Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 40 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>-</b>Ông tổ ẩm thực Trung Hoa: 2
giả thuyết:
+Bành Tổ(Tiễn Khanh) phụ
trách việc nếm canh cho Vua Thuấn,
được vua ban cho đất Bành Thành.
+Y Dỗn(Chí) tể tướng đầu đời
Thương, phụ trách bếp núc cho vua
Thành Thang và từng phò vua phạt
Kiệt.
-Người Trung Quốc từ xa xưa
vốn đã rất coi trọng chuyện ăn uống.
Nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề ẩm
thực đã được ghi chép từ rất sớm.
<b>-8 trường phái ẩm thực Trung </b>
<b>Hoa:</b> Sơn Đông, Tứ Xuyên,
Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang
Tô, Chiết Giang, Hồ Nam và An
Huy
mỗi trường phái được ví bằng
một hình tượng nghệ thụât.
-Một số thói quen và quan niệm ẩm
thực của người Trung Quốc:
+Người miền Bắc chủ yếu ăn màn
thầu, mì. Người miền Nam chủ
yếu ăn cơm.
+Đũa là một vật dụng quen thuộc
dùng trong chế biến và thưởng
thức món ăn. Người Trung Quốc
cho rằng, sử dụng đũa trong khi
ăn thể hiện sự điềm đạm, khoan
thai và lịch sự. Người Trung Quốc
khơng dùng dao nĩa vì cho rằng
đó là những vũ khí sát thương
+Quan niệm về sự đủ đầy: Gà và cá là hai món
ăn thường xuất hiện trong bữa ăn nguời
Trung Quốc. Gà và cá sau khi chế biến
được xếp đầy đủ lên dĩa, thể hiện sự trọn
vẹn, đủ đầy, “đầu xi đi lọt”. Món gà, cá
+Áp dụng nguyên lý ẩm thực trị
nước: Y Doãn từng khuyên vua
Thành Thang áp dụng nguyên lý
ẩm thực và điều tiết hương vị
vào việc trị thiên hạ.(Nấu nướng
cũng như kỹ năng cỡi ngựa bắn
cung, như thể biến hoá âm
dương sinh vạn vật. Người đầu
bếp giống như người trị vì thiên
hạ)
Nền ẩm thực Trung Hoa nổi
-<b>Tào Tuyết Cần</b>(1716-1763?)
tên Triêm, tên tự là Mộng Nguyễn, Cần
Phố, hiệu là Tuyết Cần, Cần Khê,
<b>-Cao Ngạc </b>tự là Vận Sĩ, tự là Hồng Lâu Ngoại Sĩ(Người ngoài lầu
hồng, khơng dính dáng tới cơng danh phú q), từng làm quan dưới hai triều
Càn Long và Gia Khánh, cũng từng trải qua nhiều hoạn nạn, thăng trầm trong
cuộc đời.Hai mươi tám năm sau ngày Tào Tuyết Cần mất, Cao Ngạc đã dựa
trên nền tảng và ý hướng văn phong của Tào Tuyết Cần để viết tiếp 40 hồi
cuối của Hồng Lâu Mộng và được dư luận đón nhận.
Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc có nhiều nét tương đồng về cuộc đời và
suy nghĩ, do đó dễ dàng đồng cảm tâm sự của nhau. Chính vì vậy mà sau hai
mươi tám năm, dù đã có rất nhiều người thử viết tiếp Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần đều không thành công. Phải đến Cao Ngạc, đoạn kết của Hồng Lâu
Mộng mới thực sự đáp ứng được sự mong đợi của mọi người.
<b>-Gỉa thuyết khác về tác giả Hồng Lâu Mộng:</b>
<b>+Hồng Thăng:</b>Văn nhân cuối đời Minh, tác giả “Trường Sinh
Điện”giả thuyết của nhà nghiên cứu Lưu Mộng Khê, Phái Tố Cấp, Thổ Mặc
Nhiệt,...
-Tên gọi: Thạch đầu ký,
Kim lăng thập nhị hoa, Hồng Lâu
Mộng.
-Là một trong tứ đại kỳ thư
của văn học cổ điển Trung
Quốc(gồm Tam Quốc diễn nghĩa
của La Quán Trung, Tây Du Ký
của Ngô Thừa Ân và Thuỷ Hử
của Thi Nại Am).
-Thời gian sáng tác: giữa
thế kỷ 18,đời Kiền Long, triều đại
nhà Thanh, Trung Quốc.
-Năm 1792-1793 được in và lưu truyền
khắp nơi trên đất nước Trung Quốc.
-Được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới.
-Ảnh hưởng: Hồng Lâu Mộng là một
kiệt tác tổng hợp các vấn đề tình
yêu, triết học, y học, văn hoá, ẩm
thực, trang phục,... Sức ảnh hưởng
của nó mạnh đến nỗi người Trung
Quốc say mê đọc nó, bình luận và
sáng tác về nó, khi ngồi vào bàn
bàn luận văn chuơng là phải nói
đến nó đầu tiên. các học giả phải
thành lập bộ môn nghiên cứu Hồng
Học chuyên nghiên cứu các vấn đề
Hồng Lâu Mộng.Năm 1987, tác
phầm Hồng Lâu Mộng đã được
<b>-Nội dung:</b>
Hồng Lâu Mộng là câu chuyện tình
giữa Gỉa Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc.
Gỉa Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai
anh em cô cậu ruột, cùng ở một nhà từ
lúc bé. Lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà
nội nng chiều, riêng cho ở trong
vườn Địa Quan cùng với đám “quần
thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi
nhau.
Bảo Ngọc sống giữa đám a hoàn nhan
sắc, anh nêu lên cái “nguyên lý nữ
tính” rất xa lạ với tư tưởng “trọng nam
khinh nữ” của xã hội Phong Kiến lúc
bấy giờ.
Nhưng dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có
Đại Ngọc thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu
đuối, tâm hồn phong phú và nhạy cảm.
Trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc
học giỏi, thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà
thì Bảo Ngọc lại chán ngấy con đường
mịn nhàm chán đó. Và hiểu anh, duy
nhất chỉ có một người, đó là Đại Ngọc.
Đại Ngọc vì gia cảnh đền ở nhờ trong phủ họ Gỉa, mặc cảm “ăn bám ở
nhờ” ln ln làm nàng cứ n chí là “cưới em Lâm”. Lúc giở khăn che
Nàng cảm thấy mình thật cơ đơn. Tình cảnh của nàng con gái, lại mang
phận ở nhờ, mà ở trong cái xã hội ghê khiếp ấy thì nàng chẳng là cái gì
cả, nàng chỉ là một cánh bèo dạt, một cánh hoa rơi.
Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế. còn bi đát
hơn nhiều so với Bảo Ngọc, nàng là Nhưng trong tình yêu này, họ chưa
được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã
cảm thấy mật đắng của cuộc đời. Họ luôn bị bủa vây trong trùng điệp
của mạng lưới phong kiến. Họ không thể tự quyết định cho số phận tình
yêu của mình.
Cuối cùng Gỉa mẫu và bọn phu nhân trong phủ họ Gỉa đã quyết định!
Họ chọn Tiết Bảo Thoa cho Gỉa Bảo Ngọc. Họ thực hiện kế hoạch “đánh
tráo” làm cho Bảo Ngọc Ngọc sau cơn ốm nặng, chết trong niềm đau
đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng đám
cưới của người mình yêu.
• Những món ăn trong Hồng Lâu Mộng: canh da gà nấu măng
chua, chân ngỗng ướp, cháo gạo cẩm,bánh đậu, yến sào, bánh
bột hoài sơn nhân táo, cháo dừ, bánh mạc đầu, chân giò ninh
dừ, cháo mai hoa, bánh sữa cháo lạp bát, thịt chim trĩ, cháo
gạo trắng với hành, canh đặc với nước đường, canh lá sen và
ngó sen, cua luộc, cà xào, bánh hấp bột ngột lá sen, bánh cuốn
mỡ ngỗng, bánh miến hấp, cháo gạo tấm, cháo vịt, bánh canh
thịt lợn nướng nấu măng tươi, cháo và dưa muối, canh hợp
khoan, quả cát tường, trứng luộc...
-Trà và rượu là 2 thức uống xuất hiện thường xuyên nhất trong
sinh hoạt thường ngày người dân Trung Quốc.Trà, rượu trở
thành nhã thú của mọi giai tầng trong xã hội,trên có nhà
vua,q tộc,các bậc vương giả, dưới có dân thường, khơng ai
không biết đến trà và rượu.
-Rượu :được uống vào dịp lễ vào cung,tết Nguyên tiêu,tết
Đoan Dương hay những buổi họp hoan,bữa tiệc đêm khuya….
(Tết Đoan Dương :Tiết phu nhân
bày tiệc rượu mời mẹ con họ Tiết
Tết nguyên tiêu:Giả Mẫu cho
hơn 10 bàn rượu)
Vd: +rượu đồ tô: nấu bằng cỏ đồ
tô, uống vào những ngày tết
hội họp, trong các bữa
chuyện,gãy đàn, xem hát…
được coi là một thu tiêu
dao.Sau những phút
- Trà: bất cứ người Trung Quốc cũng đều biết đến thức uống truyền thống này.
-Trong HLM trà xuất hiện nhiều nhất, từ người sang trọng đến cả bậc bình dân cũng
uống trà, nó xuất hiện ngay phút đầu gặp gỡ, sau bữa tiệc,sau khi làm lễ xong hay
buổi sáng - đêm khuya tỉnh dậy…
+Trà bình dân: các bà vú các nơ tì trong phủ uống
+Trà sen Phúc Kiến: Bảo Ngọc,Giả Mẫu và các tiểu thư uống
Đây là loại trà uống khi sáng thức dậy,
uống ăn kèm với chút mứt gừng(hồi 52),và
cả khi nửa đêm thức dậy.
Nó có tác dụng để ấm người trong khí
lạnh để bảo vệ sức khoẻ.
-Bên cạnh đó trà cịn thể hiện
một nét văn hố: sự cung
kính lễ phép, phong tục dâng kính của con
cháu đối với ông bà ,cha mẹ những người
Trên, đồng thời thể hiện mối quan hệ tình cảm
bạn bè với nhau.(hồi 53: Vưu Thị pha trà dâng
Giả Mẫu và Giả Dung dâng mời các bà cùng
hàng với Giả Mẫu,rồi cứ tiếp theo các tầng bậc
lớn bé….
+<b>Uống dai nước thơm</b>:cách
dùng lấy 1 thìa nước thơm pha
với 1 bát nước uống
>Tác dụng làm tan máu
tụ, lưu thơng khí huyết,
phục hồi sức khoẻ sau
khi bị thương.
giàu có dành cho các bậc vương giả, các tiểu thư công tử.
+ Giả Mẫu được ăn ở trong
cung khi đi lễ triều ,đi chúc
mừng Nguyên Xuân.
+ Đại Ngọc ăn khi bị bệnh.
>Đây là thức ăn để bồi bổ
sức khoẻ.
- Canh ngó sen và lá sen:kết hợp với gà và gia vị nấu lên bát
canh bổ dưỡng,có tác dụng giải nhiệt (Bảo Ngọc dùng khi ốm
và là món ăn Nghênh Xuân hay dùng)
+ Cách làm:đựng trong cái khuôn bằng bạc dài độ hơn 1
thước, rộng 1 tấc trên mặt đúc những lỗ xắp xỉ như hạt đậu
giống hình hoa cúc hoa mai hoặc như hoa tua xen,củ ấu
Cho thấy sự cầu kỳ trong chế biến thức ăn của bậc vương
- Cua luộc:cua chọn kỹ
lưỡng ,phải là những con
cua tươi sống ,to
khoảng 2,3 con đủ 1
cân là được. Cua
được luộc trong nồi
nước nóng,mỗi lần
ăn chỉ lấy 10 con,ăn
-Canh hợp hoan:nấu bằng hoa hợp hoan,một thứ hoa màu
đỏ,sớm nở tối cụp > tượng trưng cho sự đoàn kết, họp mặt
-Canh thịt lợn nấu với măng tươi:ăn bồi bổ sức khỏe (khi Bảo
-Cháo và dưa muối: món ăn thanh đạm cho những người bị
bệnh.
-Món cà xào:đây là món ăn bình thường dân dã nhưng được
họ Giả làm rất công phu
Cách làm: vào tháng 4,5 đi hái cà đem về, gọt bỏ núm chỉ lấy
ruột,đem thái nhỏ như sợi tóc khơ, sau đó bắt một con gà mẹ
ninh ra nước,hấp cà lên xong đem ra phơi, 9 lần phơi 9 lần hấp
lại đem phơi khô xong đem bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín.Khi
ăn lấy một thì trộn với thịt gà xào mà ăn
Quả là một món ăn hết sức cầu kỳ mà chỉ có ở bậc vương giả
Kết luận:
-Ẩm thực Hồng lâu mộng thực
chất là nói về sinh hoạt ăn uống hàng ngày
Ẩm thực của giới quý tộc phong kiến Trung
Quốc.
-Xuất hiện một cách tự nhiên trong
mạch kể chuyện, bên cạnh nhiều cảnh sinh
hoạt khác.
-Gồm cả hai vấn đề ăn và uống
của hàng trăm nhân vật. “Ẩm” thì có rượu,
trà, nước hoa quả. “Thực” thì có những
món bánh trái, thức ăn hàng ngày, những
món ăn dành cho người bệnh, những món
ăn phục vụ trong các dịep lễ, tết,...
-Các món ăn trong Hồng lâu mộng
đều là những món ăn bổ dưỡng, giúp cơ
thể tráng kiện. Dù cho sử dung nguyên liệu
bình thường hay quý hiếm, các món ăn
trong hai phủ Vinh-Ninh đều được chế biến
rất cơng phu, có kỹ thuật.
-Bài nghiên cứu Lịch sử văn hoá ẩm thực Trung Quốc của
Nguyễn Hoàng Thân, Khoa Ngữ văn, ĐHSP Đà Nẵng.