A. ĐẶT VẤN ĐỀ
* LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới phương pháp dạy học luôn là mục tiêu hàng đầu và liên tục của những
người làm công tác giáo dục. Ở từng thời kì, phương pháp dạy học cũng sẽ thay đổi
sao cho phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn xã hội và luôn hấp dẫn đối
tượng giáo dục. Vì vậy giáo dục Quốc phòng, An ninh “GDQP-AN» cho học sinh
trung học phổ thông là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục quốc
phòng toàn dân, nhằm rèn luyện tính kỉ luật và hình thành nhân cách cho học sinh.
Thông qua môn học, giúp học sinh được nâng cao hiểu biết về truyền thống vẻ
vang của dân tộc, của Quân đội, Công an nhân dân Việt Nam và một số nội dung
cơ bản khác về Quốc phòng, đồng thời rèn luyện tác phong, nếp sống tập thể có tổ
chức, có kỷ luật. Nội dung chương trình giảng dạy môn giáo dục Quốc phòng, an
ninh cả phần lý thuyết và thực hành cũng như việc tổ chức thi, kiểm tra, hội thao
đánh giá kết quả học tập của học sinh đảm bảo đúng, đủ nội dung, thời gian theo
quy định đã phần nào củng cố vững chắc nền Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân
dân vững mạnh hiện nay. Song phải thừa nhận một thực tế rằng, ở một bộ phận
không nhỏ học sinh và một số ít giáo viên có biểu hiện coi thường, xem nhẹ, không
có hứng thú học môn học này. Việc nhận thức về môn học như vậy chắc chắn sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học của bộ môn.
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra,
đánh giá. Yêu cầu giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng
tích cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc
học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu
sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời, cần cải tiến phương pháp học tập của học sinh,
bởi hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của học sinh; cũng như
vậy, hoạt động học của học sinh luôn chứa đựng vai trò giảng dạy của giáo viên.
Để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh, năng lực giảng dạy của giáo
viên, từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp
giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
dạy và học trong nhà trường đã tạo ra hứng thú cho các em học sinh học tập môn
GDQP-AN. Đặc biệt là sau khi đã có kết quả thực nghiệm trong năm học 2012 2013 của hai lớp 11B1 và 11B2 để đem ra đối chứng. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
“Đổi mới phương pháp dạy học và một số giải pháp nâng cao chất lượng môn
học Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh THPT”.
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng
cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ
thị số 417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường
chỉ đạo, thực hiện công tác GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị
định 116/2007-NĐ-CP về GDQP-AN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong các trường THPT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả
năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã
nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Năm học 2012 - 2013 nhà trường tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện cuộc
vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không với tiêu cực trong
thi cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học
sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06CT/TW ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất
lượng giáo dục ổn định và phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học nhà trường
đã chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và
các bậc phụ huynh hiểu rỏ mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương
pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến khích tự học
phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh
năng lực tư duy sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải đào tạo khả
năng tự học cho học sinh.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi của nhà trường thì cơ bản hiện
tại cũng đáp ứng được số lượng tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh cho
2
gần 1300 học sinh. Thông qua môn học cơ bản đã truyền thụ cho học sinh những tri
thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức
Quân đội nhân dân « QĐND » Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử
QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và
Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh
phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh được làm quen với tác phong quân
đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản trong chiến
đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu
đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an
ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần
cảnh giác, trước mọi âm mưu diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối
được xây dựng theo chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ
môn, đủ tiết, đúng phân phối chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc
phòng – an ninh học sinh tham gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng.
Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa, là
bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên
không thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và
phải được quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở
mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng
hiện tại và tương lai.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thuận lợi :
- Bản thân tôi được nhà trường tạo điều kiện cho đi học lớp đào tạo ngắn hạn (6
tháng) về bộ môn Giáo Dục Quốc Phòng –An ninh và nhiều năm được tập huấn về
chuyên môn do Sở giáo dục Thanh Hoá tổ chức.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của chi bộ Đảng, ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều
kiện thuận lợi về mọi mặt cho tổ bộ môn nên việc triển khai công tác giảng dạy
môn Giáo dục Quốc phòng ở nhà trường diễn ra đúng kế hoạch.
- Học sinh hầu hết đã quen dần và đa số học sinh đều cảm thấy gần gũi, với môn
học.
- Giờ dạy môn Giáo dục Quốc phòng thực sự mang lại cho giáo viên. sự cảm hứng
và muốn tìm tòi, học hỏi nhiều hơn nữa.
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo
dục quốc phòng – an ninh phần nào đã đáp ứng được nhu cầu môn học.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường luôn được duy trì thường xuyên và đảm bảo tốt
qua từng cấp, từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.
3
2. Khó khăn :
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn được đào tạo
từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy
được đào ngắn hạn qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về
chuyên môn nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội
về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy. Quá
trình nhận thức về kiến thức Quốc phòng, quân sự chưa sâu, chưa nắm chắc nội
dung, mục đích, chuẩn kiến thức kỹ năng, nhất là các yêu cầu cụ thể để triển khai
dạy và học môn GDQP – AN theo chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo như
các môn khác. Chưa giải quyết được các yêu cầu về cơ sở vật chất, thiết bị, phòng
học, vấn đề về môi trường và các khoản đầu tư khác cho môn học GDQP – AN vẫn
còn hạn chế.
- Đối với học sinh : Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình
và do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực của
việc nhận thức chưa đúng về môn học từ phía phụ huynh nên đã tác động ít nhiều
đến việc xác định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Đặc biệt một phận không
ít học sinh còn ngộ nhận và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn
Giáo dục quốc phòng – an ninh chưa cao.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở giáo dục
– đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu môn
học : Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung...
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Tạo hứng thú cho học sinh bằng biện pháp đổi mới phương pháp dạy và
học:
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm
tra, đánh giá; Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích
cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học
sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu
hơn nữa kiến thức. Đồng thời, cần cải tiến phương pháp học tập của học sinh, bởi
hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của học sinh; cũng như vậy,
hoạt động học của học sinh luôn chứa đựng vai trò giảng dạy của giáo viên. Để dự
báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh, năng lực giảng dạy của giáo viên,
từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng
dạy của thầy thì việc kiểm tra, đánh giá là một công cụ hữu hiệu. Việc kiểm tra,
đánh giá đối với học sinh phải kích thích được sự tự kiểm tra và đánh giá của học
sinh về quá trình học tập của mình. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá
4
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Ngoài mục đích đánh giá về kiến thức của
học sinh, phải đánh giá được kỹ năng của học sinh, từ đó điều chỉnh việc học của
học sinh, việc dạy của giáo viên.
Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình môn giáo dục quốc
phòng và tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật, các trang thiết bị, phương
tiện hỗ trợ công tác dạy và học môn giáo dục Quốc phòng, An ninh; Bên cạnh
những mặt tích cực của giáo trình, thì nội dung chương trình, giáo trình môn giáo
dục quốc phòng nói riêng, cũng như của tất cả các bộ môn khác nói chung có phần
thiên về các kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, nhiều khi nặng về quan điểm
chính trị, đôi chỗ còn hạn chế về hàm lượng khoa học. Chính vì vậy, môn giáo dục
Quốc phòng còn chưa có sức thuyết phục cao đối với những vấn đề do thực tiễn
cuộc sống đặt ra. Các nội dung truyền tải đôi khi còn mang tính trích dẫn.
Cần phải lồng ghép một số nội dung môn GDQP vào các môn học khác như
Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân v.v.. để tránh chồng chéo về nội dung. Kiến
thức Quốc phòng, An ninh mang tính nội dung chính trị, trừu tượng là chính, học
sinh tếp thu bài rất khó dẫn đến chán nản không ưa thích môn học. Muốn thực hiện
được điều đó đòi hỏi Giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu có liên quan để
nắm được nội dung chương trình một cách chặt chẽ và logic phát triển của nội dung
bài học. Hiểu được mục tiêu bài dạy và trình độ phát triển tâm, sinh lý học sinh để
có cách tổ chức hợp lý từng hoạt động học tập cụ thể như sau.
1. Đổi mới phương pháp dạy học bằng việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh.
* Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy
Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết
bảng, thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh
hơn.Tuy nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay
không phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và
thái độ của người học. Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy môn GDQP-AN sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang
đến cho giáo viên và người học những kết quả thiết thực.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào giảng dạy có hiệu quả rất
nhiều trong việc tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận môn học. Từ chỗ giáo viên
chỉ hướng dẫn học sinh qua sách giáo khoa đến nay nhờ sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin bài học trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Học sinh có thể khai thác
thông tin trên mạng Internet để tìm hiểu trước kiến thức. Thực tế như khối 11 có
bài giới thiệu súng tiểu liên AK, Muốn tạo sự hứng thú cũng như sự tìm tòi sáng
tạo của học sinh giáo viên phải chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi gợi ý trước về một
số nội dung lớn mà bài học yêu cầu, sau đó phân công, chia nhóm cho học sinh tìm
5
hiểu trước qua đó học sinh sẽ tự khám phá, tìm hiểu bài học trước. Qua thực tế trải
nghiệm, chúng tôi nhận thấy rằng các em không những tìm hiểu được các câu hỏi
giáo viên yêu cầu mà còn có rất nhiều thông tin mới, chi tiết, bởi vì khi giảng bài
này các em rất tò mò muốn được nhìn thấy và cầm thủ khẩu súng nó như thế nào?.
Trong quá trình lên lớp, học sinh mang những điều mới lạ, những điều còn chưa
hiểu ra thắc mắc với giáo viên từ đó có thể thấy rằng không những nội dung bài
học được đảm bảo mà còn có những thông tin mới, lạ, bổ ích giúp cho học sinh
thực sự có hứng thú trong việc học tập.
Bên cạnh đó một số bài dạy trừu tượng cần có sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin như bài Kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK hay bài kĩ thuật ném lựu đạn, sự hỗ trợ
về hình ảnh chuyển động của súng, lựu đạn giúp cho học sinh nhìn thấy rõ sự
chuyển động bên trong khẩu súng và lựu đạn, hơn nữa hiệu ứng âm thanh làm cho
học sinh hứng thú khi học tâp. Học sinh vừa nhìn thấy chuyển động của súng vừa
được nghe âm thanh của tiếng súng nổ điều này thu hút khá nhiều học sinh tập
trung chú ý so với trước đó chỉ giới thiệu qua sách giáo khoa. Hay cách lấy đường
ngắm đúng, khi sử dụng CNTT với các hiệu ứng và các âm thanh như đạn nổ và
khi ra thao trường học sinh dễ dàng lấy được đường ngắm đúng, học sinh sẽ nhận
biết nhanh đâu là đường ngắm đúng, biết được quỹ đạo đường đạn bay và điểm các
chạm của đạn trên bia.
Trong xu thế phát triển của xã hội ngày nay thì công nghệ thông tin đang
có những vấn đề vượt bậc, các tiện ích của nó đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết
các lĩnh trong cuộc sống. Riêng đối với các em học sinh thì CNTT luôc có sức hút
to lớn. vấn đề còn lại là chúng ta ứng dụng CNTT sao cho phù hợp để tăng tính hấp
dẫn ở bộ môn mình dạy.
- Kết quả sau khi học song lí thuyết bài kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK và súng
trường CKC lớp 11B1 được dạy ứng dụng công nghệ thông tin còn lớp 11B2
không sử dụng ứng dụng công thông khi lấy đường ngắm đúng.
11B1
Sĩ số
học
sinh
31
11B2
34
Lớp
Sử dụng CNTT trong giảng
dạy lấy đường ngắm đúng
Số em biết lấy đường
ngắm đúng khi ra
thực địa
Tỷ lệ
Có sử dụng
23
74%
Không sử dụng
15
44 %
Từ kết quả trên cho ta thấy chất lượng môn học được nâng cao rõ rệt. Bên cạnh
đó học sinh rất có hứng thú và thích học môn GDQP-AN, hơn nữa giờ dạy GDQPAN cũng thêm phần phong phú, sinh động và hấp dẫn.
6
2. Đổi mới phương pháp dạy học bằng biện pháp cho các em xem các tư liệu
qua tranh ảnh, mô hình, các đoạn phim.
Song song với sử dụng CNTT thì giáo viên nên trình chiếu các loại tranh,
ảnh, các thước phim tư liệu có liên quan đến bài học, điều này nhằm kích thích tính
tò mò, thích thú, tìm hiểu của các em. Ví dụ như ở khối 10 trong Bài 1 « Truyền
thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam » hay Bài 2 « Lịch sử truyền thống
của Quân đội và Công an nhân dân Việt Nam » Giáo viên cho học sinh xem một
số đoạn phim tư liệu nói về chiến tranh ở Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ. Hay ở Bài 5 « Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn
và thiên tai » thì Giáo viên cho các em xem những hình ảnh, những thước phim về
động đất, lũ lụt, bão, hay sóng thần như ở nhật bản năm 3/2011… những sự kiện
này gắn liền thực tế và xẩy ra trong cuộc sống; Ở khối 12 trong bài Công tác phòng
không nhân dân, Giáo viên cho các em xem các hình ảnh về các loại vũ khí tiên
tiến như máy bay tàng hình, tên lửa hành trình, bom nguyên tử… đặc biệt là cho
các em xem các thước phim nói về sự ra đời của các loại vũ khí tiên tiến được sử
dụng trong các cuộc chiến tranh đã nổ ra.
Hay ở khối 11 trong bài giới thiệu súng tiểu liên AK và giới thiệu một số loại
lựu đạn Việt Nam, giáo viên cần có những mô hình về súng tiểu liên AK, lựu đạn
giả, bởi vì đây là những thiết bị mà hầu hết các em rất muốn tò mò, muốn nhìn tận
mắt và dùng tay cầm nó. Hoặc bài Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và Biên giới Quốc
gia; giáo viên trình chiếu đoạn phim tư liệu về “hải chiến trường sa năm 1988” và
cập nhật tình hình Biển, đảo của nước ta để các em kịp thời nắm bắt. Hay như trong
bài truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam hay bài truyền thống
của quân đội và công an nhân dân Việt Nam, chúng ta nên kể lại những trận đánh,
nhưng tấm gương anh hùng như tô anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn
bánh pháo, anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, anh hùng Bế
Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng,…hay trong bài tác hại của ma túy ở khối 10
giáo viên cần lấy những vụ đã xẩy ra trong thực tế mà được được báo, đài đưa tin,
những vụ như con giết cha, cháu giết ông, những vụ giết người cướp của…Khi
giáo viên cung cấp những thông tin như thế đều thu hút được sự lắng nghe của các
em, điều này không chỉ cung cấp thông tin cho học sinh mà còn trau dồi kiến thức
cơ bản cho cuộc sống hiện tại và tự lập sau này.
Tất cả những tư liệu về hình ảnh, mô hình, những thước phim đó học sinh rất
thích thú xem. Xuất phát từ điều đó chúng ta thấy rằng cho các em xem các tư liệu
qua tranh ảnh, các mô hình, các đoạn phim. Sẽ làm tăng sự hưng phấn học của các
em và chất lượng học sẽ được tăng lên. Để thực hiện được điều này đòi hỏi Giáo
viên phải sưu tầm tranh ảnh, các thước phim tư liệu có liên quan đến bài học, chuẩn
bị máy chiếu, âm thanh, mô hình học cụ thật chu đáo.
7
3. Đổi mới phương pháp dạy học bằng việc tổ chức các buổi hội thao, trò chơi,
kiểm tra trắc nghiệm để các em có điều kiện giải trí, rèn luyện sức khỏe, thể
hiện năng lực của mình:
Môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh là môn học đặc thù vừa có lí thuyết, vừa
có thực hành, vừa giáo dục tư tưởng, vừa giáo dục thể chất. Vì vậy học sinh sau khi
tiếp cận với kiến thức đòi hỏi phải biết vân dụng kiến thức đó vào thực tế. Giáo
viên phải năng động cho học sinh hội thao ngay sau mỗi tiết học, cho lớp học chia
thành nhiều nhóm thi đua với nhau thực hiện nội dung đã học. Qua thực tiễn cho
thấy đa số học sinh hứng thú khi được thi đua với nhau, đây là một sân chơi vô
cùng có ích. Học sinh vừa học vừa chơi, học đến đâu vận dụng ngay đến đó. Như
vậy học sinh sẽ không còn thấy tiết học khô khan căng thẳng, ngược lại sự vận
động vui vẻ luôn luôn kèm theo tiếng cười sẽ giúp các em thư giãn đầu óc, đồng
thời thể lực cũng được rèn luyện và yêu thích môn học hơn. Như tổ chức cho các
em thi tháo và lắp súng tiểu liên AK được tính bằng giây trong Bài 4 Giới thiệu
súng tiểu liên AK và súng trường CKC, thi thực hành ném lựu đạn xa và trúng đích
Bài 6 Kĩ thuật sử dụng lựu đạn;..., hoặc kiểm tra trắc nghiệm lấy tinh thần xung
phong để trả lời. Phần thưởng có thể chỉ là lời khen hay giáo viên có thể cho điểm
kiểm tra thường xuyên (điểm miệng ; 15 phút) hoặc một hình thức phạt nào đó đối
với những tập thể tổ, nhóm hay cá nhân còn thua kém như hát một bài hát, đọc một
đoạn thơ theo chủ đề hay bất cứ hình thức vận động nào do giáo viên lựa chọn.
Để giảng dạy tốt, giáo viên giáo dục Quốc phòng, An ninh trước hết phải có
kiến thức sâu rộng. Cho nên, việc có ý thức tự trau dồi, tích luỹ kiến thức qua việc
tự học, tự nghiên cứu, nhằm làm giàu tri thức phục vụ chuyên môn phải được coi
trọng, đặc biệt giáo viên cần có năng khiếu về điều khiển trò chơi. Ngoài ra, việc
cập nhật thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức
quan trọng, giúp cho giáo viên có nhiều kiến thức mới, phong
phú.
4 . Đổi mới phương pháp dạy học bằng việc tổ chức thảo luận nhóm:
Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh – học
sinh giao lưu với nhau và có được những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
*Biện pháp thực hiện:
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày
quan điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của
việc học nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên
phải khơi gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng
với trình độ của học sinh, hoặc đặt câu hỏi/ đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến
mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp
xếp để đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm tham gia một cách tích cực.
8
Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm khoảng 10 thành viên theo những tiêu chí
như sau: Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những trưởng nhóm đầu
tiên. Chia các nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn trung bình...
Chia nhóm đồng đều theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương
đương nhau. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các
nhóm đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp
ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan của
các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc nhóm của học sinh hầu như là không có. Tuy
đã được thầy cô giáo phổ biến nhưng không rõ ràng và đầy đủ vì còn hạn chế nhiều
về thời gian và trình độ. Đây là một "khâu” quan trọng nếu muốn làm tốt sự thay
đổi trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc,
giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây dựng nên thành
công của thảo luận nhóm.
Trưởng nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề
tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu
hết là nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết bài?- Ai phản
biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khácAi thư ký? Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh
tham gia sôi nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thông thường, câu hỏi được
đưa lên cho nhóm trình bày và được chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn
câu hỏi hay, chuyển cho nhóm thảo luận trả lời. Người hỏi tranh luận trực tiếp với
người trả lời. Sau khi nghe câu trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng
ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả lời hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi
phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một
mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh.
5. Vai trò của đội ngũ cán sự môn học.
* Biện pháp thực hiện:
Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự
lớp. Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành
tổ chức đòi hỏi người giáo viên “GV” phải có một số kỹ năng cần thiết
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan sát
từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả năng điều
hành lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh kiểm
biết diễn đạt mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng lớp.
- Thiết kế công việc: người GV phải biết những công việc cần thiết trong kế hoạch
năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp tham gia mà trong đó
đội ngũ Cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát chặt chẽ của GV.
9
- Bồi dưỡng thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng nhiệm vụ
mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự trợ giúp;
cũng không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và GV sẽ tư vấn cho các
em, giúp các em giải quyết các tình huống khó khăn.
- Kiểm tra, đánh giá: GV phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong công tác,
thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ Cán sự lớp. Tuyên dương các em làm
tốt, uốn nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất uy tín
trong tập thể lớp
Xây dựng đôi ngũ Cán sự lớp là việc làm không dễ nhưng chúng ta phải làm
vì GV ở các trường Trung học phổ thông không có thời gian để xử lí tất cả mọi
việc ở lớp hơn nữa sẽ không có thông tin và cũng không giải quyết kịp thời được
nếu đội ngũ Cán sự lớp không được rèn luyện một cách chu đáo và có kế hoạch cụ
thể.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học,
ý thức kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát
triển trí tuệ và thể chất một cách toàn diện.
Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng –
An Ninh chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán sự
môn học một cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng cách phải
đưa ra tiêu chí phấn đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào trong nội dung
chương trình học tập. Như vậy thì thời lượng của nội dung bài dạy chỉ chiếm
khoảng 1/3 thời lượng toàn bộ nội dung buổi học. Mặt khác giáo viên có đủ thời
gian để hướng dẫn sửa chữa động tác sai cho các học sinh yếu, kém. Tuy nhiên
việc chọn lựa cán sự phải tìm hiểu thật kĩ, phải tham khảo ý kiến tập thể xem em đó
có tín nhiệm không, khả năng nắm bắt động tác, vai trò quản lý ra sao?...
* Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn học Giáo Dục Quốc Phòng - An
Ninh:
- Giải pháp 1:
Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực
tiếp giáo dục, quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến
trong nhận thức về công tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới
nhận thức của học sinh. Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối, quan
điểm của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác GDQPAN trong giai đoạn mới hiện nay, như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ
chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc
phòng, an ninh trong tình hình mới, Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007
của Chính phủ về GDQP-AN, các văn bản quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
10
Đào tạo về GDQP-AN… và những yêu cầu mà học sinh cần đạt được khi học tập
tại nhà trường.
- Giải pháp 2:
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất
lượng cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng môn học GDQP-AN.
- Giải pháp 3:
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp với
từng đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh thông qua
bảo tàng cách mạng của địa phương; thường xuyên cập nhật thông tin để truyền đạt
cho học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
- Giải pháp 4:
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội
đồng GDQP-AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo
sự thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất,
sách giáo khoa, tranh ảnh, mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên
làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức
hội thi, hội thao, thực hiện tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu
dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong giảng dạy, học tập
môn học GDQP-AN.
- Giải pháp 5:
Thường xuyên quan tâm đầu tư ngân sách, đổi mới chế độ chính sách cho
giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học GDQP-AN theo chế độ hiện hành, nhằm
động viên kịp thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho giáo viên trong thực hiện
nhiệm vụ.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với sự
cố gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã
đúc kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã tiến hành thực nghiệm đồng
thời triển khai cho tổ áp dụng vào giảng dạy cho học sinh cả ba khối lớp 10, 11, 12
của nhà trường trong suốt thời gian qua.
- So sánh kết quả học tập của 2 lớp tôi đã chọn để thực nghiệm và đối chứng trong
năm học 2012 – 2013 trong đó lớp 11B1 được tiến hành giảng dạy bằng phương
pháp đổi mới như đã nêu ở trên, còn lớp 11B2 tiến hành giảng dạy theo phương
pháp truyền thống cụ thể như sau.
11
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Sĩ Số
Lớp học Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
sinh Số
11B1 31
12
39
16
52
3
9
0
0
0
0
11B2 34
6
18
19
56
9
26
0
0
0
0
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm môn giáo dục quốc phòng – an ninh của toàn
trường qua từng năm học được nâng dần lên:
Xếp
loại
GIỎI
KHÁ
ĐẠT
KHÔNG ĐẠT
2010-2011
31%
54%
14%
2%
2011-2012
33%
52%
14%
1%
2012-2013
31%
58%
11%
0%
Năm học
Như vậy thực hiện việc đổi mới các phương pháp dạy học và sử dụng các giải
pháp trên so với trước đây, tôi nhận thấy kết quả thật khả quan, sự hứng thú trong
học tập môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh của học sinh được nâng lên rõ rệt. Tiết
học không còn căng thẳng, khô khan hay nhàm chán. Ngược lại học sinh có sự
chuyển biến tích cực rất nhiều; chịu khó tìm tư liệu nhiều hơn, những điều chưa
hiểu cũng được mạnh dạn trao đổi với bạn bè và Giáo viên. Hào hứng trong mỗi
lần diễn ra hội thao nhỏ sau tiết học. Vì vậy kết quả được tăng lên rõ rệt.
12
C. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học
sinh tự tìm tòi sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu
quả.
Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh
thấy rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.
Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm
vốn có, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh
thấy yêu thích học môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp
dẫn.
Như vậy chất lượng dạy và học môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh đã được
nâng lên nếu như giáo viên tích hợp việc đổi mới phương pháp dạy học , đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, sưu tầm và cho các em xem
tranh ảnh, các đoạn phim tư liệu liên quan đến bài học, tạo sân chơi lành mạnh cho
học sinh đan xen sau những tiết học, hoặc tổ chức hội thao cấp trường cho học sinh
có cơ hội thi đua với nhau tạo hứng thú trong học tập môn Giáo dục Quốc phòng,
An ninh cho học sinh. Góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Muốn tạo ra được hứng thú cho học sinh học tập môn GDQP, AN để nâng
cao chất lượng của học sinh, cần trang bị thêm những phương tiện cần thiết nhất,
bổ sung các loại giáo trình, sách báo, tài liệu tham khảo trong hệ thống thư viện là
vô cùng cần thiết. Đặc biệt là các loại tài liệu tham khảo phải được cập nhật thường
xuyên; đảm bảo việc khai thác thông tin từ Internet.
Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như đã trình bày ở
trên, với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng
góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của quý thầy cô giáo cùng các đồng nghiệp cũng
như sự chỉ đạo về chuyên môn của trường tạo điều kiện cho tôi được học hỏi thêm
và hoàn thành đề tài sáng kiến & kinh nghiệm năm học 2012-2013 đồng thời cũng
là cơ sở để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy sau này.
1. Bài học kinh nghiệm:
Trước hết, người thầy phải luôn có lòng yêu nghề, tâm huyết với công việc,
có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp
dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy. Phải thường xuyên nghiên cứu,
chủ động dự giờ của đồng nghiệp để tích luỹ thêm kinh nghiệm, phương pháp;
tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn…để nắm bắt những thông tin về nội
dung, chương trình. Từ đó, giáo viên mới có thể lập một kế hoạch bài học cho mình
một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các môn học với nhau.
Giáo viên cần nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho bản thân. Cần đổi mới phương pháp dạy học bằng việc lồng ghép
13
với các môn khác như Lịch sử, Địa lý, GDCD… đẻ truyền thụ kiến thức cho học
sinh tránh sự nhàm chán, khô cứng của bộ môn.
Cần tích cực áp dụng CNTT và sử dụng các loại tranh ảnh, các đoạn phim
tư liệu vào trong quá trình giảng dạy, nhằm thu hút sự chú ý, tạo ra hứng thú học
tập của học sinh giúp các em hiểu bài nhanh hơn. Đặc biệt Giáo viên cần tạo ra một
không gian vui nhộn trong các tiết học sẽ thu hút được tất cả các em tham gia, các
em sẽ có hứng thú học hơn và góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục trong
dạy học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới phương
pháp giáo dục nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao. Điều đó cho
thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn .
Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tôi đang trình bày giúp giáo viên gây
được hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài
học. Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho
kết quả cao hơn. Biện pháp tuy có thể nói không mới gì lắm, nhưng với sự chủ
động hướng dẫn của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả
khả quan hơn trong quá trình học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên
phải biết linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học
sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có
nghệ thuật sư phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Trong quá trình giảng
dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và
tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, nhằm lôi cuốn học
sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp
thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
2. Đề xuất:
- Đối với tổ:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để học
sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp dạy tốt
hơn bộ môn GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những
sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù hợp
với đối tượng học sinh của mình
- Đối với nhà trường:
Cần tạo điều kiện về sân bãi, phòng học, máy chiếu để phục vụ giảng dạy.
Tăng cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
Cần mua các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học để giáo
viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của
bộ môn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
14
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan : như mô hình học cụ, tranh
ảnh, các băng đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên,
học sinh ở trường trung học phổ thông.
Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải
pháp để nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa giáo dục Quốc phòng, An ninh lớp 10,11,12
2. Sách hướng dẫn thực hiện chương trìnhlớp 10, 11, 12
3. Sách giáo viên giáo dục Quốc phong, An ninh lớp 10,11,12
4. Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ
về Giáo dục Quốc phòng - An ninh,….
5. Cổng thông tin Giáo Dục Quốc Phòng (www.giaoducquocphong.org)
6. Thông tin trên mạng Internet.
7. Tài liệu Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh của cơ quan thường trực hội đồng
GDQP-AN trung ương.
8. Thông tin tư liệu.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh hoá, ngày 20 tháng 05 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Trần Văn Tuấn
16
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
I/ Cấp Cơ Sở (Trường)
- Nhận xét...............................................................................................................
...................................................................................................................................
.……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………...
-Xếp loại..................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Chủ tịch hội đồng khoa học
II Cấp Ngành (Sở Giáo Dục- Đào Tạo)
- Nhận Xét..............................................................................................................
...................................................................................................................................
.…………………………………………………………………………………..…
……………………………………………………………………………………...
-Xếp loại..................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Chủ tịch hội đồng khoa học
17
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI
***************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH
CHO HỌC SINH THPT
Người thực hiện:
Chức vụ :
SKKN thuộc môn :
Trần Văn Tuấn
Giáo viên
Giáo Dục Quốc Phòng – An ninh
Thanh Hoá, 05/2013
18