Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tim hieu mot so dia danh tinh Tien Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.58 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tìm hiểu một số địa danh tỉnh Tiền Giang</b>




<b>VÕ VĂN SƠN*</b>
Địa danh ở tỉnh Tiền Giang nói riêng và địa danh ở Nam Bộ nói chung kha
phong phú và đa dạng về: đối tượng địa danh, đặc điểm cấu tạo, ngôn ngữ cấu tạo. Và
nguồn gốc cấu tạo địa danh Tiền Giang cũng kha phức tạp.


Nghiên cứu địa danh có một ý nghĩa to lớn trong khoa học cũng như trong thực
tiễn cuộc sống. Mặt khac, tìm hiểu nguồn gốc địa danh ở Tiền Giang sẽ giúp chúng ta
hiểu thêm về: ngôn ngữ, tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, qua trình hình
thành mảnh đất Tiền Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung.


Qua kết quả nghiên cứu nguồn gốc và ý nghĩa 100 địa danh tỉnh Tiền Giang,
chúng tôi nhận thấy địa danh tỉnh Tiền Giang có những đặc điểm chính đang chú ý sau
đây:


<b>1. Về đối tượng địa danh Tiền Giang</b>


Tiền Giang là một tỉnh của đồng bằng sông Cửa Long, địa hình tương đối bằng
phẳng, lại có nhiều sông ngòi, kênh rạch nên ngoài cac địa danh hành chính, số thủy
danh chiếm ưu thế rõ rệt.


Cụ thể tên đối tượng chỉ địa danh Tiền Giang bao gồm: địa danh hành chính
(thôn, làng, ấp, xã, khóm, ô, phường, thị trấn, thị xã, tổng, quận, huyện, tỉnh, hạt, phủ,
dinh, trấn, châu); địa danh chỉ cac công trình xây dựng (thành, chợ, cầu, cống, kênh,
mương, ao, đập, bến phà, bến đò, công viên, nông trường, vườn); địa danh chỉ vùng
(xóm, khu, vùng, xứ, miệt) và địa danh chỉ địa hình (sông, rạch, đầm, hồ, vàm, hóc,
khém, khe, tắt, cử, ngọn, bưng, trấp, bãi, lung, lang, giồng, xép, gò, cồn, cù lao).


<b>2. Về đặc điểm cấu tạo địa danh Tiền Giang</b>


<b>2.1 Địa danh có cấu tạo đơn</b>


Cac địa danh gờm một từ có nghĩa (đơn đơn tiết hoặc một từ đơn đa tiết) thuộc
cấu tạo đơn. Cach cấu tạo này, có trong địa danh thuần Việt (sông Tiền, rạch Rô, cống
Bay); lẫn địa danh vay mượn (cửa Soi Rạp, rạch Tha La, đường Yersin).


<b>2.2 Địa danh có cấu tạo phức</b>


<b> Cac địa danh này, gồm hai thành tố có nghĩa (từ, ngữ) trở lên, thuộc cấu tạo</b>
phức. Loại này, có 3 loại nhỏ hơn: loại gồm cac thành tố có quan hệ đẳng lập (Tân
Phước, Bình Trưng, Mỹ Phước); loại gồm cac thành tố có quan hệ chính phụ (xã Long
Định, khu Ngã Sau, ấp Cầu Xây); loại gồm cac thành tố có quan hệ chủ vị (xóm Đình
Chay, khu Cống Bay, khu cầu Sập).


<b>2.3 Phương thức cấu tạo địa danh Tiền Giang</b>


<i>Địa danh Tiền Giang có 3 phương thức cấu tạo cơ bản: phương thức tự tạo;</i>
<i>phương thức chuyển hóa và phương thức vay mượn. </i>


a/ Phương thức tự tạo


Phương thức tự tạo là phương thức cơ bản nhất để tạo ra cac địa danh. Phương
phap này gồm cac cach như (Dựa vào chính bản thân đối tượng để đặt tên: gọi tên theo
hình dang, kích thước, tính chất, màu sắc, vật liệu xây dựng, kiến trúc của đối tượng:
cửa Đại, sông Cũ, cầu Đỏ, cầu Dừa, cầu Đôi, v.vv...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ghép cac yếu tố Han Việt để đặt tên, cach thường dùng để đặt tên cac đơn vị
hành chính. Hàng loạt tên: thôn, làng, ấp, xã đều là từ Han Việt. Đa số, cac yếu tố này
đều mang ý nghĩa tốt đẹp như: Tân, An, Hậu, Bình, Long, Phú, Mỹ, Phước, Vĩnh,
<b>Thạnh,...Ví dụ: ấp Bình Hòa, xã An Hữu, phường Tân Long, huyện Tân Phú Đông,...</b>


Một số yếu tố Han Việt ở phía cuối địa danh có tac dụng phân biệt: Thượng – Trung
-Hạ, Đông - Tây- Nam - Bắc, Nhất- Nhì,...Ví dụ: xã Mỹ Đức Đông, xã Mỹ Đức Tây
(Cai Bè), ấp Thành Nhất, ấp Thành Nhì (Gò Công Tây) v.vv...


Dùng số thứ tự để gọi tên, cach này, thường ap dụng cho tên cac địa danh hành
chính và công trình xây dựng như: tổ 1, 2; ấp 1, 2; khu phố 1, 2; phường 1, 2; kênh 1,
kênh 2; cống số 1, 2; quốc lộ 50, 60; v.v.v...


b/ Phương thức chuyển hóa


Phương thức chuyển hóa là phương thức biến một địa danh này thành một hay
nhiều địa danh khac: chuyển hóa trong nội bộ địa danh (trong loại địa danh chỉ địa
hình thiên nhiên: bưng Môn - rạch Bưng Môn, trong loại địa danh chỉ công trình xây
dựng: chợ Thạnh Trị cầu Thạnh Trị, trong loại địa danh hành chính: hạt Gò Công
-tỉnh Gò Công- huyện, thị xã Gò Công, trong loại địa danh chỉ vùng: vùng Mỹ Tho (ở
chợ Cũ trước kia) - vùng Mỹ Tho (thành phố Mỹ Tho ngày nay);


Chuyển hóa trong 4 loại địa danh: địa danh chỉ địa hình thiên nhiên chuyển
sang (địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh chỉ vùng, địa danh hành chính: giồng
Dứa - chợ Giồng Dứa, cù lao Tân Long- phường Tân Long); địa danh chỉ công trình
xây dựng chuyển sang (địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh hành chính, địa
danh chỉ vùng: cầu Trâu- rạch Cầu Trâu, cầu Xây- ấp Cầu Xây); địa danh hành chính
chuyển sang (địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình xây, địa danh
chỉ vùng: huyện Gò Công - chợ, cầu Gò Công); địa danh chỉ vùng chuyển sang (địa
danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính:
xóm Bún – cầu Xóm Bún , xóm Rẫy - ấp Xóm Rẫy);


Nhân danh chuyển hóa thành địa danh (vua Hùng Vương – đường, cầu Hùng
Vương, liệt sĩ Lê Thị Hồng Gấm – đường Lê Thị Hồng Gấm)



Địa danh vùng khac trở thành địa danh ở Tiền Giang (tỉnh Cà Mau – đường,
cầu Cà Mau, tỉnh Thừa Thiên Huế – cầu Huế, cống Huế (Tân Phước, sông Bến Hải –
cầu Bến Hải).


Và phương thức vay mượn, trong qua trình cộng tac, sinh sống với người Hoa,
Khmer, người Phap, nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tiếp thụ một số địa danh có nguồn
gốc từ ngôn ngữ của cac dân tộc này như: địa danh gốc Han Việt (thành Định Tường,
huê viên Lạc Hồng), địa danh gốc Khmer (Mỹ Tho, rạch Tha La, rạch Cai Cối), địa
danh gốc Phap (đường Yersin; kinh Salisetti, kinh Champeaux). Ngoài ra, còn một số yếu
tố trong địa danh vốn có nguồn gốc từ mượn cũa Mã Lai như: cù lao (pulaw), tràm (kram), gò
(gun), v.vv...


<b>3. Về ngôn ngữ cấu tạo địa danh Tiền Giang</b>
<b>3.1 Địa danh thuần Việt </b>


Địa danh thuần Việt ở Tiền Giang thường là cac địa danh chỉ địa hình, địa danh
chỉ vùng, địa danh chỉ công trình xây dựng và một số ít địa danh hành chính.


<b>a/ Địa danh chỉ địa hình</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

mương, chợ, cầu, cống, công viên, đường, lộ: rạch Chùa, bến Chùa, cầu Rạch Miễu,
công viên Giếng Nước)


<b> b/ Địa danh chỉ công trình xây dựng</b>


Địa danh gắn với công trình xây dựng: thường là bến, cầu, kinh, mương, đình,
miễu, chùa, đồn (rạch Bến Chùa, rạch Đình, rạch Miễu). Địa danh chỉ chợ: cac địa
danh chợ còn bảo lưu nhiều địa danh với cac yếu tố “bến”, “cai”, “giồng” (chợ Bến
Vựa, chợ Nổi Cai Bè, chợ Giồng Dứa). Địa danh chỉ kênh: gắn nhiều với cac chức vụ,
tên người và giới tính (kênh Cả Gao, kênh Bà Ngọt, kênh Ông Mười). Địa danh chỉ


cầu: gắn nhiều với cac chức vụ, tên người và giới tính (cầu Hương Lễ, cầu Bà Hiền,
cầu Ơng An). Địa danh chỉ cớng: gắn liền với tên người và giới tính (cống Bà Lang,
cống Bà Tài, cớng Ơng Lữ).


Ngoài cac địa danh mang tên người, chỉ đặc điểm địa hình, gắn với công trình
xây dựng, còn lại đa số là cac địa danh mang tên động vật và thực vật, sản vật của địa
phương. Địa danh mang tên động vật: có mặt từ chim cho đến bò sat, thú ăn thịt, gia
súc, nhưng nhiều nhất vẫn là động vật sống dưới nước (bàu Sấu, lang Chim, rạch Ca
Chốt, rạch Kiến, rạch Hươu, bãi Nghiêu, chợ Ca Chốt). Địa danh mang tên thực vật:
kha phong phú với cac loại cây trồng và cây mọc hoang (giồng Dứa, gò Bầu, rạch
Bằng Lăng, đìa Sậy, chợ Gò Dừa). Địa danh mang tên sản vật địa phương: cac sản vật
trước đây thường có nhiều ở địa phương (rạch Cau, ao Dâu, giồng Dâu, rạch Mật, chợ
Gạo).


c/ Địa danh hành chính


Đa số cac địa danh hành chính Việt Nam đều là từ Han Việt. Bên cạnh, vẫn có
một số địa danh hành chính là thuần Việt như: ấp Ca; ấp Lò Gạch 1, 2; ấp Kênh Dưới;
ấp Đèn Đỏ; ấp Kênh Trên, ấp Bà Lẫy 1, 2; ấp Mới, huyện Chợ Gạo,...


d/ Địa danh chỉ vùng


<b> Với hàng loạt cac khu, xóm, xứ, miệt, vùng như: xóm Dầu (Mỹ Tho), xóm Thủ</b>
(Gò Công Đông), miệt Cai Bè, vùng Gò Công, khu Chợ Cũ (Mỹ Tho)... Trong đó có
nhiều địa danh có yếu tố chỉ đối tượng “giồng”: xóm Giồng Sơn Qui, xóm Giồng Bà
Lẫy, xóm Giờng Lão Trực, xóm Giờng Ơng H, xóm Giờng Thap, xóm Giồng Keo.
“Bởi giồng xuất hiện nhiều nhất ở cac vùng ven biển như Duyên Hải, Bến Tre, Gò
Công.” [8,55]. Điều này phản anh kha rõ nét đặc trưng của địa hình một tỉnh ven biển
như Tiền Giang.



<b>3.2 Địa danh Hán Việt</b>


Địa danh Han Việt ở Tiền Giang, chủ yếu là địa danh hành chính thường dùng
cac mỹ từ mang ý nghĩa tốt đẹp, chiếm số lượng kha lớn. Một số từ thường gặp như:
Tân là mới(cù lao Tân Long, xã Tân Mỹ Chanh, huyện Tân Phú Đông); An là êm đềm
(ấp An Thiện, xã An Hữu, xã An Thạnh Thủy); Hậu là tốt (xã Hậu Mỹ Bắc, xã Hậu
Mỹ Trinh, xã Hậu Mỹ Phú); Bình là yên ổn (làng Bình Trưng, ấp Bình Hòa, xã Bình
Đức); Long là đầy đặn, phồn thịnh (ấp Long Hòa, xã Long Hưng, xã Long Định); Phú
là giàu (ấp Phú Xuân, xã Phú Kiết, xã Phú Phong); Mỹ là đẹp đẽ (xã Mỹ Trung, xã Mỹ
Lợi, xã Mỹ Đức Đông); Phước là điều hay, điều tốt (xã Phước Hiệp, thị trấn Mỹ
Phước); Vĩnh là lâu dài (thôn Vĩnh Phước, xã Vĩnh Hựu, Vĩnh Lợi, Vĩnh Kim); Thạnh
là phat đạt (ấp Thạnh Phú, ấp Thạnh Thới, xã Thạnh Phú).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đông, ấp Bình Thọ Thượng, ấp Bình Ninh, Bình Hưng, ấp Tân Thạnh (xã Bình
Phan-Chợ Gạo). Hoặc kết hợp với yếu tố thuần Việt: Sau - Trước, số đếm (ấp Đông A, ấp
Đông B, Đăng Phong Dưới, Đăng Phong Trên, Bình Khương 1, Bình Khương 2, Bình
Thọ 1, Bình Thọ 2).


Địa danh hành chính đặt theo những tính cach tốt của con người: ấp Hội Nhơn
(Nhân), ấp Hội Nghĩa, ấp Hội Lễ, ấp Hội Trí, ấp Hội Tín (xã Hội Xuân - CL) hay ấp
Lương Nhơn (Nhân), ấp Lương Ngãi (Nghĩa), ấp Lương Lễ, ấp Lương Trí, ấp Lương
Tín (Mỹ Lương –Cai Bè). Sau khi Miền Nam giành độc lập, địa danh hành chính một
số ấp đặt theo cụm từ “Hòa - Bình - Thống - Nhất”. Ví dụ như: ấp Hòa, ấp Bình, ấp
Thống, ấp Nhất (Hòa Hưng- Cai Bè).


Có hiện tượng một số địa danh thuần Việt lại được dịch nghĩa ra trong cac văn
bản Han như trong Gia Định thành Thông chí, Tiểu giao trình địa lý Nam Kỳ, hay Đại
Nam nhất Thống chí: hải khẩu (cửa Tiểu - Tiểu Hải Môn, cửa Đại - Đại Hải Môn;
sông (sông Lớn Mỹ Tho Giang, sông Vũng Gù Hưng Hòa Giang, sông Trâu Trắng
-Bạch Ngưu Giang, sông Cai Bè - An Bình Giang); rạch (rạch Xoài Mút – Tị Thập


Giang, rạch Cai Thia – Thi Giang, rạch Trà Hôn (Cà Hôn) – Kì Hôn Giang, rạch Bat
Chiên – Bat Chiên Giang; cù lao (cù lao Ba Lăng- Ba Lăng Châu, cù lao Quạ - Ô
Châu, cù lao Long Ẩn - Long Ẩn Châu, cù lao Cai Thia – Thi Hàn Châu, cù lao Trà
Luộc – Kiến Lợi Châu, cù lao Bãi Đam – Phú An Châu, cù lao Họ - Thới Sơn Châu,
cù lao Rồng – Long Châu; kênh (kênh Bà Bèo – Đăng Giang, kênh Vũng Gù – Bảo
Định Hà). Nhưng cac địa danh thuần Việt lại thường xuyên được nhân dân sử dụng. Vì
thế, nó có sức sống trong đời sống thực tế, còn cac địa danh Han - Việt chỉ tồn tại
trong cac văn bản nhà nước.


Những địa danh hành chính của một xã thường lập lại một chữ trong địa danh
cac ấp: Như chữ “Bình” trong xã Bình Phục Nhứt (Chợ Gạo) được đặt tên cho cac ấp
kèm theo: Bình Khương 1, Bình Khương 2, Bình Ninh, Bình Phú, Bình Quới, Bình
Thọ 1, Bình Thọ 2. Tương tự, xã Hiệp Đức (Cai Lậy), chữ “Hiệp” được đặt tên kèm
theo cho cac ấp: Hiệp Phú, Hiệp Quới, Hiệp Nhơn, Hiệp Ngãi, Hiệp Ninh, Hiệp Hưng,
Hiệp Thạnh. Hay xã Vĩnh Kim (Châu Thành) chữ “Vĩnh” cũng được đặt tên kèm theo
cho cac ấp: Vĩnh Thới, Vĩnh Bình, Vĩnh Quý, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạnh. Tóm lại, đây là
những cach đặt địa danh hành chính phổ biến ở Nam Bộ.


<b>3.3 Địa danh từ các ngôn ngữ khác</b>


Trong qua trình cộng tac, sinh sống với người Hoa, người Khmer, người Phap,
Nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tiếp thụ một số địa danh có nguồn gốc từ ngôn ngữ của
cac dân tộc này. Địa danh gốc Khrmer: Soài Rạp (Păm Prêk Crôy Phkăm), Mỹ
Tho(Mésar). Địa dang gốc Phap: đường Yersin; kênh Salisetti, thành Săn- Đa (thành +
Soldat). Ngoài ra, còn một số yếu tố trong địa danh vốn có nguồn gốc từ mượn cũa Mã
Lai như: cù lao (pulaw), tràm (kram), gò (gun), v.v…


<b>3.4 Địa danh bằng số</b>


Theo Địa Chí Tiền Giang (2005), chúng tôi thống kê: trong số 169 địa danh xã,


phường và 869 ấp ở Tiền Giang thì có 15 địa danh phường bằng số, chiếm 9,74%; 280
địa danh ấp bằng số, chiếm 32,2% và 20 địa danh bằng chữ và số, chiếm 2,3%, chủ
yếu là cac địa danh hành chính (tổ, khu phố, ấp như: ấp Hoà 2, ấp An Bình 1, ấp 6B,
Bà Lẫy 1,2) và địa danh chỉ cac công trình xây dựng (đường, cầu, cống,...) chiếm tỷ lệ
kha cao. Đây cũng là đặc điểm chung của cac địa danh hành chính ở Tiền Giang nói
riêng và Nam Bộ nói chung. Cac địa danh này chỉ xuất hiện khi Phap thiết lập nền
hành chính ở nước ta.” [6,5].


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Phần lớn địa danh ở tỉnh Tiền Giang đều có nguồn gốc và ý nghĩa kha rõ ràng.
Bởi vì, lịch sử của vùng Đất Nam Bộ nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng không
dài (330 năm) nên phần lớn cac biến cố và cac sự kiện đều được chúng ta biết tới. Đó
là đều kiện để chúng ta dễ dàng tìm hiểu về nguồn gốc của những địa danh tỉnh Tiền
Giang. Mặt khac, phần lớn ngôn ngữ cấu thành địa danh của tỉnh Tiền Giang là những
từ ngữ rất gần với tiếng Việt hiện đại. Chúng ta sẽ dễ dàng tìm hiểu về từ nguyên của
nó.


Đa số địa danh Tiền Giang đều có nguồn gốc dân gian và phản anh đậm nét
hiện thực. Vì phần lớn là những địa danh chỉ cac địa hình (sông, rạch, gò, giồng), địa
danh chỉ công trình xây dựng và địa danh chỉ cac vùng, phần lớn đều là từ thuần Việt.
Đó là gia trị to lớn của địa danh tỉnh Tiền Giang, đã giúp cho ta biết kha nhiều về tỉnh
Tiền Giang trên cac mặt: ngôn ngữ, lịch sử, khảo cổ, địa lý, kinh tế, kiến trúc và dân
tộc.


Qua khảo sat, chúng tôi nhận thấy số địa danh thuần Việt mang tên người, cây
cỏ, cầm thú, tên cac địa hình thiên nhiên, cac công trình xây dựng kha lớn. Đa số cac
tên địa danh này kha quen thuộc với chúng ta (cầu Hùng Vương, bàu Sấu, rạch Bằng
Lăng, cầu Dừa, chợ Gạo). Một số địa danh Han Việt chủ yếu là địa danh chỉ tên cac
đơn vị hành chính là những từ thông dụng và có ý nghĩa tốt đẹp như: Tân, An, Bình,
Long, Mỹ, Vĩnh, Thạnh, Hậu (ấp Bình Phú, phường Tân Long, xã Long Tiên, huyện
Tân Phú Đông). Còn cac địa danh của một số ngôn ngữ khac như: Khmer, Phap, Mã


Lai có mặt ngữ âm rất khac lạ so với tiếng Việt. Vì vậy, chúng ta dễ dàng nhận biết:
Soi Rạp, Ba Rài, Tha La, Yersin, Bót, Săn- đa, Salisetti, Champeaux, Arroyo de la
Poste, v.v...


Tuy nhiên, vẫn còn một số ít địa danh vẫn còn gây tranh luận về nguồn gốc và
ý nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu: một số địa danh là những từ cổ, từ địa phương ít phổ
biến nên làm cho cac địa danh trở nên khó hiểu. Ví dụ, từ “hóc” trong rạch Hóc Đùn,
chữ “thủ” trong rạch Thủ Ngữ hay Bat Cạy (bat: quẹo phải, cạy: quẹo trai là phương ngữ
dùng trong lĩnh vực giao thông đường thủy), v.v...Vì vậy, chúng ta phải cẩn trọng tìm cho
được từ “nguyên” và nghĩa ban đầu của chúng.


Ở Tiền Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung, sự phat âm lẫn lộn giữa cac âm đầu và
dấu thanh kha lớn. Vì vậy, khi nói và viết, nhiều địa danh đã bị sai lạc nên dẫn đến khó hiểu,
khó xac định nghĩa của chúng như: Bàu Bèo thành Bà Bèo, Chân Chim thành Chim Chim,
Hóc Đùn thành Hóc Đùng, Xoài Hột thành Sài Hột, gò Lữ thành gò Lũy, Trà Luộc thành Trà
Lược. Mặt khac, trong cac sach bao, bản đồ,... do Phap để lại, nhiều địa danh bị ghi chép, in
ấn sai lệch khiến chúng ta khó xac định ý nghĩa của chúng như: Kỳ Hôn thành Cà Hôn, Hóc
Đùn thành Hóc Đùng hay Hóc Động, v.v...


Một số từ có nguồn gốc từ cac ngôn ngữ khac (Khmer, Phap, Mã Lai) đã bị Việt hóa
hoàn toàn, khiến chúng ta khó xac định nguồn gốc và ý nghĩa của chúng như: rạch do prêk,
vàm do piam, bót do post, xang do chaland, cù lao do pulaw, tràm do kram, gò do gun, Cai
<b>Cối là Srok prék thbal, Soi Rạp là Păm Prêk Crôy Phkăm, v.v...</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>tỷ lệ thấp nhất 4% là của 04 địa danh chỉ vùng (khu Lăng Hoàng Gia, xóm Trại Ca,</b>
xóm Thủ, Đồng Thap Mười).


Cac loại địa
danh



Địa danh chỉ địa
hình


Địa danh chỉ
công trình xây


dựng


Địa danh hành
chính


Địa danh chỉ
vùng


Tỷ lệ (%) <b> 43</b> <b>41</b> <b>12</b> <b>4</b>


Tóm lại, địa danh Tiền Giang rất phong phú và đa đạng. Đa số địa danh Tiền
Giang đều có nguồn gốc dân gian và phản anh đậm nét hiện thực. Phần lớn địa danh ở
tỉnh Tiền Giang đều có nguồn gốc và ý nghĩa kha rõ ràng. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít
địa danh vẫn còn gây tranh luận về nguồn gốc và ý nghĩa.


Vấn đề nghiên cứu địa danh ở tỉnh Tiền Giang có nhiều ý nghĩa to lớn về mặt lý
luận khoa học lẫn thực tiễn. Chúng tôi hi vọng với kết quả nghiên cứu này, sẽ là một
bước chuẩn bị tích cực cho việc xây dựng cuốn “Từ điển địa danh tỉnh Tiền Giang”
trong tương lai. Đồng thời, chúng ta có thể thiết kế một Website về “Đất và người Tiền
Giang” để giới thiệu và giảng dạy môn địa lý, lịch sử, văn học địa phương.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


<b>1. Việt Cúc, Gị Cơng cảnh cũ người xưa, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1999.</b>



<b>2. Trần Hoàng Diệu – Nguyễn Quang Ân (chủ biên), Địa chí Tiền Giang (tập 1 và 2), Tỉnh</b>
Ủy, Ủy ban nhân tỉnh Tiền Giang, Trung tâm Thông tin tư liệu UNESCO, 2005.


<b>3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành Thông chí, Đỡ Mợng Khương, Ngũn Ngọc Tỉnh</b>
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Giao Dục, 1998.


<b>4. Grimald, Monographie de la Province Gocong, 1936.</b>
<b>5. Grimald, Monographie de la Province Mytho, 1902.</b>


<b>6. Lê Trung Hoa, Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành phớ</b>
<b>Hờ Chí Minh), NXB Khoa học xã hội, 2003.</b>


<b>7. Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện cở tích và</b>
<b>giả thút, NXB Khoa học Xã hợi, 2004.</b>


<b>8. Huỳnh Minh, Gị Cơng xưa, NXB Thanh Niên, 2001.</b>
<b>9. Huỳnh Minh, Định Tường xưa, NXB Thanh Niên, 2001. </b>


<b>10. Nguyễn Phúc Ngiệp, Kinh tế nông nghiệp Tiền Giang thế kỷ XIX, NXB Trẻ, 2003. </b>


<i><b>* Địa chỉ liên lạc: (VÕ VĂN SƠN – Lớp Đại học Sư phạm Ngữ Văn – Khóa</b></i>


</div>

<!--links-->

×