Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn hay về: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.63 KB, 94 trang )

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội


Lời Mở Đầu

Ngày nay quốc tế hố, tồn cầu hố đang là xu thế chung của nhân loại, không một
quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong
bối cảnh đó TMQT là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế
trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước,
tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên
ngồi, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, chiến lược phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta
đã lựa chọn là hướng mạnh về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu.Với chiến lược đó
các nhà doanh nghiệp đã có nhiều cơ hội để tăng trưởng và phát triển mạnh, tham gia vào
TMQT.
Công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội là một điển hình, trong những năm vừa qua nhờ hoạt
động xuất khẩu tơ lụa công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể, lợi nhuận liên tục gia
tăng, uy tín được tăng cường, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày một cải thiện. Tuy
vậy, trong quá trình xuất khẩu cơng ty khơng tránh khỏi những khó khăn hạn chế. Trong thời
gian thực tập tại công ty, thấy được thực trạng như vậy, đồng thời nhận thức được tầm quan
trọng của của công tác xuất khẩu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, với sự
giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, Thạc Sĩ Nguyễn Trọng Hà cùng các cô chú, các
anh chị trong công ty, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở
công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội”.
Báp cáo được chia làm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội.
Chương III: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu


ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội trong thời gian tới.


Chương I
Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu

I.Tổng quan về hoạt động xuất khẩu.

Nằm trên những vùng khác nhau của quả đất, mỗi một quốc gia có điều kiện tự nhiên
đất đai khí hậu khác nhau. Cho đến nay trên thế giới chưa có một quốc gia nào có đủ tất cả
các nguồn lực để tự sản xuất tất cả các hàng hoá cho tiêu dùng trong nước một cách có hiệu
quả. Chính vì thế từ xưa tới nay, thương mại quốc tế (TMQT) dù dưới hình thức nào thì cũng
ln có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Vậy TMQT là gì?
TMQT là sự trao đổi hàng hố và dịch vụ (hàng hố hữu hình và hàng hố vơ hình) giữa
các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang
giá. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau
về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia trên thế giới.
TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể
tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp
không buôn bán. TMQT là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham
gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.TMQT bao
gồm nhiều hoạt động khác nhau trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại
thương. Nội dung của TMQT bao gồm:


Xuất và nhập khẩu hàng hố, hữu hình và vơ hình.



Gia cơng th cho nước ngồi và th nước ngồi gia cơng




Tái xuất khẩu và chuyển khẩu.



Xuất khẩu tại chỗ.

Thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngồi khơng thể là quan hệ ban phát cho
khơng, khơng phải chỉ có nhập mà phải có xuất, phải cân đối được xuất nhập và tiến tới xuất
siêu ngày càng lớn. Vậy xuất khẩu là gì? Xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất
ra nước ngồi nhằm mục đích thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nườc, phát triển
sản xuất kinh doanh khai thác ưu thế tiềm năng đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.
Khác với hoạt động mua bán sản phẩm diễn ra trên thị trường nội địa, hoạt động xuất khẩu
phức tạp hơn nhiều, bởi đây là hoạt động buôn bán trao đổi qua biên giới quốc gia, thị trường


vơ cùng rộng lớn khó kiểm sốt, thanh tốn bằng ngoại tệ đồng thời phải tuân thủ theo những
tập quán thông lệ quốc gia cũng như luật pháp của từng địa phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực trong mọi điều kiện từ xuất nhập
khẩu hàng hố tiêu dùng, máy móc thiết bị và cả cơng nghệ cao. Tất cả các hoạt động buôn
bán trao đổi này đều nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.

1. Nguồn gốc của TMQT.

TMQT có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung
tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
TMQT trước hết là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Tiền đề xuất hiện sự
trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chun mơn

hố ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi
dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thương mại bắt nguồn từ sự đa
dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chun mơn hố sản xuất một số
mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước
kém lợi thế thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành TMQT
giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch...
Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng thương mại trong các mặt hàng khơng xuất phát
từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Một nước có thể sản xuất được mặt hàng này tại
sao lại nhập khẩu chính mặt hàng đó từ một nước khác? Làm sao nước ta với xuất phát điểm
thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế lại có
thể vẫn duy trì quan hệ thương mại với các nước đó? Để giải thích những câu hỏi trên chúng
ta hãy xem xét quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi thế so sánh) của nhà kinh tế
học David Ricardo (1772- 1823).
Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chía
khố của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuun
mơn hóa sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất
cao nhất thì thương mại có hiệu quả cho cả hai nước. Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn
so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có


thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào TMQT quốc gia đó sẽ chun
mơn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là
những hàng hố có lợi thế tương đối). Cịn nhiều lý do khác nhau khiến TMQT ra đời và
ngày càng trở lên quan trọng, đặc biệt trong một thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó
có thể là TMQT tối cần thiết cho việc chun mơn hố để có hiệu quả kinh tế cao trong các
ngành cơng nghiệp hiện đại. Chun mơn hố quy mơ lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu
quả kinh tế theo quy mơ sẽ được thực hiện trong hàng hố các nước sản xuất. Sự khác nhau
về sở thích và mức cầu cũng là một nghuyên nhân khác để có TMQT. Ngay cả trong trường
hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nơi giống hệt nhau, TMQT vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau

về sở thích.
Trong xu thế quốc tế hố nền kinh tế, con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
theo kiểu cơ lập với bên ngồi, tự cấp, tự túc hay thay thế nhập khẩu đã hồn tồn khơng có
sức thuyết phục. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền vững không phải
qua chun mơn hố ngày càng sâu rộng để sản xuất ra những sản phẩm sơ chế, mà thông
qua việc mở rộng và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có giá trị thặng dư cao,
hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu
quả hơn để khai thác tốt nhất lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn,
kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy xem xét
những vai trò sau đây của TMQT nói chung và của xuất khẩu nói riêng.

2.Vai trị của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.

Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi
thứ hàng hố. Bn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Xuất khẩu là một hoạt động TMQT có vai trị quan trọng thể hiện trên các mặt sau:

2.1: Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước.
Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại
phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn
độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học kỹ
thuật của loài người để phát triển. Nền kinh tế “mở cửa”, trong đó xuất khẩu đóng vai trị


then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng sẵn có trong
nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố
tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ
thuật, thị trường và kĩ năng quản lý. Xuất khẩu là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh
thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và

tài nguyên thiên nhiên để tạo sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn
khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.

2.2: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn và kỹ thuật bên
ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết định cho sự
phát triển của sản xuất. Xuất khẩu để tăng khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh
tế nông nghịêp lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến có nguồn bổ sung kỹ thuật tiên tiến nhằm
nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Quá trình phát triển của nền kinh tế đỏi hỏi phải nhập khẩu một lượng ngày càng
nhiều máy móc thiết bị và ngun liệu cơng nghiệp ... Trong các nguồn như đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ... thì bằng cách này hay cách khác đểu phải trả. Chỉ có xuất khẩu mới
là hoạt động có hiệu quả nhất taọ ra nguồn vốn nhập khẩu bởi chúng khơng phải trả bất cứ
một khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngồi hơn nữa cịn thể hiện tính tự chủ của
nguồn vốn. Trong thực tiễn, xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa
là kết quả, vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng
nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu.
Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ
của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn duy nhất để trả nợ- trở thành hiện thực.

2.3: Xuất khẩu góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hố, giải quyết cơng ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.


Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển công nghiệp với
quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó khơng tạo thêm cơng ăn việc làm, một vấn đề mà
các nước nghèo luôn ln phải giải quyết.
Với phạm vi vượt ra ngồi biên giới quốc gia, hoạt động xuất khẩu mở ra một thị
trường tiêu thu rộng lớn với nhu cầu vô cùng đa dạng của mọi tầng lớp, mọi dân tộc trên tồn

thế giới. Sản xuất phải gắn với thị trường, có thị trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy
sản xuất hàng xuất khẩu, đến lượt nó sản xuất hàng xuất khẩu lại là nơi thu hút hàng triệu lao
động vào làm việc và tăng thu nhập. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm
tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân.
2.4: Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của cơng
cuộc khoa học và cơng nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình cơng
nghiệp hố phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với đất nước
ta. Vì vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-

Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tức là sự phát
triển của ngành hàng xuất khẩu này sẽ kéo theo sự phát triển của một ngành khác có quan
hệ mật thiết.

-

Thơng qua xuất khẩu, hàng hố của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế
giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này địi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất,
hình thành cơ cấu sản xuất ln thích nghi với thị trường.

-

Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng
lực sản xuất trong nước.

-


Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản
xuất trong nước.

-

Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải ln đổi mới, hồn thiện cơng việc quản trị
sản xuất và kinh doanh.

2.5: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.


Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại ln có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau.
Xuất khẩu là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế đối ngoại. Vì vậy khi hoạt động xuất
khẩu phát triển sẽ kéo theo các bộ phận khác của kinh tế đối ngoại phát triển như dịch vụ,
quan hệ tín dụng, đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các
quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu. Vì vậy đẩy mạnh xuất
khẩu có vai trị tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và vai trò của
nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào sự ổn định kinh tế chính trị của đất nước.
Nói tóm lại, với những vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế, phát triển hoạt
động xuất khẩu luôn là chiến lược để phát triển kinh tế ở nước ta.

3.Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu.

Hoạt động xuất khẩu có các chức năng cơ bản sau:
-

Tạo vốn và kỹ thuật bên ngồi cho q trình sản xuất trong nước.

-


Thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất trong nước.

-

Tăng hiệu quả sản xuất.

Từ những chức năng trên hoạt động xuất khẩu tự đặt ra cho mình một số nhiệm vụ chủ yếu
sau:
-

Nghiên cứu chiến lược, chính sách và cơng cụ nhằm phát triển TMQT nói chung, hoạt
động xuất khẩu nói riêng, hướng tiềm năng, khả năng kinh tế nói chung và sản xuất hàng
hố dịch vụ của nước ta nói riêng vào sự phân công lao động quốc tế . Ra sức khai thác có
hiệu quả mọi nguồn lực cua đất nước, khơng đánh giá mình q cao, q lạc quan cũng
như khơng tự ti đánh giá mình q thấp, từ đó bỏ lỡ cơ hội làm ăn với nước ngoài, liên kết
và đan xen vào chương trình kinh tế thế giới.

-

Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng chứa đựng nhiều hàm
lượng chất xám, kỹ thuật và công nghệ để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất
khẩu.

-

Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những
đòi hỏi cuả thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp
dẫn và khả năng cạnh tranh cao.

-


Mở rộng thị trường và đa phương hoá đối tác.


-

Hình thành các vùng, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo các chân hàng vững chắc,
phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.

-

Xây dựng các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược, từ đó có kế hoạch phát triển và mở
rộng mặt hàng chủ lực.

4.Các loại hình xuất khẩu.

Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng
và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương thức có đặc điểm riêng, có kỹ thuật tiến
hành riêng. Thơng thường có các loại hình xuất khẩu chủ yếu sau:

4.1: Xuất khẩu trực tiếp.
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước, phương thức
xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh TMQT có thể được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong
đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt ( hoặc thông qua thư từ, điện tín...) để bàn bạc
và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh tốn...
mà khơng qua người trung gian. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện,
việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội thương ở
chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền thanh
tốn có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di

chuyển qua khỏi biên giới của một nước.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm sau:
-

Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra những hiểu lầm đáng
tiếc.

-

Giảm được chi phí trung gian.

-

Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng, khắc phục
thiếu sót

-

Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá

Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là:
-

Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán


-

Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí: giấy tờ, đi lại, điều
tra tìm hiểu thị trường.


4.2: Xuất khẩu gián tiếp.
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến người
bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong xuất khẩu gián
tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và
người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ ba. Người
thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị
trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác
của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại
lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người bán
hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp
vụ, người môi giới không được đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác,
khơng chiếm hữu hàng hố và khơng chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ thác về việc
khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới không tham gia vào việc thực hiện
hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền. Quan hệ giữa người uỷ thác với người môi giới dựa
trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có những lợi ích như:
 Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp luật và tập quán
địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người
uỷ thác.
 Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó, khi
sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
 Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói, người uỷ thác có thể
giảm bớt chi phí vận tải.
Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như:


 Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường. Công ty cũng

thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc mơi giới.
 Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung gian trong những
trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường mới, khi mới đưa vào thị trường
mới một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian, khi mặt hàng đỏi
hỏi sự chăm sóc đặc biệt như hàng tươi sống chẳng hạn.

4.3: Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hố, trong
đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích của xuất khẩu khơng
phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hố khác có giá trị tương
đương.
Bn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hố- tiền tệ, trong đó sớm
nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngồi hai hình thức truyền thống
đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các loại hình bn bán đối lưu phải kể đến như:
 Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi trực tiếp với nhau
những hàng hố có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra gần như đồng thời.
 Nghiệp vụ bù trừ (compensation): đây là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối
lưu. Trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sỏ giá trị hàng giao
và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng
giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà cịn số dư thì số tiền
đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên
chủ nợ tại nước bị nợ.
 Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một bên giao thiết bị cho
khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành
phẩm, nguyên vật liệu...
 Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và
ưu huệ ( như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản phẩm).



 Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một bên cung cấp thiết bị
toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam
kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra.

4.4: Gia cơng quốc tế.
Gia cơng quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là
bên đặt gia cơng) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một bên khác (gọi là
bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt gia cơng và
nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu
gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước.
Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ
và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ
giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay
công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước
đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương thức gia công quốc tế mà có được một nền
cơng nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo...

4.5: Giao dịch tái xuất.
Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua
chế biến ở nước tái xuất.

4.6: Xuất khẩu theo nghị định thư.
Là hình thức xuât khẩu hàng hố (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của chính phủ.
Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả
cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận.

II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu.



Kinh doanh TMQT là hoạt động thương mại phức tạp hơn nhiều so với kinh doanh
thương mại nội địa bởi nhiều lý do: bất đồng ngôn ngữ, hệ thống luật pháp, phong tục tập
quán, thói quen tâm lý... rất khác nhau. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với
nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường, lựa chọn thị trường xuất khẩu... cho đến
khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua hồn tất các thủ tục
thanh tốn. Đó là cả một qua trình phức tạp cần phải được nghiên cứu đầy đủ kĩ lưỡng, đặt
chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả
cao nhất, phục vụ đầy đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Nội dung của hoạt động xuât khẩu bao gồm những nghiệp vụ cơ bản sau:

1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trước
khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh doanh phải nắm bắt được
các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được
tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả
năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể
thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả trên thị trường giúp họ giải quyết được các vấn đề
của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh
của hàng hố... từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất cho sản phẩm của
mình.

1.1: Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán
hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục
tiêu đó. Q trình nghiên cứu thị trường là q trình thu thập thơng tin, số liệu về thị trường,
so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà
quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công tác nghiên cứu thị
trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ

khơng bán cái có sẵn”.
 Có hai loại thơng tin cần thu thập trong nghiên cứu thị trường:


- Thông tin sơ cấp (primary information): là những thông tin thu thập mang tính chất trực tiếp
từ thị trường đó.
Đối với loại thơng tin này người ta thường áp dụng phương pháp nghiên cứu tại thị
trường (Field study): đây là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người
trên thị trường. Nói cách khác, đó là cách thu thập thơng tin từ trực quan, qua các quan hệ
giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Biện pháp cụ thể: điều tra, phỏng vấn, quan
sát, thực nghiệm.
Như vậy, xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại thị trường là một hoạt
động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Tuy vậy, phương pháp nghiên
cứu này cho kết quả khá chính xác. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị
trường đã đề cập, chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết
quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát.
+ Thông tin thứ cấp (Secondary information):
Đối với loại thông tin này người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk study).
Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản
hay khơng xuất bản và tìm những nguồn đó. Chìa khố thành công của nghiên cứu tại bàn là
phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những nguồn thơng tin đó. Ngày nay,
trong thời đại tin học, thơng tin về thị trường, hàng hố, giá cả... rất phong phú. Có thể lấy
được thơng tin từ các nguồn như: qua hệ thống Internet, qua các cơ quan xúc tiến thương
mại, các cơ quan thống kê, qua các sách báo thương mại được xuất bản, qua quan hệ với
thương nhân... Trong đó, số liệu thơng kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất,
được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là
những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu, dự trữ tồn kho, giá cả... Nó giúp cho
người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển.
Nghiên cứu tại bàn, có thể nói là phương pháp phổ thơng nhất về nghiên cứu thị trường,
vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị

trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn.
Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải bổ sung bằng nghiên cứu tại thị trường.
 Nội dung thông tin cần thu thập khi nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tình hình cung cầu
hàng hố trên thị trường, giá cả hàng hố và một số yếu tố khác.
 Nghiên cứu tình hình cung- cầu hàng hố:


Nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hố cần nắm được các vấn đề sau:
-

Số lượng các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng đó trên thị trường và khả năng cung ứng
của từng doanh nghiệp đó.

-

Nghiên cứu chu kỳ đưa hàng ra thị trường của từng doanh nghiệp cung ứng đó.

-

Sảnphẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường (mặt hàng đang ở pha nào của chu
kỳ sống)

Về mặt tiêu thụ nhà kinh doanh phải biết mặt hàng định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của
chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt
hàng bao gồm 4 giai đoạn (gđ) sau đây:
Giai đoạn triển khai: đây là giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong
giai đoạn này về cơ bản chưa có sản phẩm cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp chưa được
người tiêu dùng biết đến, doanh nghiệp cần nỗ lực làm cho khách hàng biết đến sản phẩm
của mình.
Giai đoạn tăng trưởng: đây là giai đoạn phát triển của sản phẩm, trong giai đoạn này

sản phẩm được người tiêu dùng biết đến và được thị trường chấp nhận, cần đẩy nhanh q
trình đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình vào thị trường, qua đó tạo được mơi trường tốt,
tăng phạm vi lựa chọn sản phẩm.
Giai đoạn bão hoà: trong giai đoạn này doanh thu tiêu thụ vẫn tăng nhưng tăng chậm và
có xu hướng giảm. Giai đoạn này có sự cạnh tranh kịch liệt giữa các đối thủ vào thị trường
và một hình ảnh mà doanh nghiệp cần thấy rõ là sự tràn ngập hàng hoá trên thị trường.
Giai đoạn suy thoái: đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong
giai đoạn này thị trường đã bão hoà về sản phẩm, doanh số bán ra của sản phẩm giảm đi rất
nhiều. Để tránh khả năng bị loại khỏi thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện
pháp cải tiến, đổi mới mẫu mã kỹ thuật, hoặc thay thế bằng sản phẩm mới.
Từ sự phân tích như trên ta nhận thấy, việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn
triển khai và tăng trưởng gặp thuận lợi lớn nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn suy
thối nhưng nhờ thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến hệ thống
tổ chức tiêu thụ, giảm giá...) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu.
Tóm lại, có nắm vững mặt hàng ta đang dự định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của
chu kỳ sống thì mới có thể xác định những biện pháp cần thiết để làm tăng doanh số bán
hàng và tăng lợi nhuận.


Cấu trúc của cung, nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự cạnh
tranh đã gay gắt, điều đó khơng có nghĩa là doanh nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ vị trí thế
thủ chờ đợi giai đoạn chuyển sang tấn công
Nghiên cứu những sản phẩm khác cùng đáp ứng nhu cầu còn phải xác định xem sự
cạnh tranh ấy tồn tại được bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng thường được chấp nhận là bao
nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế nào, nó sẽ diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng
của nó trước một đối thủ mới.
Phân tích tình hình cầu:
Từ những thơng tin về hàng hố đang bán cần xác định xem những sản phẩm nào có thể
thương mại hố được. Người tiêu dùng hiện nay là những ai, họ được phân nhóm như thế
nào, nhóm xã hội, nghề nghiệp, tuổi, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, cách sống...

. Thống kê số lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng hố.
. Sức mua trung bình của một doanh nghiệp, một khách hàng.
. Nhịp độ mua hàng của họ (chu kỳ mua lặp lại).
. Sản phẩm của hãng đang ở thế hệ nào.
. Lý do mua hàng của khách hàng là gì?
. Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? Cần xác định sự tăng dân số, nhất là sự
tăng của bộ phận xác định và tiến hành phân tích sự tăng mức sống. Nếu khơng có u cầu
mua vào thời điểm phân tích thì phải xác định xem có yêu cầu không và khi nào.
 Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một nhân tố cấu thành thị
trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng
vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau, giá cả thị trường lại
càng trở lên phức tạp, trong đó giá cả hàng hố được coi là giá tổng hợp bao gồm giá vốn
hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tùy theo các bước
thực hiện và sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên
cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của giá
cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng loạn của
các công ty siêu quốc gia, nhân tố cạnh tranh, nhân tố cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố
thời vụ và một số nhân tố khác như: chính sách của chình phủ, tình hình an ninh chính trị của
các quốc gial... Từ đó mới có thể dự đốn một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của


hàng hố. Rõ ràng việc nghiên cứu và tính tốnh một cách chính xác giá cả của các hợp đồng
kinh doanh xuất nhập khẩu là một cơng việc khó khăn địi hỏi phải được xem xét trên nhiều
khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp
đồng kinh doanh TMQT.
 Nghiên cứu các loại hình kinh doanh khác trên thị trường như điều kiện vận tải, tốc độ,
phương tiện vận tải như thế nào, chi phí vận tải ra sao, bảo hiểm, vận chuyển...
 Nghiên cứu một số yếu tố khác liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị trường như:
quan hệ chính trị, văn hố: làm việc với ai phải hiểu văn hố của người đó, đồng thời có

cái nhìn khách quan về nền văn háo của họ, khơng thể so bì với văn hố của ta mà cho
rằng nền văn hố của họ khơng tốt, kinh doanh TMQT cần ln hiểu “ khơng có một nền
văn hố nào là tốt hay xấu mà chỉ có sự khác biệt”. Nghiên cứu chính sách, thể chế của
quốc gia khác đặc biệt là yếu tố về luật, thể chế tài chính. Nghiên cứu yếu tố tự nhiên của
từng đoạn thị trường: vị trí địa lý, khí hậu...

1.2: Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị kinh doanh lựa chọn
thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào những tiêu chuẩn mà các thị trường phải
đáp ứng được:
Tiêu chuẩn chung:
-

Về chính trị: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối với hoạt
động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính trị và sự ổn định của chính thể.

-

Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số...

-

Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người,
tỷ lệ tăng GDP...

-

Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển.

Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ:

-

Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch...

-

Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái

Tiêu chuẩn về thương mại:
-

Phần của sản xuất nội địa

-

Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường


-

Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn.

Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức quan trọng của
chúng đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào
khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này
thì thành cơng, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị
kinh doanh trong lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng (hay
lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu
mà cần tìm hiểu khách hàng về:

-

Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và tư cách pháp
nhân.

-

Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật.

-

Năng lực con người và năng lực quản lý của họ

-

Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó

-

Uy tín của họ trong kinh doanh
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những đối tác trực

tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các
thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực
hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người
làm công tác giao dịch.
Nghiên cứu thị trường hàng hố quốc tế trong TMQT nói chung và trong kinh doanh
xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và
là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh TMQT một cách có

hiệu quả nhất.

2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trườn,
đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn
vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:


-

Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập phương án rút ra
những nét tổng qt về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh.

-

Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải
có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan.

-

Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là
mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào
những thị trường nào...

-

Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều biện pháp trong
nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua...) và
cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở

rộng mạng lưới đại lý...)

-

Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu:
chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi, chỉ tiêu
điểm hoà vốn.

Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực hiện phương án,
tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng đã chọn. Nhưng để tiến tới ký kết hợp
đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao
dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước chính
như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng.
-

Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi,
nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên hiểu lầm về nhu cầu của mình. Vả
lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời và các cơng việc hành chính văn thư khác. Điều này
cũng dễ gây nên tốn thời gian và chi phí.

-

Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra. Trước khi chào
hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hố đó trên thế giới, mức giá hiện hành trên
thị trường, nhu cầu của đối phương và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa
ra đơn chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do.
Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi cho một đối tác,

trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì khơng được gửi cho các đối tác khác. Nếu người
nhận chào hàng cố định chấp nhận mua coi như chào hàng được ký.



Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được gửi cho nhiều
người và khơng ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận chào hàng tự do đồng ý mua
nhưng người bán vẫn có thể khơng thực hiện lời chào hàng đó.
Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ có nhu cầu và ta
đưa ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi, trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua,
chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi hàng của đối phương (chào hàng thụ động).
Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp dẫn. Sự
hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho
người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh tốn có lợi cho người mua.
-

Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ người
mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp nào mà đã biết rõ về chất lượng hàng,
mức giá cả, khả năng giao hàng của họ. Người bán cần nắm được điều này để đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng tăng hiệu quả kinh doanh.

3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng ngoại thương:
là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nươc khác nhau, theo đó
một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho một bên
khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hố, bên mua có
nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng.
 Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng TMQT, theo điều 81 của Luật Thương mại Việt Nam,
hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
-

Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý.


-

Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật.

-

Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định.Theo
điều 50 của Luật Thương mại Việt Nam, những điều khoản sau buộc phải có trong hợp
đồng bao gồm: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh tốn,
địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngồi ra, các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung,
những điều khoản khác trong hợp đồng.

-

Hình thức của hợp đồng phải là văn bản.

-

Nội dung chủ yếu của một hợp đồng TMQT thường bao gồm những nội dung sau:


. Số hợp đồng
. Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng
. Tên và địa chỉ của các đương sự
. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng
. Cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng
. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng: điều khoản thương phẩm, điều khoản tài
chính, điều khoản vận tải, điều khoản pháp lý...

4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.

Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu- với
tư cách là một bên ký kết- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một cơng việc rất phức
tạp. Nó địi hỏi phải tn thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi
quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau:

4.1:Kiểm tra L/C.
Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương quy định sử dụng phương
thức tín dụng chứng từ thì bước đầu tiên đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần phải làm đó là đơn
đốc người nhập khẩu ở nước ngồi mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định.
Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung và điều kiện ghi
trong hợp đồng, nếu phù hợp người xuất khẩu mới tiến hành làm những cơng việc thực hiện
hợp đồng cịn chưa phù hợp phải yêu cầu bên nhập khẩu sửa đổi bổ sung bằng văn bản.

4.2: Xin giấy phép xuất khẩu.
Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu
trong q trình xuất khẩu hàng hố. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng xuất khẩu và xuất
khẩu những mặt hàng nhà nước không hạn chế.
 Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng luật pháp, hàng hố là đối
tượng quản lý có 3 mức:




Những danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu:
Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu do Thủ tướng Chính

phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trong trường hợp đặc biệt,
việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu phải

được Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể.
 Hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại:
Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cụ thể hoá danh mục
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại theo mã số của danh mục
biểu thuết xuất, biểu thuế nhập khẩu (nếu có). Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại, bao gồm cả lộ trình bãi bỏ loại giấy phép này,
do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Việc
ký hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này chỉ được thực hiện sau khi
đã có giấy phép của Bộ Thương mại.
 Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành:
Việc điều chỉnh bổ sung danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý
chuyên ngành và nguyên tắc áp dụng do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị
của Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành và Bộ trưởng Bộ Thương mại, các bộ ngành
quản lý chuyên ngành hướng dẫn thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh
mục này.
 Thủ tục cấp giấy phép:
Khi đối tượng hợp đồng trong phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập khẩu, doanh nghiệp
phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm:
 Bản sao hợp đồng xuất/nhập
 Phải có bản giải trình với mặt hàng cấm xuất/nhập
 Đơn xin cấp giấy phép
Đối với hàng hố xuất nhập khẩu có điều kiện ngồi bản sao giấy tờ, đơn xin phép phải
có bản sao hạn ngạch. Sau khi hoàn tất thủ tục gửi đến cơ quan cấp giấy phép (Bộ Thương
mại), sau đó Bộ Thương mại gửi hồ sơ đến các bộ quản lý chuyên ngành.
 Thời gian cấp giấy phép:
 Riêng mặt hàng cấm xuất/nhập thì khơng quy định thời gian


 Với mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện thì giao cho nhân viên quản lý thụ lý hồ
sơ, sau 3 ngày phải trả lời với những hồ sơ xin phép cần bổ sung, cần sửa đổi hoặc những

hồ sơ không cấp giấy phép
 Đối với những hồ sơ hợp lệ cấp giấy phép sau 7 ngày.

4.3: Chuẩn bị hàng xuất khẩu.
Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn
bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài
và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh tốn bằng L/C).
Cơng việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: thu gom tập trung làm
thành lơ hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu.
 Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu:
Việc mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn. Trong khi đó sản
xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản, là một nền sản xuất manh mún, phân tán; nguồn
hàng để xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ cấp (nguyên vật liệu qua sơ chế, hàng bán thành phẩm),
hàng thủ công mĩ nghệ, hàng nơng lâm, thổ, thuỷ sản. Vì vậy trong rất nhiều trường hợp
muốn làm thành lô hàng xuât khẩu chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành thu gom tập trung từ
các cơ sở sản xuất nhỏ, từ trong nhân dân, từ các cơ sở thương mại... (gọi tắt là các chân
hàng). Cơ sở để thực hiện thu gom hàng xuất khẩu là hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu với các chân hàng. Những loại hợp đồng kinh tế thường được sử dụng
để huy động hàng xuất khẩu có thể là: hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu, hợp đồng gia công,
hợp đồng đổi hàng, hợp đồng uỷ thác thu mua hàng xuất khẩu, hợp đồng liên doanh liên kết
xuất khẩu...
 Bao bì đóng gói hàng xuất khẩu:
Trong bn bán quốc tế, tuy khơng ít mặt hàng để trần hoặc để rời, nhưng đại bộ phận
hàng hoá địi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong qúa trình vận chuyển và bảo quản. Tổ
chức đóng gói, bao bì là khâu quan trọng của việc chuẩn bị hàng hố bởi những tác dụng to
lớn sau:
 Bao bì đóng gói bảo đảm được phẩm chất hàng hố trong quá trình vận chuyển, tránh
được rủi ro mất mát.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho bốc xếp, di chuyển, vận chuyển và giao nhận hàng hoá.



 Tạo điều kiện cho việc nhận biết phân loại hàng hoá.
 Gây ấn tượng và làm cho người mua thích thú hàng hố.
Trong kinh doanh TMQT người ta thường dùng các loại bao bì như: hịm, bao, kiện hay
bì, thùng... đây là bao bì bên ngồi, ngồi ra cịn có loại bao bì bên trong và bao bì trực tiếp.
Nói chung tuỳ thuộc đặc điểm và tính chất của hàng hố cần bao gói, vào những điều đã thoả
thuận trong hợp đồng mà lựa chọn loại bao bì thích hợp. Ngoài ra cần phải xét đến những
nhân tố: điều kiện khí hậu mơi trường, điều kiện vận tải, bốc xếp hàng, điều kiện luật pháp
thuế quan, chi phí vận chuyển.
 Kẻ kýmã hiệu hàng xuất khẩu:
Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các
bao bì bên ngồi nhằm thơng báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ và bảo
quản hàng hoá.

4.4: Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng xuất khẩu).
Một nguyên tắc cơ bản trong mọi khâu, mọi công việc đều cần có kiểm tra, kiểm
nghiệm để có thể hạn chế và loại trừ những lỗi sai trong quá trình thực hiện.
Trong kinh doanh xuất khẩu cũng vậy, trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ
phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì... (tức kiểm nghiệm) hoặc nếu
hàng hố xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan bệnh tật (tức là
kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật).
Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu.
Trong đó việc kiểm tra ở cơ sở do phịng KCS tiến hành có vai trị quyết định và có tác dụng
triệt để nhất. Cịn việc kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở
và thực hiện thủ tục quốc tế.

4.5: Thuê tàu, lưu cước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, việc thuê tàu chở hàng được tiến
hành dựa vào 3 căn cứ sau đây: những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc
điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Tàu biển được sử dụng để chun chở hàng hố có

thể là tàu chợ, tàu chuyến hoặc tàu định hạn. Việc thuê tàu, lưu cước địi hỏi có kinh nghiệm
nghiệp vụ, có thơng tin về tình hình thị trường th tàu và tinh thơng các điều kiện thuê tàu.


Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu
cước cho một cơng ty hàng hải có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn hơn.
Trong buôn bán quốc tế, phương thức chuyên chở hàng hoá bằng đường biển là phương
thức vận tải được sử dụng nhiều nhất, chiếm đến 80% khối lượng vận chuyển trong chuyên
chở quốc tế. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng một số phương thức khác như: vận tải đường
bộ, vận tải đường sắt, vận tải đường sơng, vận tải hàng khơng. Ngồi ra cịn cịn có hình thức
vận tải đường ống, vận tải đa phương thức.

4.6: Mua bảo hiểm.
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng
hố đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương.
Hợp đồng bảo hiểm có hai loại: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến.
Hợp đồng bảo hiểm bao: đơn vị mua bảo hiểm ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi
giao hang xuống tàu xong, chủ hàng chỉ gửi đến công ty bảo hiểm (Bảo Việt) một thông báo
bằng văn bản gọi là “giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Hình thức hợp đồng bảo hiểm này
thường áp dụng đối với các tổ chức buôn bán ngoại thương hoặc doanh nghiệp buôn bán hàng
xuất khẩu thường xuyên nhiều lần trong một năm.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến: khi mua bảo hiểm chuyến chủ hàng gửi đến công ty bảo
hiểm một văn bản gọi là “giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này, chủ hàng và
công ty bảo hiểm đàm phán ký hợp đồng bảo hiểm. Hình thức này thường áp dụng với các
đợt mua bán riêng lẻ.
Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm, có 3 điều kiện
bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng
(điều kiện B), bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C). Ngồi ra, cịn có một số
điều kiện bảo hiểm đặc biệt khác như bảo hiểm chiến tranh, đình cơng, bạo động.


4.7: Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm
thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của
nhà nước, để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ sai sót giả mạo,


×