được, không phải đi mua, không mất công chuẩn
bị. Người bố và các thành viên gia đình khơng phải hỗ trợ nhiều trong việc
chuẩn bị thức ăn cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ tiện lợi và an toàn, các bà
mẹ có thể cho con bú bất cứ nơi nào có thể. Tính về hiệu quả kinh tế,
NCBSM mang lại hiệu quả cao vì khơng phải mất tiền mua mà lại mang lại
lợi ích tối đa nhất cho sức khỏe, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong cho trẻ em.
Nuôi con bằng sữa mẹ đồng thời cũng là một hoạt động bảo vệ mơi
trường vì rằng sữa mẹ là thức ăn tự nhiên có từ mẹ, khơng phải tốn nhiên
liệu để chế biến, chun chở, khơng phải dùng bao bì để đóng gói, khơng
tốn đất đai để xây dựng nhà máy sản xuất... vì vậy khơng sinh ra bất cứ một
thứ rác thải nào làm ô nhiễm môi trường.
1.5. Thực trạng kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ
1.5.1. Kiến thức, thái độ và thực hành về ni con bằng sữa mẹ trên thế
giới
Lợi ích của sữa mẹ đã được khẳng định trong trong rất nhiều ng hiên
cứu và đã được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Phần lớn các bà mẹ ở các
nước trên thế giới hiểu biết và ủng hộ NCBSM, tuy nhiên kiến thức và thực
hành về cho trẻ bú sớm và BMHT còn hạn chế.
Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tìm hiểu thực trạng kiến
thức, thái độ, thực hành của 322 bà mẹ người Trung Quốc sống ở Ai -len cho
thấy 87% trong số họ chọn nuôi con bằng sữa mẹ do họ biết sữa mẹ là tốt
hơn cho trẻ em, hơn 82% cho rằng sữa mẹ là thức ăn cung cấp đầy đủ dưỡng
chất cần thiết cho trẻ trong 6 tháng đầu, trên 70% biết các lợi ích về sức
khỏe của sữa mẹ và trên 60% nhận ra rằng sữa mẹ có thể phịng chống một
số bệnh [181].
Một nghiên cứu khác năm 2011 trên 653 phụ nữ Trung Quốc đang
mang thai từ 5 đến 22 tuần tại 4 trung tâm sức khỏe cộng đồng ở Thượng
Hải cho thấy hiểu biết của những người sắp làm mẹ này có hiểu biết tốt về
NCBSM. Hầu như tất cả các bà mẹ (99%) biết bú sữa mẹ là tốt cho sức khỏe
của em bé, tuy nhiên lợi ích đối với sức khỏe mẹ thì chỉ có 22% đối tượng
nghiên cứu đề cập đến. Gần 80% không biết định nghĩa về bú hoàn toàn và
khoảng 40% các bà mẹ biết là sữa mẹ có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu dinh
dưỡng cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi [114]. Nghiên cứu của Sushma
Sriram và cộng sự (2013) về kiến thức NCBSM của 150 bà mẹ ở thành phố
Ahmedabad (Ấn Độ) cho kết là có đến 96% bà mẹ có kiến thức cho con bú
sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu, 90,7% số bà mẹ biết được giá trị của
sữa non [159]. Cũng trong năm 2013, nghiên cứu của Abiola O Ogundele và
cộng sự ở 383 bà mẹ sống ở các vùng ngoại ô của Nigeria cho thấy có
71,3% số bà mẹ có kiến thức tốt về ni con bằng sữa mẹ [141].
Tuy nhiên kiến thức về NCBSM rất khác nhau theo địa bàn nghiên
cứu. Nhiều bà mẹ ở các nước nghèo, các vùng khó khăn hiểu biết rất ít về
sữa mẹ. Một nghiên cứu được thực hiện ở phía Tây Bắc A Rập trên 60 bà
mẹ độ tuổi sinh đẻ cho kết quả là chỉ có 31,2% số bà mẹ khẳng định sữa mẹ
có sức đề kháng chống đỡ bệnh tật, 27,1% cho rằng cung cấp đủ chất dinh
dưỡng cần thiết và có tới 16,7% khơng biết một chút lợi ích nào [158].
Nghiên cứu của RN Chaudhary, T Shah, S Raja (2011) về kiến thức và thực
hành của 200 bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại khoa khám bệnh ngoài trú của
một bệnh viện ở Dharan ở Nepal. Kết quả cho thấy chỉ có 10% số bà mẹ
tham gia nghiên cứu có kiến thức cho con bú sớm sau sinh, 10% số bà mẹ
biết được ý nghĩa của việc cho con bú sớm, 25% số bà mẹ biết được tầm
quan trọng của sữa non, 15% bà mẹ biết được ý nghĩa của việc cho con
BMHT [92].
Nghiên cứu mới đây nhất vào tháng 4 năm 2015 trên 350 phụ nữ có
con dưới 2 tuổi ở thị trấn Mizan Aman, Tây Nam Ethiopia cho thấy 93,6%
các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều được nghe về Nuôi con hồn tồn bằng
sữa mẹ, nhưng chỉ có 34,7% biết về thời gian cho bú được khuyến nghị và
59,3% số bà mẹ tin rằng sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng
tuổi [163].
Thái độ của bà mẹ đối với NCBSM thường song hành với kiến thức
của họ. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy nếu bà mẹ hiểu biết đầy đủ
về lợi ích của NCBSM, họ có thái độ tích cực và ủng hộ NCBSM. Trong
nghiên cứu ở các bà mẹ Trung Quốc sống ở Ai-len, có hơn 3/4 số đối tượng
phủ nhận nhận định “Tơi khơng thích sữa mẹ” và 2/3 đồng ý rằng cho bú sữa
công thức làm mất đi niềm hạnh phúc lớn lao được làm mẹ. Trên 65% các
bà mẹ tin rằng cho bú sẽ kinh tế hơn và giúp họ nhanh lấy lại vóc dáng hơn
cho con uống sữa công thức. Hầu hết các bà mẹ (>90%) được hỏi đều không
đồng ý với nhận định “Cho bú là cổ hủ” và “Uống sữa ngoài mới là thể hiện
bạn có kinh tế” [181].
Nhìn chung, NCBSM được phần lớn bà mẹ và cộng đồng chấp nhận.
Thái độ tích cực với thực hành này đã được nhiều nghiên cứu ở nhiều nước
trên thế giới khẳng định [163]. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng những bà mẹ
không nuôi con bằng sữa mẹ có thái độ tiêu cực với sữa mẹ [98]. Nghiên
cứu trên 122 bà mẹ sau sinh ở phòng khám ngoại trú nhi và phòng tiêm
chủng tại Ấn Độ năm 2014, tác giả đã sử dụng Bảng kiểm đánh giá thái độ
nuôi dưỡng trẻ sơ sinh của IOWA, kết quả cho thấy hầu hết các bà mẹ khơng
đồng ý với nhận định “Cho trẻ bú sữa ngồi tiện lợi hơn bú mẹ” (83,6%),
73,8% các bà mẹ hoàn tồn đồng ý với nhận định “Ni con bằng sữa mẹ
giúp tăng tình mẫu tử” [168].
Kiến thức, thái độ về NCBSM mặc dù có khác nhau theo từng quốc
gia, lãnh thổ nhưng nhìn chung hiểu biết và ủng hộ NCBSM ở các bà mẹ
tương đối cao. Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ thực hành NCBSM lại không được
như mong muốn, đặc biệt là bú mẹ sớm và BMHT. Nghiên cứu của Bhutta
thống kê trong vòng một thập niên qua từ năm 2000 đến năm 2010 của 66
quốc gia, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm trong giờ đầu sau sinh là 48% và tỷ lệ
trẻ được bú mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng tuổi chỉ đạt 34% [88]. Nghiên cứu tại
thị trấn Mizan Aman cho thấy tỷ lệ trẻ được bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu
chỉ đạt 26,4% [163]. Thống kê gần đây nhất cho thấy, thời gian cho trẻ bú ở
các nước có thu nhập cao ngắn hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung
bình. Ở các nước thu nhập thấp, hầu hết các bà mẹ cho con bú đến 12 tháng,
trong khi đó tỷ lệ này ở các nước thu nhấp cao chỉ dưới mức 20%. Thời gian
NCBSM ở các nước phát triển cũng rất khác nhau với tỷ lệ thấp nhất là ở
Anh là chưa đến 1% cho con bú đến 12 tháng, trong khi ở Mỹ tỷ lệ này là
27%, Na Uy là 35% và Thụy Điển là 16% [167].
Chỉ số về tỷ lê bú sớm và BMHT chỉ có ở một vài nước trong nhóm
các nước thu nhập cao. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy chỉ có 1,2% trẻ được
bú mẹ hồn tồn trong vịng 6 tháng đầu [117]. Ở Mỹ, tuy có nhiều thay đổi
tích cưc trong thập kỷ 90 nhưng tỷ lê bú sơm và BMHT cũng ở mức 76,9%
và 47,2% năm 2009 [91]. Theo kết quả điều tra sức khỏe cộng đồng ở
Canada về xu hướng thực hành NCBSM trong giai đoạn 2001 - 2008 cho
thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa mẹ ngay sau khi sinh tăng từ 81,6% lên
87,9% và tỷ lệ bà mẹ cho con BMHT trong vòng 6 tháng đầu tăng từ 17,3%
năm 2003 lên đến 23,1% năm 2008 [160].
Nhìn chung, thực hành NCBSM ở các ở các nước thu nhập thấp và
trung bình tốt hơn ở các nước thu nhập cao với hầu hết các bà mẹ đều cho
con bú và có đến hơn 60% kéo dài đến 20-23 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ cho con
bú sớm khơng đạt được như mong muốn và cũng chỉ có 37% số trẻ được
BMHT trong 6 tháng [167].
Số bà mẹ cho con bú sớm ở các nước thu nhập thấp khác n hau theo
các nghiên cứu. Nói chung phần lớn các bà mẹ đều cho bú sớm nhưng ở một
số vùng chỉ chưa đến một nửa số trẻ sinh ra được bú mẹ trong giờ đầu. Các
nước có tỷ lệ bú sớm cao như ở A-rập Xê-út, Tamilnadu, Nam Phi cho thấy
khoảng 78 - 98% số bà mẹ đã cho con bú mẹ trong vòng 24 giờ đầu sau khi
sinh [113].
Tuy nhiên cũng nghiên cứu ở A-rập Xê-út, tác giả Tarek Amin, Hatem
Hablas, and Ahmed AlAbd Al Qader (2011) lại cho kết quả chỉ có 41,5% số
bà mẹ được phịng vấn đã cho con bú trong vòng 1/2 giờ đầu sau sinh [76].
Tương tự, Ali Mohamed Al-Binali (2012) nghiên cứu trên 384 nữ giáo viên
ở huyện Abha, Tây Nam của A - rập Xê - út cho thấy chỉ có 31% số nữ giáo
viên đã cho con bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [133].
Một nghiên cứu khác ở Bhaktapur, Nepal trên 325 trẻ sơ sinh đến tiêm
sởi ở lúc 9 tháng tuổi, các bà mẹ được hỏi thông tin liên quan đến việc ni
dưỡng con mình từ khi sinh cho thấy 295 bà mẹ tương đương với 91% cho
con uống sữa non và 185 bà mẹ (57%) cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu
sau sinh. Tỷ lệ cho con bú hoàn toàn trong 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần
lượt là 240 (74%), 78 (24%) và 29 (9%), và cho ăn bổ sung từ 1 thán g, 3
tháng và 6 tháng là 49 (15%), 124 (38%) và 257 (79%). Lý do cho ăn bổ
sung sớm trước 6 tháng là do mẹ không đủ sữa [166].
Khi bà mẹ khởi đầu tốt với việc bú sớm sẽ có ảnh hưởng quan trọng
đến việc tiếp tục cho con bú về sau. Khuyến cáo của WHO về cho con bú
sớm và BMHT trong 6 tháng đầu đang là lĩnh vực được ưu tiên can thiệp
trong các chương trình NCBSM. Một tín hiệu tích cực là số bà mẹ cho con
bú sớm và BMHT có xu hướng cải thiện. Theo số liêu từ 64 nươc đang phat
triển chiếm 69% số trẻ em đươc sinh ra trên toan thế giơi từ năm 1996 đến
năm 2006, tỷ lê trẻ em đươc bú mẹ hoan toan trong 6 thang đầu tăng từ 33%
lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vung cân sa mac Sahara - châu Phi vơi tỷ lê
tăng từ 22% đến 30%, va châu Âu vơi tỷ lê tăng từ 10% đến 19%. Ở châu
Mỹ Latinh va Caribean ngoai trừ Brazil va Mexico, tỷ lê trẻ đươc bú mẹ
hoan toan tăng từ 30% đến 45% [176], [175]. Kết quả của Cesar năm 2016
cũng cho thấy tỷ lệ NCBSM cũng tăng nhẹ từ 24,9% lên 35,7% trong giai
đoạn 1993 - 2013 ở các nước có thu nhập thấp [167].
Cũng tương tự như thực hành cho bú sớm, tỷ lệ BMHT khơng chỉ
khác nhau theo châu lục mà cịn theo quốc gia và các vùng miền trong mỗi
quốc gia. Tai châu Á tỷ lê NCBSMHT ở Ấn Đô la 46%, Campuchia la 74%,
Philippin 34%, Bangladesh 43% [176], [136]. Tai Trung Quốc, tỷ lê ba mẹ
cho con BMHT trong 4 thang đầu là 35% nhưng đến 6 thang thi tỷ lê nay chỉ
còn 28% [179]. Ở Al Hassa, A-rập Xê-út, kết quả nghiên cứu trong khu vực
thành phố, tỷ lệ này chỉ đạt 12,2% [76].
Theo tổng hợp của Cesar năm 2016, nhìn chung tỷ lệ BMHT ở vùng
Nam Phi cao hơn Tây Phi; Châu Mỹ Latin và Caribbean thấp hơn châu Phi;
Ở các nước Nam Á, bà mẹ cho con BMHT cao hơn các nước Bắc Phi và
Trung Đông [167].
Ở Tây Úc, một nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ trong thời gian
nằm viện và tại 9 tuần sau đẻ cho thấy 93% các bà mẹ đều cho bú sớm.
Trong đó 73,5% các bà mẹ đã đẻ lần thứ 2 trở lên cho bú hoàn toàn trong
bệnh viện và các bà mẹ sinh con đầu tỷ lệ là 62,5% nhưng ở tuần thứ 9 thì
giảm thứ tự là 57,1% và 49,2% [106].
Lý do số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp nhìn
chung là giống nhau ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới. Mẹ không đủ
sữa, phải đi làm sớm, mẹ hoặc con bị bệnh là những lý do chính bà mẹ
khơng cho con bú hồn tồn và cai sữa sớm [118], [133], [178]. Kết quả một
số nghiên cứu cho thấy có khoảng 8% số bà me khơng cho con bú vì khơng
thích làm cơng việc này [156].
1.5.2. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt
Nam
Chương trình NCBSM đã được triển khai ở Việt Nam từ những năm
đầu của thập kỷ 90, vì thế kiến thức về NCBSM của các bà mẹ Việt Nam là
khá tốt, phần lớn các bà mẹ đã hiểu được vai trò của sữa mẹ tới sự phát triển
của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng như vai trị của việc cho trẻ bú mẹ hồn tồn
trong 6 tháng đầu và lợi ích cho con bú cho tới khi trẻ được 2 tuổi. Theo kết
quả điều tra trên 1500 phụ nữ tại các doanh nghiệp cho thấy 77,7% số phụ
nữ biết lợi ích về dinh dưỡng của bú sữa mẹ, 79,6% biết về thời gian BMHT
trong 6 tháng đầu, và 44,8% hoàn toàn đồng ý với nhận định cho trẻ bú sữa
mẹ tới 2 tuổi thì trẻ sẽ khỏe mạnh [64].
Kết quả điều tra ban đầu dự án A&T năm 2011 cho biết hơn 3/4 số bà
mẹ biết là trẻ phải được cho bú ngay trong vòng 1 giờ sau sinh, 76% các bà
mẹ biết cần cho trẻ bú sữa non và 41% số bà mẹ biết cần cho bú theo nhu
cầu, bất cứ khi nào bé muốn [61].
Tuy nhiên, theo tác giả Vũ Phương Hà (2010), kiến thức của bà mẹ về
ni con bú và ăn bổ sung cịn nhiều hạn chế. Có tới 27% bà mẹ khơng biết
cho bú lần đầu vào thời gian nào và bú hoàn toàn trong mấy tháng là phù
hợp. Chi co 46,8% ba me cho rằng nên cho bú hoàn toàn đến 6 tháng. Trên
50% cac ba me cho rằng phai cho con ăn bô sung trươc 6 thang hoăc không
biết nên bắt đầu cho ăn vao thơi điêm nao [13].
Cũng như các nước có thu nhập thấp và trung bình, hầu hết các bà mẹ
Việt Nam đều cho con bú với thời gian trung bình khoảng 17 tháng [41].
Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm và BMHT đạt mức thấp hơn so với các
nước trong khu vực và đang có xu hướng giảm trong thập kỷ qua. Các
nghiên cứu ở vùng nông thôn vào những năm 2008 cho kết quả tỷ lệ bú sớm
vào khoảng 70-80% và BMHT trong khoảng 18-20% [22], [25]. Ở các vùng
thành thị, các tỷ lệ này thấp hơn với tỷ lệ trẻ được cho bú sớm chỉ ở mức 3050% và BMHT trong khoảng 15-20% [38].
Các nghiên cứu gần đây ở các vùng miền trong cả nước cho kết quả về
tỷ lệ bú sớm và BMHT thấp hơn các số liệu công bố trong thập kỷ 90. Điều
tra của Viện dinh dưỡng năm 2010 cho thấy mới chỉ có chỉ có 62% trẻ em
Việt Nam được bú sớm sau sinh và 19,6% bà mẹ ni cịn bằng SMHT trong
6 tháng đầu [9]. Tac gia Trần Thị Phúc Nguyêt va công sư thưc hiên tai xã
Khanh Ha, hun Thường Tín, Ha Nơi năm 2012 trên 220 ba mẹ cho thấy
chỉ có 42,3% cac ba mẹ cho con bú sơm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và tỷ
lê trẻ đươc BMHT trong 6 thang đầu la 15,5% [42]. Cũng trong năm 2012,
tac gia Huỳnh Văn Dũng, va công sư nghiên cưu trên 370 ba mẹ cua trẻ ở
huyên Tam Nông, Phú Thọ cho kết quả là 46,7% trẻ đươc bú sớm và 27,8%
trẻ dươi 6 thang tuổi đươc BMHT. Tác giả Nguyễn Lân (2012) nghiên cứu
tại Phổ Yên, Thái Nguyên cũng cho kết quả tương tự [33]. Tỷ lệ này rất thấp
trong báo cáo của UNICEF năm 2014, chỉ có 26,5% số bà mẹ cho con bú
sớm và 24,3% số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu cảnh báo
tình trạng thực hành NCBSM đang bị coi nhẹ trong xu thế phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta [28].
Điều cần nhấn mạnh là ở một số vùng nơng thơn, vùng núi vẫn cịn
đến hơn 50 - 62% bà mẹ vẫn còn cho trẻ uống sữa công thức cho trẻ sơ sinh,
nước đường, mật ong hoặc các thức ăn khác trước khi cho bú lần đầu [33].
Việc cho ăn thức ăn khác ngoài sữa mẹ làm ảnh hưởng đến bữa bú đầu cũng
như tăng tỷ lệ trẻ được cho ăn thêm ngoài sữa mẹ. Đây là nguy cơ tiềm ẩn
đối với sự phát triển cũng như phịng bệnh tật cho trẻ
Lý do trẻ khơng được bú sớm và bú mẹ hoàn toàn hoặc cai sữa sớm
cũng được nhiều nghiên cứu đề cập. Lý do phổ biến nhất là mẹ không đu
sữa, mẹ phai đi lam, mẹ và con bị bệnh trong đó điều kiện yêu cầu công việc
của bà mẹ là rào cản lớn nhất của việc thực hành nuôi con bằng sữa với 83%
lao động nữ đồng ý rằng việc quay trở lại làm việc khiến họ không thể thực
hiện cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu [42], [61], [159]. Kết quả
khảo sát đề án 5 triệu bà mẹ cho thấy nguyên nhân cản trở thực hành bú mẹ
chủ yếu là do vì cuộc sống q khó khăn, chế độ ăn uống của người mẹ
khơng đủ dẫn đến tình trạng thiếu sữa hoặc không đủ sữa cho con bú; hoặc
cũng có nhiều trường hợp con khơng chịu bú mẹ [40].
Lý do bà mẹ không cho trẻ bú sơm phu thuôc vào tình trang sưc khoe
cua me và cua tre mơi sinh, tuôi cua me, thơi gian chuyên da hay tư vấn cua
nhân viên y tế. Bà me ít tiết sưa hoặc có cam giác đau và khó chiu cung là
nguyên nhân cua viêc không cho tre bú sơm. Trẻ đẻ non hoặc bị các bệnh lý
nặng, dị tật cản trở rất nhiều đến bú mẹ.
Ơ nhiều nơi vân tồn tai nhưng phong tuc lac hâu sau khi sinh ngươi
phu nư vắt bo sưa non vì cho rằng nó khơng tớt. Cho trẻ ăn trước khi bú mẹ
bữa đầu mặc dù đã giảm rất nhiều nhưng vẫn cịn tồn tại khá nhiều ở một số
vùng nơng thôn và miền núi [171].
Một trong những lý do quan trọng và ngày càng chiếm đa số trong các
nguyên nhân làm giảm tỷ lệ trẻ bú sớm trong giờ đầu là tăng tỷ lệ mổ đẻ một
cách nhanh chóng trong những năm gần đây ở nước ta. Trẻ mổ đẻ hầu như
không được bú sớm mà thường phải ăn sữa ngoài. Nghiên cứu của Trần Thị
Hải Dung ở bệnh viện Phụ sản Hà Nội về thực hành bú sớm trong bệnh viện
cho thấy, khơng có bà mẹ mổ đẻ nào cho con bú sớm trong vòng giờ đầu [8].
Các nghiên cứu khác ở bệnh viện Đa khoa Kiên Giang, Cần Thơ cũng
cho kết quả tương tự [43], [55]. Như vậy có thể khẳng định rằng ở Việt
Nam, tất cả các bà mẹ phải mổ đẻ đều không cho con bú sớm trong vòng giờ
đầu như khuyến cáo của WHO. Một lý do mà tất cả các tác giả đều đề cập
đến là vì phải tách mẹ sau mổ mặc dù khơng có một văn bản nào qui định về
vấn đề này.
Hậu quả của việc không cho bú sớm là phải cho trẻ ăn thêm thức ăn
khác ngoài sữa mẹ. Số liệu của Alive & Thrive cho thấy những bà mẹ mổ đẻ
thường cho trẻ ăn sữa công thức trong 3 ngày đầu [61]. Như vậy hầu như các
trẻ này không được bú sữa non, thức ăn tốt nhất, phù hợp nhất đối với trẻ
mới sinh. Không những không được bú đủ sữa non, con của các bà mẹ sinh
mổ có nguy cơ khơng ni con hồn tồn bằng sữa mẹ. Kết quả theo dõi
thực hành trong tuần đầu ở bệnh viện Sóc Trăng cho thấy nguy cơ khơng
cho BMHT ở bà mẹ mổ đẻ cao gấp 6 lần bà mẹ sinh thường [56].
Kiến thức, niềm tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc cho con
BMHT trong 6 tháng đầu. Một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiều bà mẹ
khơng tin sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng tuổi, ví dụ trong
một khảo sát thực hiện online với 509 bà mẹ tham gia, có 30,3% bà mẹ cho
rằng sữa mẹ không đủ chất và lượng để cung cấp cho bé đến 6 tháng tuổi
[54]. Trong khi các quảng cáo của nhiều hãng sữa công thức ảnh hưởng rất
lớn đến tâm lý và thực hành của bà mẹ về cho trẻ BMHT [16]. Tác động của
các thành viên trong gia đình, về các thực hành truyền thống cũng ảnh
hưởng nhiều đến việc cho bú sớm và BMHT. Các cặp vợ chồng ở cùng bố
mẹ thường phải theo hướng dẫn theo kinh nghiệm của mẹ chồng hoặc mẹ đẻ
cho trẻ ăn sam sớm với nhận thức là để trẻ cứng cáp hơn. Mặt khác, sự thiếu
sư quan tâm tư phía gia đình như trong giai đoan cho con bú, hay các quan
niêm cho rằng sưa me không cung cấp đu nhu cầu nang lương trong 6 tháng
đầu, sưa me không tốt cũng là các rào cản đối với BMHT.
Một số tác giả cho thấy rằng còn có những lý do khác ảnh hưởng đến
thưc hành NCBSM là anh hương tiêu cưc bơi các nghi lê van hóa, tơn giáo,
áp lưc cua gia đình đới vơi viêc nuôi dương và phát triên cua tre nho. Đối
với một số bà mẹ trẻ hiện đại cịn có suy nghĩ là NCBSM sẽ làm ảnh hưởng
đến sắc đẹp cũng cần được tư vấn để có kiến thức, thái độ tích cực hơn với
NCBSM [88], [98], [122], [127].
Ảnh hưởng của nhân viên y tế và truyền thông là lý do hết sức quan
trọng trong thực hiện NCBSM sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần tiếp
theo.
1.6. Tác động của truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ thực hành
nuôi con bằng sữa mẹ
Nhiều nghiên cưu cho thấy rằng truyền thông đóng vai trị quan trọng
đối với NCBSM cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Những thơng tin đún g sẽ
cung cấp thêm kiến thức, thay đổi thái độ và cải thiện thực hành theo hướng
tích cực, ngược lại các quang cáo hay nhưng gói dich vu khuyến mai cua các
hãng sưa thường làm giảm niềm tin vào sữa mẹ và ảnh hưởng nhiều đến các
thực hành NCBSM.
Nghiên cưu cua Howard C. R và công sư so sánh sư anh hương cua
các tài liêu về sưa công thưc vơi viêc bú sơm và thơi gian NCBSM chi ra
rằng khơng có sư anh hương đến viêc bú sơm nhưng có sư thay đôi đến viêc
cho con bú trong 2 tuần đầu khi tiếp xúc nhiều vơi các tài liêu về sưa cơng
thưc, đạc biêt vơi nhưng bà me có ý đinh NCBSM trong 12 t̀n hoạc ít hon
thì thơi gian bú hồn tồn se ít đi [94]. Tai Hoa Ky mơt chưong trình cung
cấp dinh dương đạc biêt cho phu nư, tre so sinh và tre em (WIC) thông qua
viêc cung cấp các khoan viên trơ về dinh dương, cham sóc sưc khoe, giáo
duc dinh dương cho phu nư mang thai có thu nhâp thấp, phu nư NCBSM,
khơng NCBSM và tre so sinh, tre em dươi 5 tuôi. Tuy nhiên nghiên cưu cua
Kent G. và Holmes A. V đánh giá về chưong trình này chi ra rằng chưong
trình WIC làm thúc đây viêc sư dung sưa công thưc ơ tre em qua đó đạt tre
em vào tình trang nguy co cao đối vơi sưc khoe [108]. Tai Philippines ty lê
NCBSMHT trong 4 tháng đầu giam tư 47,3% nam 1998 xuống 40,1% nam
2008. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của các thông đi êp quang cáo sưa
công thưc và đươc bác si khuyên nên dùng sưa công thưc. Nghiên cưu cung
chi ra rằng nhưng bà me có thê nhắc lai các thơng điêp quang cáo cho con
cua mình sư dung sưa cơng thưc gấp 2 lần nhưng bà me cịn lai và nhưng bà
me đươc quang cáo bơi bác si cho con mình sư dung sưa cơng thưc cao gấp
4 lần nhưng bà me không đươc bác si giơi thiêu về sưa công thưc [161].
Nghiên cưu theo dõi về thưc hành NCBSM tai Trung Quốc cho thấy ty lê bú
sơm sau sinh ơ thành thi, ngoai ô và nông thôn lần lươt là 96,5%, 96,8%,
97,4% tuy nhiên ty lê bú me hồn tồn trong 6 tháng đầu giam x́ng chi
cịn 0,2%, 0,5% và 7,2% và viêc quang cáo các san phâm sưa cơng thưc
đươc xác đinh là có liên quan đến tình trang này [150].
Tai Viêt Nam, từ những năm đầu của thế kỷ XX, một số nhà nghiên
cứu đã khẳng định về ảnh hưởng lớn đến thực hành NCBSM. Kết qua
nghiên cưu cua Dương Văn Đat và cơng sư cho thấy có tơi 98% bà me tiếp
cân vơi các hãng sưa trong thơi ky mang thai và sau sinh, trong đó có tơi
53% bà me quyết đinh mua sưa công thưc sau khi nhân đươc nhưng nôi
dung quang cáo này [96], [97], [95].
Trong báo cáo tồn văn điều tra 11 tỉnh cua tơ chưc A&T tiếp tuc
khăng đinh sưa bôt cho tre sơ sinh rất săn có đới vơi các bà me sinh con tai
cơ sơ y tế. Cho tre ăn các thưc ăn long ngồi sưa me cung phơ biến hơn tai
các bênh viên so vơi các tram y tế xã và nhà hô sinh. Chi 42,4% các bà me
sinh con tai bênh viên không cho tre sơ sinh dùng sưa bôt trong 3 ngày đầu,
trong khi đó ty lê các bà me sinh tai tram y tế xã hoặc nhà hô sinh làm như
vây là 69,1%. Khoảng 20% số các bà me mang theo sưa bôt khi đến sinh tai
các cơ sơ y tế, và gần môt nưa số bà me mua sưa tai hoặc gần các cơ sơ y tế
sau khi sinh [61].
Đê khắc phuc tình trang quang cáo và tiếp thi tràn lan các loai sưa
giành cho tre dươi 12 tháng ti Chính phu đã thơng qua Nghi đinh số
21/2006/NĐ-CP cấm quang cáo và bán các loai sưa cho tre dươi 12 tháng
tuôi và thưc phâm bô sung cho tre dươi 6 tháng ti, viêc tiếp xúc vơi gia
đình cua tre em dươi 12 tháng tuôi đê tiếp thi, quang cáo các san phâm sưa
công thưc cung không đươc cho phép, tuy nhiên các hãng sưa lai lách luât
bằng cách tiếp cân vơi các bác si trong bênh viên làm cầu nới đới vơi gia
đình tre nho [47]. Theo đánh giá cua Bô Y tế kết hơp vơi UNICEF và A&T
về viêc thưc hiên Nghi đinh số 21 cho thấy các hãng sưa đã vi pham Nghi
đinh này khi tiếp xúc vơi bà me thông qua cán bô bênh viên như bác si, điều
dưỡng đê quang cáo cho các san phâm sưa cua mình, có 8,6% bà me nhân
đươc các san phâm sưa khuyến mãi tai cơ sơ y tế, trên 80% bà me nhân
đươc tơ rơi quang cáo sưa cho tre dươi 12 tháng ti tư nhân viên tiếp thi.
Ngồi ra có 32,4% các cưa hàng bán sưa cho tre dươi 12 tháng ti và chi có
48% nhãn san phâm dinh dương dùng cho tre dươi 6 tháng tuôi tuân thu tất
ca các quy đinh cua Nghi đinh số 21. Các hãng sưa thương đưa ra nhưng
tun bớ khơng chính xác về tác dung cua sưa công thưc so vơi sưa me,
không đáp ưng đươc các yêu cầu về nhãn mác và thương xun có các
chương trình khún mãi như tặng q, giam giá san phâm nhằm khuyến
khích bà me sư dung sưa cho tre dươi 6 tháng tuôi [148].
Trong khi các truyền thông về các sản phẩm dinh dưỡng cho bà mẹ
được đăng tải rộng rãi trên mọi phương tiện truyền thông đại chúng thì các
thơng tin về NCBSM vân cịn rất han chế. Kết qua nghiên cưu A&T cho
thấy tivi là phương tiên truyền thông quan trong về NCBSM tai Viêt Nam
nhưng các thông điêp về NCBSM mà bà me nhân đươc là chưa toàn diên và
cần tăng cương tiếp cân nhưng thông điêp này [63]. Hơn nưa, các công ty
sưa đã tiếp cân đươc số lương lơn các bà me và ho đang có các chương trình
quang cáo canh tranh vơi các chương trình trùn thơng về NCBSM. Bà me
tiếp cân quang cáo sưa bôt nhiều hơn so vơi tiếp cân thơng tin khún khích
NCBSM trên tivi. So vơi 83,7% bà me nhìn thấy quang cáo sưa bơt cho tre
nho trên tivi, chi có 40,4% bà me nhìn thấy quang cáo khuyến khích
NCBSM và viêc tiếp xúc nhiều vơi các thông tin quang cáo về sưa công
thưc này se anh hương nhiều đến viêc thưc hành NCBSM [63].
Cũng từ báo cáo của Viện Gia đình và Giới năm 2013 “Ni dưỡng
trẻ nhỏ ở một số địa phương tại Việt Nam: Thực tiễn và chính sách” lưu ý là
có hơn một nưa sớ các bà me có nghề nghiệp là cơng nhân, nhân viên không
biết đến khuyến cáo cho con bú me đến 24 tháng cua ngành y tế [11]. Điều
này đặt ra yêu cầu cần quan tâm hơn đến việc tuyên truyền cho các bà me
công nhân, nhân viên. Kết qua này cung có thê cịn do ơ khu vưc đô thi các
bà me thường tư tìm hiêu về các vấn đề chăm sóc con, trong khi đó ơ nơng
thơn viẹc tun truyền thông qua hội phu nư là khá tốt. Trong hồn canh đó,
nếu cơng viẹc q bận biu thì các bà me ơ đô thi hay là công nhân se có ít
điều kiện biết thơng tin hơn.
Ảnh hưởng của các thơng điệp truyền đến được với bà mẹ cịn được
thơng qua một kênh quan trọng là tư vấn của cán bộ y tế. Theo nghiên cứu
của Nguyễn Kim Tuyết, 85% số bà mẹ nhận được tư vấn NCBSM qua cán
bộ y tế, cao hơn số bà mẹ được nghe qua Tivi (81%) [68].
1.7. Một số chương trình can thiệp cải thiện kiến thức, thái độ, thực
hành NCBSM
1.7.1. Một số mô hình trên thế giới
Có khá nhiều chương trình can thiệp thúc đẩy kiến thức và thực hành
NCBSM ở nhiều nước trên thế giới. Tìm hiểu các số liệu thứ cấp trên thư
viện Pubmed, Medline, Cochrane Library, EMBASE và của WHO từ tháng
5/2012 đến 27/11/2012 cho kết quả có 372 chương trình can thiệp được thực
hiện, trong đó có 111 nghiên cứu sử dụng can thiệp truyền thông dựa và
cộng đồng, 21 can thiệp tại cộng đồng và 43 nghiên cứu kết hợp can thiệp ở
cộng đồng và ở các dịch vụ y tế. Trong số 111 nghiên cứu can thiệp truyền
thơng dựa vào cộng động có 27 nghiên cứu ở các nước đang phát triển. Các
can thiệp ở những nghiên cứu này cũng chủ yếu tiến hành các truyền thông
cá nhân, truyền thơng nhóm, thăm hộ gia đình và có thêm hình thức gọi điện
thoại hỏi thăm, tư vấn, khuyến khích các bà mẹ.
Dự án LINKAGES được thực hiện từ năm 1999 - 2003 ở Bolivia và
Madagascar áp dụng mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng để mang đến
những thay đổi nhanh chóng trong hành vi cá nhân và cả cộng đồng liên
quan đến bú sớm và bú hoàn tồn [81]. Với các can thiệp được áp dụng:
truyền thơng cộng đồng, truyền thông đại chúng, truyền thông trực tiếp, sinh