Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

phương pháp Nâng cao hiệu quả môn học giáo dục quốc phòng – an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.15 KB, 58 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài này tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu
sắc đến quý thầy giảng viên trong khoa chính trị - quân sự trường đại học Trà Vinh; đặc
biệt là giảng viên thầy Nguyễn Văn Sáu, thầy là người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn
tơi trong suốt q trình thực hiện và hoàn thành bài nghiên cứu khoa học này.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy và kính chúc thầy cùng gia đình
mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Đồng thời, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành
tới các thầy cô giáo trong khoa Chính trị - qn sự nói riêng, cán bộ, giảng viên và các em
HS, SV trường Đại học Trà Vinh giúp tơi hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
“ Nâng cao chất lượng dạy và học môn giáo dục quốc phòng – an ninh là một
vấn đề rất rộng, nó liên quan đến nhiều nội dung, nhiều lĩnh vực khác nhau. Với thời gian
và khả năng nghiên cứu cịn nhiều hạn chế đề tài khơng khỏi tránh những thiếu sót. Do
đó, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ và để hồn chỉnh đề tài tốt
hơn.

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nguyên nghĩa

BVTQ

Bảo vệ Tổ quốc

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

CĐ, ĐH

Cao đẳng, Đại học

GDQP

Giáo dục Quốc phòng

GDQP-AN

Giáo dục Quốc phòng - An ninh

HS, SV

Học sinh, sinh viên

KTQPAN

Kiến thức quốc phòng - an ninh

XHCN

Xã hội chủ nghĩa
1


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………...
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT………………………………………...
MỤC LỤC……………………………………………………………….
MỞ ĐẦU………………………………………………………………...
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………....……..
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………….
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài……………………………..…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………….
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài…………………………………………….
6. Đóng góp của đề tài…………………………………………………………
7. Cấu trúc của đề tài……………………………………………………….….

Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………………...…...
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDQP – AN…………………
1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDQP – AN nói chung……
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về môn học GDQP – AN……..
1.1.2.1. Giáo dục quốc phòng – an ninh là một nội dung quan trọng trong mục
tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường……………………………….………
1.1.2.2. Giáo dục quốc phịng góp phần giáo dục tồn diện con người mới xã
hội chủ nghĩa…………………………………………………….…………….
1.1.2.3. Giáo dục quốc phòng - an ninh là môn học được luật pháp quy định
1.2. Những quy định cơ bản của "luật GDQP và AN năm 2013" ………….
1.2.1. Bố cục Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh……………….…….....
1.2.2. Nội dung cơ bản của Luật Giáo dục quốc phịng……………….…….
1.3. Chương trình mơn học GDQP - AN ……………………………..……...
1.3.1. Đặc điểm môn học……………………………………………….…….
2


1.3.2. Chương trình mơn học GDQP - AN ……………………………….….


Chương II. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC
PHỊNG – AN NINH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ
VINH………………..
2.1. Những kết quả đạt được………………………………..……….………..
2.1.1. Kết quả………………………………………………………..………..
2.1.1.1. Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ GDQP – AN hàng năm…………..……
2.1.1.2. Đội ngũ giảng viên GDQP - AN được tham gia bồi dưỡng, học tập
nâng cao trình độ hàng năm; tích cực tham gia cơng tác nghiên cứu khoa
học…………………………………………………………………………..…
2.1.1.3. Hoạt động giảng dạy GDQP - AN luôn được quan tâm, chú trọng;
chất lượng GDQP - AN ngày càng nâng lên góp phần hồn thành nhiệm vụ
chung của nhà trường………………………………………………………….
2.1.1.4. Giáo trình, tài liệu phục vụ cho mơn học GDQP - AN được đảm bảo;
cơ sở vật chất, vũ khí trang bị cho mơn học được đầu tư mua sắm hàng
năm…………………………………………………………………………….
2.1.2. Nguyên nhân đạt được các kết quả nói trên…………………….…….
2.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan………………….………………………..….
2.1.2.2. Nguyên nhân khách quan………………….…………..…………….
2.2. Những hạn chế, tồn tại………………….………………………………..
2.2.1. Những hạn chế, tồn tại………………….……………………………..
2.2.2. Nguyên nhân………………….………………………………………..
2.3. Nhận thức của cán bộ, giảng viên, học sinh sinh viên đối với môn học
GDQP - AN ………………….………………….…………………….……...
2.3.1. Nhận thức của cán bộ, giảng viên đối với với môn học GDQP - AN cịn
nhiều tồn tại………………….………………….…………………………….
2.3.1.1. Tình hình, q trình khảo sát………………….…………..………..
2.3.1.2. Kết luận rút ra sau khi khảo sát………………….………………….
2.3.2. Nhận thức của học sinh - sinh viên đối với với mơn học GDQP - AN
chưa đúng đắn, cịn mơ hồ, phiến diện………………….…………………….

2.3.2.1. Tình hình, quá trình khảo sát………………….…………………….
2.3.2.2. Kết luận rút ra sau khi khảo sát………………….………………….

Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO MÔN HỌC GIÁO DỤC
3


QUỐC PHÒNG – AN NINH CHO HỌC SINH SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
3.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, giảng viên, HS, SV về vị trí, tầm quan
trọng của môn học GDQP - AN ……………………………………………….
3.2. Công tác lãnh đạo, quản lý đối với môn học GDQP - AN ……………
3.3. Công tác giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên GDQP - AN ………….
3.4. Hoạt động học tập, nghiên cứu của HS, SV với môn học GDQP – AN…..
3.5. Đảm bảo cơ sở vật cho môn học …………………….………………….

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………..……...…
1. Kết luận………………….………………….…………………………..….
2. Kiến nghị………………….………………….…………………….…..….

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...
PHỤ LỤC……………………………………………………………......

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị định 116/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về quốc phịng-an ninh chỉ
rõ: “Giáo dục quốc phòng - an ninh là bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung

cơ bản trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân; là mơn học chính
khố trong chương trình giáo dục và đào tạo trung học phổ thông đến cao đẳng, đại học
và các trường có liên quan …”.
Những năm qua, cùng với những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi mới đất
nước, cơng tác quốc phịng, an ninh nước ta luôn được Ðảng, Nhà nước, nhân dân chăm
lo xây dựng, củng cố. Vì vậy, tiềm lực và thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân được giữ vững, cơng tác giáo dục quốc phịng-an ninh ngày càng được tăng
cường. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”. Tư duy mới
của Đảng ta về xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong giai đoạn hiện
nay được thể hiện rõ ở việc tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, làm
cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn
những yếu tố khó lường. Đối với nước ta, các thế lực thù địch vẫn ráo riết chống phá, chủ
yếu bằng chiến lược diễn biến hồ bình, nhằm xố bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển hoá cách mạng nước ta đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta
vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm mưu và với các thủ đoạn hết sức tinh vi. Đặc biệt
ở khu vực Châu Á, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc với âm mưu độc chiếm Biển
Đông đã và đang đặt ra cho chúng ta những thử thách to lớn trong công tác bảo vệ chủ
quyền toàn vện lãnh thổ; cụ thể thời gian qua chúng đã có những hành động xâm phạm
như: vụ cắt cáp tàu thăm dị Bình Minh 02 năm 2011, vụ giàn khoan hải Dương 981 hồi
tháng 5/2014 và đâm chìm tàu ngư dân đánh bắt xa bờ còn nhiều hành động đầy khiêu
khích khác.
Sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học là một lực lượng hùng hậu, có sức khỏe,
có trình độ học vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học kỹ
thuật hiện đại, chủ nhân tương lai của đất nước. Bên cạnh đó là một bộ phận khơng nhỏ
đã và đang bị tác động to lớn bởi cơ chế thị trường, có những biểu hiện xuống cấp về lối
sống, dễ bị kẻ xấu kích động, lơi kéo. Với mục tiêu giáo dục tồn diện về mọi mặt cho

HS, SV mơn học GDQP-AN đã tạo những cơ hội thiết thực cho thế hệ trẻ tu dưỡng về
phẩm chất đạo đức, rèn luyện và hồn thiện bản thân thơng qua các giờ học lý thuyết và
thực hành trên thao trường, đã trang bị cho HS, SV những kiến thức cơ bản về quan điểm
đường lối quân sự của Đảng, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cũng như công
tác Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay.
5


Mặt khác mơn học GDQP-AN cịn trang bị cho HS,SV những kiến thức hữu ích về
một số loại vũ khí, khí tài, thơng qua đó HS, SV có thể biết cách phân biệt, sử dụng và
trang bị cho mình những kỹ thuật cơ bản để sử dụng được một số loại vũ khí thơng
thường và biết cách phịng tránh khi đối phương sử dụng vũ khí hủy diệt lớn.
Ngồi ra mơn học GDQP-AN cịn giúp cho HS, SV biết và hiểu được một số quy
định trong môi trường Quân đội, định hướng cho HS, SV làm việc theo nguyên tắc, kỷ
cương. Tạo cơ sở cho HS, SV tu dưỡng và hoàn thiện kỹ năng sống của bản thân. Để trở
thành những cơng dân có ích trong xã hội.
GDQP-AN là một nhiệm vụ cần thiết đối với thế hệ trẻ, môn học này giúp HS, SV
nhận thức và hành động đúng đắn, tránh được các tệ nạn xã hội đang tồn tại và phát triển
hàng ngày, hàng giờ. Đồng thời giúp HS, SV định hướng được những thế mạnh của mình
để phát huy, hạn chế tối đa các yếu kém.
Môn học GDQP-AN có vai trị quan trọng trong việc khơi dậy và nêu cao tinh thần
yêu nước của thế hệ trẻ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố vững chắc
niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, chống lại mọi âm mưu chia rẽ, phản động
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
GDQP-AN là nhân tố quan trọng để đánh giá phẩm chất đạo đức của HS, SV đồng
thời củng cố và bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường sự
đoàn kết trong nhà trường và các mối quan hệ xã hội khác, gắn kết tinh thần dân tộc và
xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân.
Xuất phát từ vai trị to lớn của cơng tác GDQP - AN như trên bản thân tơi thấy
mình có trách nhiệm to lớn trong việc góp phần nâng cao chất lượng công tác GDQP –

AN, mà trước hết là đối với HS, SV của mình; góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bằng vốn hiểu biết và kiến thức có được qua thời gian học
tập lớp văn bằng 2 giảng viên GDQP - AN tại trường Đại học Trần Đại Nghĩa, cũng như
quá trình giảng dạy tại trường Đại học Trà Vinh; tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề
tài “Biện pháp nâng cao mơn học giáo dục quốc phịng – an ninh ở trường Đại Học
Trà Vinh"
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nâng cao chất lượng GDQP – AN, biện pháp nâng cao môn học GDQP - AN là
vấn đề cấp thiết, quan trọng trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên làm sao để có biện pháp
nâng cao chất lượng môn học này lại là một vấn đề hết sức mới mẻ. Trước khi tác giả
nghiên cứu đề tài này thì đây là vấn đề chưa được chú trọng trong nghiên cứu; chính vì
vậy có thể khẳng định “ Biện pháp nâng cao mơn học giáo dục quốc phịng – an ninh ở
trường Đại học Trà Vinh” là một trong số những đề tài đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này là nhằm mục đích tìm hiểu về thực trạng cơng tác
GDQP trong trường Đại học Trà Vinh, đánh giá nguyên nhân và những kết quả đã đạt
được từ đó rút ra những nội dung trọng tâm cần phải thực hiện trong nâng cao chất lượng
công tác GDQP-AN, biện pháp nâng cao môn học GDQP – AN. Đồng thời đề xuất những
6


giải pháp thiết thực để thực hiện tốt những nội dung công tác GDQP-AN tại trường, biện
pháp nâng cao học mơn học GDQP – AN góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Đề tài này giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu và chỉ ra được thực trạng công tác GDQP - AN tại trường Đại học
Trà Vinh.
- Nghiên cứu về nhận thức của cán bộ giảng viên, học sinh sinh viên trong trường
đối với môn học GDQP - AN và đưa ra các giải pháp, biện pháp nâng cao môn học GDQP
- AN tại trường Đại học Trà Vinh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện nhiệm vụ GDQP – AN, công tác
giảng dạy, học tập môn GDQP – AN tại trường Đại học Trà Vinh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về những nội dung liên quan
đến là công tác GDQP – AN, cụ thể như: Hoạt động giảng dạy, học tập môn GDQP – AN
ở trường.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài này mang tính lý luận cũng như thực tiễn cao, vì vậy trong quá trình thực
hiện nghiên cứu; đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học.
Trước hết là các phương pháp nghiên cứu lí thuyết như: phân tích, tổng hợp, phân
loại, đánh giá, hệ thống hóa, giã thuyết …nhằm thu tập thông tin khoa học trên cơ sở
nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến GDQP - AN để rút ra các kết luận khoa học
cần thiết.
Cùng với các phương pháp nghiên cứu lí thuyết là sử dụng các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn như: quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, tổng kết kinh nghiệm, thực
nghiệm …
6. Đóng góp của đề tài
Với việc hồn thành cơng tác nghiên cứu đề tài này sẽ có biện pháp nâng cao môn
học GDQP – AN, chất lượng công tác GDQP – AN, mà cụ thể là nâng cao chất lượng dạy
học và nhận thức của HS, SV đối với môn học GDQP - AN tại trường Đại học Trà Vinh
nói riêng cũng như nâng cao hiệu quả mơn học cho các cơ sỡ đào tạo khác.
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm có:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Gồm có 3 chương
7


Chương 1: Cơ sở lý luận

1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDQP – AN
1.2. Những quy định cơ bản của "luật GDQP và AN năm 2013
1.3. Chương trình mơn học GDQP - AN
Chương 2: Thực trạng công tác GDQP - AN tại trường Đại học Trà Vinh.
2.1. Những kết quả đạt được
2.2. Những hạn chế, tồn tại
2.3. Nhận thức của cán bộ, giảng viên, học sinh sinh viên đối với môn học GDQP AN
Chương 3: Giải pháp, biện pháp nâng cao môn học GDQP - AN ở trường Đại học
Trà Vinh.
3.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, giảng viên, HS, SV về vị trí, tầm quan trọng
của môn học GDQP - AN
3.2. Công tác lãnh đạo, quản lý đối với môn học GDQP - AN
3.3. Công tác giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên GDQP - AN
3.4. Hoạt động học tập, nghiên cứu của HS, SV với môn học GDQP - AN
3.5. Đảm bảo cơ sở vật cho môn học
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

8


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDQP – AN
1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDQP – AN nói chung
Ngay khi đất nước giành được độc lập, tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường, trong đó có đoạn: “Đối riêng với các em
lớn, tôi khuyên thêm một điều này: chúng ta đã đánh đuổi bọn thực dân, chúng ta đã
giành được độc lập. Nhưng giặc Pháp còn lăm le quay lại. Chúng ỷ vào kẻ khác mạnh
hơn mà gây sự với ta. Tất nhiên chúng sẽ bị bại, vì tất cả quốc dân ta đồn kết chặt chẽ
và một lòng chiến đấu cho giang sơn Tổ quốc. Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp

nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công
việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội
cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước.”1. Bức thư này không chỉ thể hiện sự quan tâm của
Người đối với sự nghiệp giáo dục cho thế hệ trẻ, mà còn thể hiện rõ nét tư tưởng về giáo
dục ý thức cơng dân trong giữ gìn và bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Quan điểm nhất
quán của Người là “dựng nước phải đi đôi với giữ nước”.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Luật về chế độ phục vụ của sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam, có đề cập việc phong hàm sĩ quan dự bị cho sinh viên tốt nghiệp
đại học. Ngày 28 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
219/CP về việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và dân quân tự vệ; tại Điều 3 văn
bản này quy định: “…các trường đại học và các trường chuyên nghiệp trung cấp, việc
học tập qn sự phải đặt thành một mơn học chính...”. Từ đó, học vięn trung cấp được
học chương trình qn sự tương đương của hạ sĩ quan; sinh viên đại học được học theo
chương trình dự bị sĩ quan.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh; để phát huy nhân tố chính trị tinh thần, huy động
sức mạnh tổng hợp của tồn dân, của cả hệ thống chính trị, tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh của đất nước, củng cố, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, gắn thế trận
quốc phịng tồn dân với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, nhằm góp phần
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta ln coi trọng
đến giáo dục quốc phịng và an ninh.
Vấn đề quốc phịng, an ninh nói chung, giáo dục quốc phịng và an ninh nói riêng
ln được đề cập trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là từ năm 2001 đến nay.
Triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về quốc phòng, an ninh, nhất là Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị
quyết của Bộ Chính trị (khóa VIII) về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, ngày 30 tháng
11

[11, tr. 71, 72]


9


7 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW và tiếp đó là Nghị quyết
Số 28-NQ/TW ngày 22 tháng 9 năm 2008 về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành khu vực phịng thủ vững chắc trong tình hình mới. Trong đó,
Nghị quyết nhấn mạnh “Việc tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thành khu vực phòng thủ vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đặt ra là “Xây
dựng khu vực phịng thủ có tiềm lực và sức mạnh toàn diện, nhằm ngăn ngừa, làm thất
bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù
địch; giữ vững ổn định chính trị, mơi trường hịa bình để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc
phịng, an ninh; giữ vững chủ quyền biển, đảo, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược, bảo vệ vững chắc từng địa phương trong mọi tình huống, góp phần bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, Đảng ta
xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là “tập trung xây dựng tiềm lực về chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sinh, khoa học - cơng nghệ, quốc phịng, an ninh và
đối ngoại của khu vực phòng thủ; xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân vững chắc trên từng địa phương”; đồng thời, đề ra các giải pháp
chủ yếu để thực hiện, trong đó xác định “nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục quốc
phịng, an ninh, trước hết là đối với cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành từ Trung ương
đến cơ sở”, nhằm đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến về nhận thức và trách nhiệm của cán bộ
chủ chốt ở các cấp, các ngành và toàn dân trong xây dựng khu vực phòng thủ.
Đảng xác định “Giáo dục quốc phòng, an ninh là một bộ phận của nền giáo dục
quốc dân”2, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của
chính quyền và vai trị tham mưu của các cơ quan, ban, ngành, đồn thể.
Giáo dục quốc phòng và an ninh là “…nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội; phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến
địa phương”3.

Giáo dục quốc phòng và an ninh được tiến hành “bằng các hình thức tổ chức phù
hợp với từng đối tượng”4, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục tập trung, có trọng
tâm, trọng điểm. “Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm
vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giáo
dục lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, lịch sử, truyền thống của Đảng và dân
tộc, lịng tự tơn, ý thức dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật; nâng cao ý thức
trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh… xây
dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc,
trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết làm thất bại
mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ, coi trọng nhiệm vụ bảo
đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ
chức, cơ quan, đơn vị”5.
2

[1] Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.
[1] Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.
4
[1] Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.
5
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng.
3

10


Quy định số 07-QĐ/BTCTW ngày 16 tháng 4 năm 2008 về tiêu chuẩn kiến thức
quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên của Ban Tổ chức Trung ương là sự thể hiện
quan tâm đặc biệt của Đảng đến giáo dục quốc phịng và an ninh.
Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục quốc phòng và an ninh,
Nhà nước, các cơ quan chức năng có thẩm quyền đã kịp thời ban hành các văn bản phát

luật và triển khai thực hiện.
Theo đó, mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh nhằm “Giáo dục cho cơng dân
về kiến thức quốc phịng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng
nước và giữ nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.6
Như vậy, theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, giáo dục quốc phòng và an ninh
là: Tổng thể các hoạt động giáo dục nhằm xây dựng, nâng cao phẩm chất và năng lực về
quốc phòng và an ninh cho công dân Việt Nam trong các hoạt động nhằm thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tổng thể các hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm cả hoạt động
giáo dục và hoạt động bồi dưỡng; tùy theo đối tượng cụ thể để thực hiện giáo dục hay bồi
dưỡng nâng cao kiến thức về quốc phòng và an ninh. Nội dung giáo dục quốc phòng và
an ninh bao gồm: hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp
luật của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa về quốc phòng và an ninh; về truyền thống
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam và về kỹ năng quân sự - khả năng thực hành
những nội dung cơ bản, cần thiết về kỹ, chiến thuật quân sự.
Đối tượng giáo dục quốc phòng và an ninh là mọi cơng dân Việt Nam. Cơng dân
có quyền và trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nắm vững kiến thức quốc phịng và an
ninh.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân có vai trị khác nhau trong hệ thống chính trị, các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội và cộng đồng; vì vậy, tùy thuộc vào vai trị xã hội của các cá
nhân trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và cộng đồng để
phân nhóm đối tượng và xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho phù hợp. Trong từng giai đoạn cụ thể, nội
dung giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh được xác định, bổ sung cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Mục tiêu của giáo dục quốc phòng và an ninh là xây dựng, nâng cao lòng yêu
nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức cảnh giác cách mạng, tự giác chấp hành và thực
hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của cơng dân; có kiến thức, kỹ năng quốc phòng và an ninh
cần thiết, phù hợp với vai trò và lĩnh vực hoạt động xã hội, nhằm bảo vệ vững chắc độc

lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ chế độ xã
hội và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh.
Tóm lại, giáo dục quốc phịng và an ninh là q trình giáo dục, bồi dưỡng cho công
dân những phẩm chất và năng lực cần thiết về quốc phòng và an ninh theo vai trò xã hội
6

[8] Điều 4, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, số 30/2013/QH13.

11


đảm nhiệm nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục quốc phòng và an ninh có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xây dựng nhân tố
chính trị tinh thần, xây dựng thế trận lịng dân vững chắc, giáo dục quốc phòng và an ninh
còn thiết thực góp phần gắn các hoạt động xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…
với quốc phịng, an ninh, nhằm phát huy mọi tiềm lực của đất nước và tồn dân vào cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, giáo dục
quốc phịng và an ninh là một trong những chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng,
được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể chế hóa thành Luật Giáo dục
quốc phịng và an ninh.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về môn học GDQP – AN
Phát biểu khai mạc Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 khóa IX, Tổng
Bí thư Nơng Đức Mạnh nhấn mạnh: “Dựng nước đi đôi với giữ nước” là quy luật tồn tại
và phát triển của dân tộc Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, bên cạnh đường lối
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược sống cịn trong q trình lãnh đạo đất nước. Trong
cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, quy luật “dựng nước đi đơi với giữ
nước” được biểu hiện tập trung trong hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu

cơ với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong các
kỳ Đại hội, Đảng ta luôn khẳng định và chỉ đạo chặt chẽ công tác tăng cường sức mạnh
quốc phòng – an ninh, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Chỉ thị số 12/CT/TW của Bộ chính trị - Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN,
ngày 3/5/2007 khẳng định “Giáo dục quốc phòng, an ninh là một bộ phận của nền giáo
dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường GDQP-AN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung
ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục
thường xuyên với giáo dục tập trung có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giáo dục lòng
yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, ý thức
sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơng dân”.
1.1.2.1. Giáo dục quốc phịng – an ninh là một nội dung quan trọng trong mục
tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường
Dựng nước phải đi đơi với giữ nước. Đó là quy luật tồn tại và phát triển của dân
tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Khi có giặc ngoại xâm cũng như khi đất nước
hồ bình thịnh trị, ơng cha ta ln chăm lo kế sách dài lâu, “sâu rễ bền gốc” luyện binh
lúc thư nhàn: “thái bình gắng sức, non nước ấy ngàn thu”. Hay quân ở trong dân “ngụ
binh ư nông” sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
được phát huy cao độ trong chiến lược phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
12


bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sự
gắn bó có tính lịch sử, biện chứng tất yếu này khẳng định quy luật tồn tại và phát triển của
dân tộc ta luôn luôn gắn liền hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước.Trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, GDQP tồn dân, trong đó
GDQP cho HS, SV là một nội dung quan trọng của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng

tồn dân, là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân.
Tình hình quốc tế và khu vực trong thời gian qua cho thấy rằng, trong những thập
niên đầu của thế kỷ XXI, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra một cách gay
gắt. Những năm tới, ít có khả năng diễn ra các cuộc chiến tranh quy mô lớn và chiến tranh
thế giới nhưng các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
biên giới vẫn xảy ra liên tục ở nhiều khu vực. Các thế lực thù địch có thể núp dưới chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền” để phát động các cuộc chiến tranh nhằm áp đặt ý đồ của
chúng lên các dân tộc khác, thơn tính, lật đổ chế độ, ép các nước phải đi theo quỹ đạo của
chúng.
Mặt khác, thế giới đang đứng trước những vấn đề có tính tồn cầu, bản thân mỗi
nước khơng thể tự giải quyết được mà phải có sự phối hợp đa phương như: bảo vệ hồ
bình; ngăn chặn các bệnh hiểm nghèo; bảo vệ môi trường; chống tội phạm quốc tế... đã
đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ Tổ quốc.
Xu hướng tồn cầu hố về kinh tế đang là một xu hướng khách quan. Tồn cầu hố
về kinh tế, dù nhiều, dù ít, các nước đều có sự phụ thuộc lẫn nhau; quan hệ “đối tượng”,
“đối tác” trở nên không rõ ràng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Các nước phát triển đang lợi
dụng ưu thế về vốn, trình độ khoa học – kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại để ép các nước
kém phát triển. Mặt khác do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật và cơng nghệ
tiên tiến làm cho vũ khí, trang bị quân sự liên tục đổi mới và phát triển với những vũ khí,
trang bị hiện đại, độ chính xác cao, tinh khơn, tàng hình, uy lực sát thương lớn; nguyên lí
sát thương phá hoại khác với vũ khí thơng thường... điều đó khơng những làm thay đổi
biên chế, tổ chức quân đội các nước, mà còn làm thay đổi phương thức tiến hành chiến
tranh, phương thức bảo vệ Tổ quốc và nghệ thuật qn sự. Tình hình đó làm cho nhiệm vụ
quốc phịng ngày nay đã có nhiều thay đổi cả về nội dung, phương thức và đối tượng.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX về quốc phòng – an ninh đã chỉ
rõ những yêu cầu mới về bảo vệ Tổ quốc: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”.
Yêu cầu mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất

lượng, hiệu quả công tác quốc phịng bảo đảm cho đất nước nói chung và từng khu vực
tỉnh, thành phố phải luôn chủ động, sẵn sàng, khơng để bị bất ngờ trước mọi tình huống
xảy ra; giữ vững ổn định, ngăn ngừa, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, để tập trung xây
dựng đất nước. Điều đó đặt ra yêu cầu quan trọng là phải tăng cường GDQP toàn dân.
Phải gắn kết chặt chẽ quá trình giáo dục –đào tạo với việc thực hiện nhiệm vụ quốc phịng
– an ninh, nhằm tăng cường tính hiệu quả trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược.
Thực hiện tốt các mặt cơng tác quốc phịng, trong đó có nhiệm vụ GDQP cho sinh viên là
13


thiết thực góp phần ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo. GDQP góp phần nâng cao dân trí, tăng cường tiềm lực
về tri thức phòng thủ đất nước. Con đường hiệu quả nhất để đưa đường lối chủ trương của
Đảng về quốc phòng – an ninh vào cuộc sống phải bằng con đường giáo dục –đào tạo.
Chỉ có giáo dục – đào tạo mới làm cho mỗi người nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nhiệm
vụ bảo vệ đất nước. GDQP làm cho thế hệ trẻ sinh viên nhận thức được giá trị độc lập, tự
do, sự hy sinh lớn lao của các thế hệ ông cha để bảo vệ đất nước. Trong mỗi giai đoạn
cách mạng và đổi mới giáo dục – đào tạo chương trình mơn học GDQP, từ tên gọi đến nội
dung đều được đổi mới kịp thời, đáp ứng những vấn đề cơ bản về đường lối xây dựng nền
quốc phịng tồn dân của Đảng.
Từ năm 1961, thực hiện Nghị định 219/CP của Hội đồng Chính phủ, việc huấn
luyện qn sự phổ thơng đã được chính thức đưa vào các nhà trường. Ngày 28/12/1961
Hội đồng chính phủ (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 219/CP về việc huấn luyện
quân sự cho quân nhân dự bị và dân quân tự vệ, trong đó quy định: "Trong các trường đại
học và các trường chuyên nghiệp trung cấp, việc học tập qn sự phải đặt thành một mơn
học chính. Sinh viên các trường đại học được huấn luyện theo chương trình đào tạo sĩ
quan, học sinh các trường chuyên nghiệp trung cấp được huấn luyện theo chương trình
đào tạo hạ sĩ quan”. Theo đó, mơn học Huấn luyện qn sự phổ thông qua những chặng
đường phát triển thành môn học Giáo dục quốc phòng và Giáo dục quốc phòng - an ninh
trong hệ thống giáo dục quốc dân, đến nay vừa tròn nửa thế kỷ.

Năm 1966, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp quyết định ban hành chương
trình huấn luyện quân sự thống nhất trong các trường Đại học, CĐ và Trung học chuyên
nghiệp.
Năm 1983, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 749/QP về việc ban hành
chương trình huấn luyện qn sự phổ thơng bậc 1, 2 cho các trường học.
Cùng với GDQP từ những năm 70, công tác đào tạo sĩ quan dự bị từ sinh viên tốt
nghiệp đại học đã được triển khai ở nhiều trường đại học trong cả nước. Đã có hàng vạn
sĩ quan dự bị được đào tạo từ sinh viên tốt nghiệp đại học. Đây là nguồn cán bộ khoa học
kĩ thuật, chun mơn nghiệp vụ và quản lí kinh tế đáng kể cho nhiệm vụ dự bị động viên,
sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hàng ngàn sĩ quan dự bị đã tình nguyện vào phục
vụ lâu dài trong quân đội, nhiều người đang đảm nhiệm những vị trí quan trọng và đã có
nhiều đóng góp cho nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Qua mỗi giai đoạn cách mạng và sự phát triển của giáo dục đào tạo chương trình
GDQP-AN cho HS, SV đã được đổi mới nhiều lần cả nội dung và hình thức giảng dạy.
Năm 1991, chuyển đổi chương trình từ Huấn luyện qn sự phổ thơng sang mơn học giáo
dục quốc phịng đã có sự thay đổi cơ bản nội dung cho phù hợp với giáo dục thời bình,
theo hướng tăng cường tri thức về quốc phòng-quân sự, giảm bớt thực hành kỹ năng.
Với việc chương trình huấn luyện quân sự phổ thơng được đổi thành chương trình
mơn học GDQP với mục tiêu rõ ràng hơn, rộng lớn hơn, phù hợp với yêu cầu phát triển
của giáo dục – đào tạo và nhiệm vụ bảo vệ đất nước trong thời bình. GDQP không chỉ
trang bị các kĩ năng quân sự cần thiết, mà quan trọng hơn là trang bị cho sinh viên một số
14


vấn đề cơ bản về đường lối quốc phòng và quân sự của Đảng, ý thức và kiến thức quốc
phòng để người cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ và quản lí kinh tế biết
kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phịng-an ninh và đối ngoại
ngay trên từng cương vị cơng tác.
Môn học GDQP - AN tạo điều kiện cho sinh viên có thể học tập theo năng lực của
mình, tích luỹ kiến thức theo học phần, chứng chỉ. Sinh viên khi đã tích luỹ đủ học phần,

chứng chỉ được dự thi lấy chứng chỉ môn học GDQP - AN theo Nghị định của Chính
phủ, quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện chương trình mơn học GDQP những
năm qua, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp
với quy chế quản lí giáo dục – đào tạo bậc đại học, năm 2000 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành chương trình mơn học GDQP đổi mới, thay thế cho chương trình mơn học
GDQP ban hành năm 1991.
Như vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, chương trình mơn học GDQP - AN đều
có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và cơng tác quốc phịng
trong từng thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục – đào tạo với quốc phòng –
an ninh.
Đến năm 2007 thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác giáo dục quốc phịng, an ninh trong tình hình mới và
Nghị định số 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ về GDQP-AN, mơn học giáo dục quốc
phịng được chính thức đổi tên thành môn học GDQP-AN (kiến thức giáo dục an ninh
được lồng ghép trong giáo dục quốc phịng). Mơn học đã được khẳng định trong nhóm
các mơn học chung của trình độ đào tạo đại học, chuyên nghiệp và dạy nghề; trong
chương trình văn hố của các trường trung học phổ thông.
Việc đánh giá kết quả học tập đã được thực hiện theo quy chế chung của các cấp
học và quy chế môn học GDQP-AN. Sinh viên ĐH, CĐ kết thúc mơn học có đủ điểm
theo quy định được cấp chứng chỉ GDQP-AN, là một trong những điều kiện xét cấp bằng
tốt nghiệp. Học sinh trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông kết quả
học tập được tính điểm trung bình chung như các mơn học khác.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ ra phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục đào tạo, là cơ hội thuận lợi nhất đổi mới GDQP-AN cho HS, SV, gắn kết chặt chẽ
giữa giáo dục đào tạo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội, sự nhiệp CNH, HĐH đất nước trong xu thế hội nhập và tồn cầu
hóa.
Đảng và Nhà nước đang chủ trương "luật hóa” nhiệm vụ GDQP-AN. Tại kỳ họp
thứ 5 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XIII đã thơng qua “Luật

Giáo dục quốc phịng – An ninh” ngày 19 tháng 6 năm 2013. Luật này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Đây là những điều kiện cơ bản, có tính pháp lý cao
đối với môn học và nhiệm vụ GDQP-AN cho HS, SV.
GDQP-AN cho sinh viên không riêng ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới,
15


khơng phân biệt chế độ chính trị, quy mơ quốc gia, trình độ kinh tế, khoa học – kỹ thuật
và công nghệ đều được quan tâm và đưa vào chương trình chính khố trong các nhà
trường.
1.1.2.2. Giáo dục quốc phịng góp phần giáo dục tồn diện con người mới xã
hội chủ nghĩa
GDQP là môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật quân sự. Là môn học được thể hiện trong đường lối giáo dục
của Đảng và thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy của Nhà nước, nhằm góp phần đào
tạo ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luật Giáo dục 1998 đã xác định : “Mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển
tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thế hệ trẻ HS, SV là chủ nhân của đất nước và đặc biệt là trong thế kỉ XXI –thế kỷ
của nền kinh tế tri thức, phải có những phẩm chất toàn diện về tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH. GDQP, giáo dục
công dân, giáo dục thể chất, thẩm mỹ cùng nhiều môn học khác góp phần hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng các mục tiêu đào tạo
nhân trí, nhân lực, nhân tài phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước;
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.2.3. Giáo dục quốc phịng - an ninh là mơn học được luật pháp quy định
GDQP-AN là mơn học có Chỉ thị của Bộ Chính trị chỉ đạo, mơn học duy nhất được

luật pháp quy định. Điều 17 chương III Luật Nghĩa vụ quân sự 1991 quy định: Việc huấn
luyện quân sự phổ thông (nay là GDQP) cho học sinh ở trường trung học phổ thông,
trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, trường CĐ và trường đại học thuộc
chương trình chính khố.
Trong điều kiện hiện nay, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
giáo dục quốc phịng, an ninh, ngày 03/5/2007 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 12CT/TW thay thế.
Chỉ thị số 62-CT/TW: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với nhiệm
vụ giáo dục quốc phịng, an ninh; cơng tác giáo dục quốc phòng, an ninh phải đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền… Bộ Giáo dục
và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Ban tun giáo Trung
ương đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục quốc phịng, an
ninh cho phù hợp với từng đối tượng. Chỉnh sửa, bổ sung và biên soạn giáo trình, giáo
khoa, tài liệu giáo dục quốc phịng, an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tiếp đó, Chính
phủ ban hành Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 về GDQP-AN, thay thế
Nghị định số 15/2001/NĐ-CP.
16


Qua mỗi giai đoạn cách mạng và sự phát triển của giáo dục đào tạo chương trình
Huấn luyện quân sự phổ thông cho HS,SV đã được đổi mới nhiều lần cả nội dung và hình
thức giảng dạy. Đặc biệt từ năm 1991 đã chuyển đổi chương trình huấn luyện quân sự phổ
thơng thành mơn học giáo dục quốc phịng, đến năm 2000 đã có sự thay đổi cơ bản nội
dung cho phù hợp với giáo dục thời bình, theo hướng tăng cường tri thức về quốc phòng,
giảm bớt thực hành kỹ năng quân sự. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị định của
Chính phủ về GDQP-AN, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình GDQP-AN
cho các cấp học và trình độ đào tạo, kể cả đào tạo chuyên ngành giảng viên GDQP-AN.
Như vậy, từ năm 2007 mơn học chính thức được đổi tên là GDQP-AN.
Trong những năm qua, giáo dục quốc phòng và an ninh tuy cịn một số hạn chế,
nhưng đã góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu,
hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta.
Nhằm khắc phục những hạn chế của cơng tác giáo dục quốc phịng và an ninh;
hồn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đồng bộ; ngŕy 19 tháng 6 năm
2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội (khóa XIII) nýớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ðã thông qua Luật Giáo dục quốc phịng và an ninh số 30/2013/QH13. Luật có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Đây là đạo luật quan trọng, là cơ sở pháp lý cao
nhất để thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh thống nhất trên phạm vi tồn quốc, qua
đó góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ
chức và của mọi công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
1.2. Những quy định cơ bản của "luật GDQP và AN năm 2013"
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Để
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, Đảng ta chủ trương xây
dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; trong đó, giáo dục quốc
phịng và an ninh là một mắt xích, một nhiệm vụ rất quan trọng.
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giáo dục quốc phòng và an ninh là một nhiệm vụ
nhằm giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; nâng
cao ý thức trách nhiệm của tồn dân đối với nhiệm vụ quốc phịng, an ninh. Chính vì vậy,
giáo dục quốc phịng và an ninh có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, giáo dục quốc phòng và an ninh tuy còn một số hạn chế,

17


nhưng đã góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu,
hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta.
Để khắc phục những hạn chế của công tác giáo dục quốc phịng và an ninh; hồn
thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đồng bộ; ngày 19 tháng 6 năm
2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội (khóa XIII) nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thơng qua Luật Giáo dục quốc phịng và an ninh số 30/2013/QH13. Luật có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Đây là đạo luật quan trọng, là cơ sở pháp lý cao
nhất để thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh thống nhất trên phạm vi tồn quốc, qua
đó góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan , tổ
chức và của mọi công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
1.2.1. Bố cục Luật Giáo dục quốc phịng và an ninh
Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh gồm 8 chương, 47 điều.
Chương I. Những quy định chung; Chương này gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9).
Chương II. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường; Chương này gồm 4
điều (từ Điều 10 đến Điều 13).
Chương III. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; Chương này gồm 04 điều
(từ Điều 14 đến Điều 18).
Chương IV. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân; Chương này
gồm 04 điều (từ Điều 19 đến Điều 22).
Chương V. Giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên giáo dục quốc
phòng an ninh; Chương này gồm 06 điều (từ Điều 23 đến Điều 28).

Chương VI. Kinh phí giáo dục quốc phịng và an ninh; Chương này gồm 03 điều
(từ Điều 29 đến Điều 31).
Chương VII. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức về giáo dục quốc
phòng và an ninh; Chương này gồm 14 điều (từ Điều 32 đến Điều 45).
Chương VIII. Điều khoản thi hành; Chương này gồm 02 điều (Điều 46 và Điều
47).
1.2.2. Nội dung cơ bản của Luật Giáo dục quốc phòng
Chương I. Những quy định chung
Chương này gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9): quy định chung về: Phạm vi điều
chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; mục tiêu, nguyên tắc GDQP - AN; chính sách
của Nhà nước, quyền và trách nhiệm của công dân, Trung tâm GDQP - AN và các hành vi
18


bị nghiêm cấm khi thực hiện GDQP - AN.
Chương II. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường
Chương này gồm 4 điều (từ Điều 10 đến Điều 13): quy định về GDQP - AN trong
các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân; từ bậc tiểu học, trung học cơ sở, trường
trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, CĐ nghề đến các cơ sở
giáo dục đại học; các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
Chương III. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh
Chương này gồm 04 điều (từ Điều 14 đến Điều 18): quy định về bồi dưỡng
KTQPAN cho các đối tượng, cá nhân đang công tác tại các cơ quan, tổ chức của Nhà
nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội; người quản lý doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước, các đơn vị sự nghiệp ngoài cơng lập; cá nhân tiêu biểu, người có uy tín
trong cộng đồng dân cư; đồng thời quy định về thẩm quyền triệu tập, cơ sở bồi dưỡng (địa
điểm tổ chức bồi dưỡng) và chế độ, quyền lợi của người được triệu tập, tham gia và hồn
thành chương trình bồi dưỡng KTQPAN.
Chương IV. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân
Chương này gồm 04 điều (từ Điều 19 đến Điều 22): quy định về nội dung, hình

thức phổ biến KTQPAN cho tồn dân nói chung, phổ biến KTQPAN cho người dân ở khu
vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa và trong doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp nói riêng; đồng thời quy định cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ trì và phối hợp trong tổ
chức bồi dưỡng.
Chương V. Giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên giáo dục quốc
phòng an ninh
Chương này gồm 06 điều (từ Điều 23 đến Điều 28): quy định về giáo viên, giảng
viên; quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng giáo viên, giảng viên; trách
nhiệm và quyền lợi của giáo viên, giảng viên; quy định về báo cáo viên, tuyên truyền
viên, trách nhiệm và quyền lợi của báo cáo viên, tuyên truyền viên GDQP - AN.
Chương VI. Kinh phí giáo dục quốc phịng và an ninh
Chương này gồm 03 điều (từ Điều 29 đến Điều 31): quy định về nguồn kinh phí
được huy động cho GDQP - AN; quy định về nội dung chi; việc lập dự toán; chấp hành và
quyết toán kinh phí GDQP - AN.
Chương VII. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức về giáo dục quốc
phòng và an ninh
Chương này gồm 14 điều (từ Điều 32 đến Điều 45): quy định về Nội dung quản lý
Nhà nước về GDQP - AN; cơ quan quản lý Nhà nước về GDQP - AN; nhiệm vụ, quyền
hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở Trung
ương; đồng thời nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ: Quốc phịng, Cơng an, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Bộ Thông tin và Truyền
thông; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; trách
19


nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; các quy định về Hội
đồng GDQP - AN các cấp và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với
việc thực hiện pháp luật về GDQP - AN.
Chương VIII. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 02 điều (Điều 46 và Điều 47): quy định về thời điểm Luật bắt

đầu có hiệu lực thi hành; trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao, được xác định trong Luật GDQP AN.
1.3. Chương trình mơn học GDQP - AN
1.3.1. Đặc điểm mơn học
GDQP-AN nằm trong nhóm các mơn học có tỉ lệ lý thuyết chiếm trên 60% chương
trình mơn học, nhằm tăng cường lý luận cơ bản về đường lối quốc phòng an ninh của
Đảng và những hiểu biết về nội dung cơng tác quốc phịng, an ninh hiện nay cho sinh
viên; giúp cho sinh viên sau khi ra trường nhanh chóng làm quen với các nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh nơi mình cơng tác.
Trang bị, phương tiện dạy học quốc phịng phải có chế độ sử dụng, bảo quản đặc
biệt theo một quy chế riêng, khơng để mất an tồn; khơng để thất lạc, mất mát. Các
trường phải có sân tập, bảo đảm đủ mơ hình học cụ và trang bị dạy học do các nhà máy, xí
nghiệp quốc phịng sản xuất.
Các trường lớn và trung tâm GDQP, cần xây dựng thao trường, bãi tập, phòng học
chuyên dùng đáp ứng yêu cầu của mơn học. Vũ khí sử dụng luyện tập do cơ quan quân sự
địa phương bảo đảm theo thông tư liên Bộ và chỉ thị của Bộ Quốc phòng.
Đội ngũ giảng viên gồm nhiều nguồn: giảng viên là sĩ quan biệt phái của Bộ Quốc
pḥng, giảng viên chuyên trách hoặc kiêm nhiệm trong biên chế cơ hữu của trường, giảng
viên hợp đồng, thỉnh giảng...
Hình thức tổ chức đào tạo đa dạng: ở trung tâm GDQP, tại các trường; liên kết đào
tạo giữa các trường, giữa các trường với các đơn vị, nhà trường qn đội.
1.3.2. Chương trình mơn học GDQP - AN (Ban hành kèm theo Thông tư số:
31/2012/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 9 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
a) Đối tượng áp dụng
Chương trình Giáo dục quốc phòng - an ninh dùng cho sinh viên khối khơng
chun ngành Giáo dục quốc phịng - an ninh trình độ đại học, CĐ, loại hình đào tạo
chính quy.
b) Mục tiêu đào tạo
- Mục tiêu chung:
Trang bị cho HS, SV kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, cơng tác quốc phịng,

an ninh của Đảng và Nhà nước; những kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn sàng tham gia lực lượng dân
20


quân tự vệ, dự bị động viên và làm nghĩa vụ qn sự, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, sẵn
sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Về kiến thức: Có kiến thức cơ bản về đường lối quân sự của Đảng trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
chiến tranh nhân nhân, an ninh nhân dân; đấu tranh, phòng chống chiến lược “diễn biến
hịa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam trong tình
hình mới.
+ Về kỹ năng: Thuần thục trong thao tác các kỹ năng quân sự cần thiết, biết sử
dụng một số loại vũ khí bộ binh, thành thạo trong sử dụng súng tiểu liên AK (CKC).
+ Về thái độ: Rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu nước, yêu
CNXH; xây dựng tác phong nhanh nhẹn; hình thành nếp sống có kỷ luật trong sinh hoạt
tập thể, ý thức cộng đồng ở trường, lớp và khi ra cơng tác.
c) Số lượng học phần, tín chỉ
Chương trình bao gồm 3 học phần, thời lượng 8 tín chỉ.
Học phần 1: Đường lối quân sự của Đảng, 3 tín chỉ; học phần 2: Cơng tác quốc
phịng, an ninh, 2 tín chỉ; học phần 3: Quân sự chung và chiến thuật, kỹ thuật bắn súng
tiểu liên AK (CKC), 3 tín chỉ.
d) Đánh giá kết quả học tập
Thực hiện theo Quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập mơn học
Giáo dục quốc phịng - an ninh, hiện hành.
e) Nội dung chương trình
Nội dung chương trình có 3 học phần, 8 tín chỉ; cụ thể:
Học phần 1: Đường lối quân sự của Đảng (3 tín chỉ)
- Mục tiêu:

Trang bị cho HS, SV những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; nhận thức đúng về nguồn gốc,
bản chất chiến tranh; các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực
lượng vũ trang nhân dân để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Giúp HS, SV bước đầu tìm hiểu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta và nghệ thuật
quân sự Việt Nam từ khi có Đảng.
- Yêu cầu:
+ Nắm vững đường lối quân sự của Đảng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân
và an ninh nhân dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã
hội với củng cố quốc phòng, an ninh; trên cơ sở đó góp phần nâng cao nhận thức và ý
thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN;
21


+ Xác lập phương pháp luận trong nghiên cứu các học phần, mơn học Giáo dục
quốc phịng - an ninh, xây dựng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Điều kiện tiên quyết:
Bố trí sau khi học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Mô tả tóm tắt nội dung:
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu mơn học Giáo dục quốc phịng - an ninh;
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ Tổ quốc; Xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân; Chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam; Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh; Nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Học phần 2: Công tác quốc phịng, an ninh (2 tín chỉ)
- Mục tiêu:
Giúp sinh viên nhận thức được âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với

cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đấu tranh, phịng chống
chiến lược "diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh phịng
chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tơn giáo chống phá cách mạng Việt Nam để giữ gìn
an ninh chính trị và bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ Việt Nam XHCN.
Trang bị cho sinh viên kiến thức về chiến tranh công nghệ cao; kiến thức về xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, phong trào tồn dân đấu tranh
phịng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn
xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ biên giới, biển đảo Việt Nam.
- Yêu cầu:
+ Xây dựng niềm tin chiến thắng trong phịng chống chiến lược "diễn biến hịa
bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
+ Nắm vững các nội dung cơng tác quốc phịng, an ninh; vận dụng linh hoạt, sáng
tạo kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn.
- Điều kiện tiên quyết: khơng.
- Mơ tả tóm tắt nội dung:
Phịng chống chiến lược "diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch đối với cách mạng Việt Nam; Phịng chống địch tiến cơng hoả lực bằng vũ khí cơng
nghệ cao; Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên
cơng nghiệp quốc phịng; Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia;
Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn
đề dân tộc và tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; Những vấn đề cơ bản về bảo vệ
an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội; Những vấn đề cơ bản về đấu tranh
22


phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc.
Học phần 3: Quân sự chung và chiến thuật, kỹ thuật bắn súng tiểu liên
AK(CKC) (3 tín chỉ)

- Mục tiêu:
Trang bị cho sinh viên kiến thức chung về quân sự phổ thông, những kỹ năng quân
sự cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn
sàng tham gia lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và thực hiện nghĩa vụ quân sự
bảo vệ Tổ quốc.
Hiểu biết và sử dụng được một số loại phương tiện, vũ khí thơng thường; có kiến
thức về chiến thuật bộ binh; biết cách phòng, tránh vũ khí hủy diệt lớn và thành thạo kỹ
thuật băng bó, chuyển thương.
- Yêu cầu:
+ Hiểu biết một số kỹ năng cơ bản của người chiến sĩ bộ binh trong huấn luyện và
chiến đấu; biết vận dụng các kỹ năng quân sự trong hoạt động dân quân tự vệ, phòng thủ
dân sự và hoạt động thể thao quốc phòng.
+ Nắm vững và thành thạo kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK (CKC).
- Điều kiện tiên quyết: khơng.
- Mơ tả tóm tắt nội dung:
Đội ngũ đơn vị và ba môn quân sự phối hợp; Sử dụng bản đồ địa hình quân sự;
Giới thiệu một số loại vũ khí bộ binh; Thuốc nổ; Phịng chống vũ khí hủy diệt lớn; Cấp
cứu ban đầu vết thương chiến tranh; Từng người trong chiến đấu tiến cơng và phịng ngự;
Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK (CKC).
Kết luận: Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về cơng tác GDQP - AN nói
chung cũng như đối với bộ mơn GDQP - AN nói riêng chúng ta thấy được sự cần thiết
phải không ngừng nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội đối với GDQP – AN, trong đó
nâng cao chất lượng mơn học GDQP - AN là cấp bách và cần thiết; đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay khi mà đất nước ta đang trên đường hội nhập thế giới toàn diện hơn, khi mà
thế giới có nhiều thay đổi; tình hình khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và
khó lường; sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đối mặt với nhiều thử thách; nhất là công tác bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chủ quyền biển
đảo quê hương.
Chương II
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG – AN NINH

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
23


Nhiệm vụ GDQP cho SV-HS được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và
GDQP đã trở thành môn học chính khóa trong các trường ĐH, CĐ, TC, THPT và
đã được tổ chức thực hiện ngày càng nghiêm túc, hiệu quả. Hệ thống văn bản pháp
quy đã được ban hành khá đầy đủ và đồng bộ. Nội dung chương trình, phương
pháp tổ chức giảng dạy và học tập môn GDQP khơng ngừng được đổi mới và hồn
thiện.
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và an ninh Đại học Trà Vinh được thành lập
theo Quyết định số 1830/QĐ-UNBD ngày 03 tháng 10 năm 2017 của Ủy ban nhân
dân Tỉnh Trà Vinh. Thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh sinh viên theo Quyết định số 82/2007/QĐBGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và hiện nay
được thay thế bởi thông tư liên tịch số 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH,
ngày 05 tháng 11 năm 2015, quy định tổ chức, hoạt động của trung tâm giáo dục
quốc phòng và an ninh; liên kết giáo dục quốc phòng và an ninh của các trường
cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học.
Chỉ thị số 12/CT/TW của Bộ chính trị - Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN,
ngày 3/5/2007 khẳng định “Giáo dục quốc phòng, an ninh là một bộ phận của nền giáo
dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường GDQP-AN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung
ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục
thường xuyên với giáo dục tập trung có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giáo dục lòng
yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, ý thức
sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân”. Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Đảng,
trong những năm qua trường Đại học Trà Vinh đã xác định được mục tiêu, yêu cầu công
tác GDQP-AN một cách chủ động thiết thực, đã được triển khai thực hiện thống nhất
đồng bộ ở các bậc học, hình thức phương pháp chỉ đạo, tổ chức dạy và học có sự cải tiến,

đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình biên soạn tài liệu, giáo
trình, nghiên cứu khoa học và đổi mới phương pháp giảng dạy. Những nỗ lực đối với việc
GDQP-AN đã thực sự góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người nhất là thế hệ
trẻ đối với nhiệm vụ củng cố thế trận quốc phịng – an ninh tồn dân. Qua đó cũng góp
phần thực hiện chiến lược giáo dục con người mới phát triển toàn diện về thể chất, năng
lực, tinh thần. Trường Đại học Trà Vinh đã và đang từng bước được khẳng định vị thế, vai
trò, tầm quan trọng trong chiến lược giáo dục, đào tạo con người, cũng như trong nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ cơng nghiệp hố – hiện đại hố đất nước và hội
nhập Quốc tế.
2.1. Những kết quả đạt được
2.1.1. Kết quả
2.1.1.1. Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ GDQP – AN hàng năm
Mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh là nhằm “Giáo dục cho công dân về kiến
24


thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và
giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là Tổng thể các hoạt động giáo dục nhằm xây dựng,
nâng cao phẩm chất và năng lực về quốc phòng và an ninh cho công dân Việt Nam trong
các hoạt động nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục quốc phịng và an ninh có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xây dựng nhân tố
chính trị tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, giáo dục quốc phòng và an ninh
cịn thiết thực góp phần gắn các hoạt động xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…
với quốc phòng, an ninh, nhằm phát huy mọi tiềm lực của đất nước và tồn dân vào cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, giáo dục
quốc phịng và an ninh là một trong những chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác GDQP - AN nên Đảng ủy, Ban giám
hiệu nhà trường luôn quan tâm, lãnh đạo các cơ quan, phịng ban phải ln qn triệt và
thực hiện nhiệm vụ GDQP - AN hàng năm. Trong đó có cả nhiệm vụ quốc phòng an ninh
được triển khai từ Ban chỉ huy quân sự Quận ninh kiều, cũng như nhiệm vụ GDQP - AN
hàng năm của Bộ giáo dục và đào tạo triển khai.
Quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, cũng như các văn bản khác liên quan đến công tác
GDQP - AN .
Luôn thực hiện đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ quân sự được giao. Tổ chức
thành lập lực lượng tự vệ của trường đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, chất lượng; tiến
hành huấn luyện, tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Huấn luyện HS, SV tham gia hoạt động
Hội thao quốc phòng do Sở GD- ĐT tổ chức 2 năm một lần .
2.1.1.2. Đội ngũ giảng viên GDQP - AN được tham gia bồi dưỡng, học tập
nâng cao trình độ hàng năm.
Giáo dục quốc phòng - an ninh cho HS, SV là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước,
vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN. Mục tiêu
của công tác này là giáo dục cho HS, SV lòng yêu nước, yêu CNXH, niềm tự hào và sự
trân trọng đối với truyền thống của dân tộc; trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về
quốc phòng - an ninh, rèn luyện đạo đức cách mạng và những kỹ năng quân sự cần thiết,
để HS, SV sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Ý thức được vai trò quan trọng của việc thực hiện các nhiệm vụ GDQP - AN; mà
đặc biệt là công tác giảng dạy môn học GDQP - AN tại trường nên từ năm học 2009-2010
nhà trường bắt đầu chú trọng đến công tác tuyển dụng giảng viên GDQP - AN để cán bộ,
giảng viên tham gia học tập nâng cao trình độ chun mơn đáp ứng u cầu của nhà
trường.
25



×