Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn hay về: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ ở xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.91 KB, 103 trang )

LUẬN VĂN:

Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân chủ ở xã


Mở đầu

1. Lý do lựa chọn đề tài
Tại Việt Nam, nghiên cứu về dân chủ ở các làng xã có vị trí đặc biệt quan trọng.
ơng Vũ Đình Hịe, trong Hồi Ký Thanh Nghị đã nhận định: "Muốn tìm hiểu lịch sử hình
thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất
nước Việt Nam thì cũng phải bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì
khơng có làng xã Việt Nam thì khơng có quốc gia Việt Nam" [43, tr. 318].
Dân chủ là đề tài cũ nhưng luôn mới. Cũ vì sự thật dân chủ có những tiền đề từ
thời cổ đại được phát triển với rất nhiều tư tưởng, luận thuyết khác nhau, nhưng đến
hơm nay nó vẫn mới mẻ, vẫn là vấn đề mang tính thời sự, vẫn mở ra rất nhiều cơ hội
tiếp tục tìm tịi, khám phá tìm ra hướng phát triển cho mỗi nhà nước, mỗi cộng đồng.
Dân chủ ở xã đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Dân chủ ở xã nếu được phát huy
nghiêm túc, đúng hướng sẽ thực sự là địn bẩy quan trọng, là chiếc chìa khóa mở ra tạo
sự chuyển biến quan trọng trên nhiều phương diện với đất nước có hơn 80% dân cư làm
nơng nghiệp như Việt Nam. Dân chủ hóa cũng chính là để phát huy các tiềm năng, tài
năng của con người; các năng lực xã hội, và cũng chính là phát huy nội lực của dân
tộc.
Sở dĩ tác giả lựa chọn vấn đề dân chủ ở xã mà không phải dân chủ ở cấp xã (bao
gồm xã - phường - thị trấn) vì phường và thị trấn có những đặc điểm riêng khác so với
cơ sở xã. Phường và thị trấn ít bị các quan hệ dịng tộc, làng xóm tác động, và có trình
độ văn hóa cao hơn ở xã. Xã là nơi tập trung chủ yếu của cư dân nông thôn, với địa bàn
rộng lớn, chiếm khoảng 80% dân số, 70% lao động xã hội, và chiếm tới 85% trong tổng
số các đơn vị hành chính cấp cơ sở: có đặc điểm chung là nơi vẫn còn chịu ảnh hưởng
nặng nề tàn tích của chế độ phong kiến, nhưng cũng lưu giữ được nhiều truyền thống tốt


đẹp có thể kế thừa trong quá trình mở rộng dân chủ hiện nay.
Tiếp xúc với cán bộ, nhân dân ở một số xã trên địa bàn các tỉnh phía Bắc, tác
giả có cơ hội được trao đổi trực tiếp và cảm nhận nhiều sự đổi thay cũng như những ý
nghĩa tích cực trên nhiều phương diện mà việc thực hành pháp luật về dân chủ ở xã


trong thời gian qua đã đem lại, đặc biệt thú vị là tác giả đã tận mắt thấy được những
cách làm sáng tạo của một số cán bộ xã năng động; thấy được sự hăng say đóng góp
cơng sức, đóng góp ý kiến, thấy sự đổi mới tư duy của nhiều người dân ở các xã mà tác
giả có điều kiện tiếp cận. Dân chủ đã về làng và đang đi vào đời sống của làng, chuyện
dân chủ đã dần thành chuyện hàng ngày, gần gũi, thân thiết, bổ ích như chuyện cơm ăn,
nước uống, như khơng khí để thở. Qua quan sát, tác giả cũng thấy được hiện còn rất
nhiều qui định pháp luật về dân chủ ở xã chưa sát với thực tiễn cần hoàn thiện, bổ sung;
nhiều vấn đề đang cần một cách nhìn liên ngành, tồn diện để giải quyết. Chính điều này
khiến tác giả quyết định lựa chọn đề tài: " Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dõn
chủ ở xó" để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về dân chủ, qui chế dân chủ ở cơ sở đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới góc
độ quản lý nhà nước như: Cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hệ thống
chính trị ở nước ta (đề tài cấp nhà nước KX.05.05 do PGS.TS Hoàng Chí Bảo làm chủ trì
đề tài). Sách chun khảo của các tác giả TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông: Thực
hiện qui chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003; Cuốn: Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ
ở cơ sở hiện nay do TSKH. Phan Xuân Sơn (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003.
Khai thác dưới góc độ lịch sử, tâm lý học, văn hóa học có nhiều cơng trình liên
quan mật thiết đến vấn đề dân chủ ở xã như: Phan Đại Doãn: Mấy vấn đề văn hóa làng
xã Việt Nam trong lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Phan Ngọc:
Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1998; Vũ Minh
Giang: Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 3/1993; Đỗ Long - Phan Thị Mai Hương (chủ biên): Tính
cộng đồng, tính cá nhân và "cái tơi" của người Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Tâm lý xã hội
trong q trình thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004....


Khai thác dưới góc độ luật học liên quan đến đề tài có một số bài viết như: Bàn
về cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương của tác giả Nguyễn Đăng Dung, đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2003; Bài viết: Dân chủ và pháp luật của PGS.TS
Hồng Thị Kim Quế đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7(136), 2003; Bài viết:
Dân chủ làng xã: truyền thống và hiện tại của tác giả Nguyễn Việt Hương, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 8 (196)/2004...
Các tài liệu tham khảo nước ngoài nghiên cứu về dân chủ khá nhiều nổi bật như
cuốn A preface to Democratic Theory, của tác giả Robert A.Dahl. The University of
Chicago Press, Chicago 60637, 1956; cuốn Democracy: the unfinished journey, 508B.C
to 1993 A.D, của Đại học Oxford, Hoa Kỳ 1992... Những tác phẩm đã được dịch sang
tiếng Việt như: Phát triển là quyền tự do của tác giả Amartya Sen (người đạt giải
thưởng Nobel về kinh tế học), CIEM (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương) và
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2002; Alvin Toffler, Làn sóng thứ ba (The third wave),
Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2002. …
Tuy nhiên, chưa có bất kỳ cơng trình nào nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về dân chủ ở xã" nói trên.
3. Mục đích đề tài và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về việc thực hiện dân chủ ở xã dưới cách tiếp cận liên ngành, nhưng chủ yếu dưới
góc độ pháp lý. Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn đối với đơn vị hành chính xã
(khơng mở rộng đến các đơn vị tương đương như phường, thị trấn).
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề dân chủ và dân chủ ở xã;

- Nghiên cứu, xác định đặc trưng căn bản của dân chủ ở xã;
- Đánh giá thực trạng dân chủ ở xã;
- Một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác thực hiện dân chủ ở xã.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài


Đề tài luận văn được tác giả nghiên cứu chủ yếu ở cách tiếp cận liên ngành, dựa
trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về vấn đề dân chủ ở
cơ sở. Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đề tài cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp
thống kê; phương pháp điều tra, khảo sát và phỏng vấn trực tiếp.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về dân chủ và dân chủ ở xã.
Chương 2: Thực trạng dân chủ ở xã.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở xã.


Chương 1
Những vấn đề cơ bản
về dân chủ và dân chủ ở xã

1.1. Những vấn đề lý luận chung về Dân chủ
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ, do cách thức tiếp cận, mục đích
tiếp cận khác nhau. Dân chủ có thể hiểu dưới nhiều phương diện, nhiều góc độ: 1- Dân
chủ có thể là một dịng triết học - chính trị (dân chủ phản ánh các giá trị phổ quát như tự
do cá nhân, bình đẳng về điều kiện, thống nhất trong tính đa dạng); 2- dân chủ là một

chỉnh thể hiện thực thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ (nền dân
chủ); 3- dân chủ là một khái niệm chính trị - pháp lý (hình thức nhà nước); 4- dân chủ là
một hiện thực kinh tế (thị trường tự do); 5- dân chủ là một hiện thực xã hội (các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức xã hội, phong trào lao động và xã hội quốc tế); 6- dân chủ là
trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế (quyền tự quyết dân tộc, chủ quyền quốc gia…).
Căn cứ vào phạm vi có thể hiểu dân chủ ở nghĩa phổ quát: ở tầm quốc tế, ở mỗi khu
vực; mỗi quốc gia; từng cộng đồng dân cư; và ở sự cảm nhận về dân chủ của từng người
dân.
Lý thuyết về dân chủ đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử
nhân loại. Thực tiễn của dân chủ là kết quả của sự đấu tranh bền bỉ của các lực lượng
tiến bộ chống lại các thể lực phản động. Cội nguồn của khái niệm dân chủ bắt nguồn từ
xã hội Athen cổ đại, dân chủ theo gốc tiếng Hy Lạp là ''demokratia" nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân [85, tr. 86], nhân dân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
cuộc sống, bản thân và xã hội. Dân chủ cũng được hiểu là một trong những hình thức
chính quyền tun bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận
quyền tự do và bình đẳng của công dân [85, tr. 87].
Dân chủ sơ khai nhất xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại, dân chủ được quan niệm là sự
tham dự trực tiếp của các công dân vào hoạt động của nhà nước. Chính vì lý do đó mà
người ta nghĩ rằng dân chủ khơng thể áp dụng trên diện rộng. Tại đây, chỉ có những


cơng dân có tài sản và cơng dân tự do mới có quyền dự Đại hội, dân chủ khơng bao
gồm những người nơ lệ, hay dân ngụ cư thời đó khơng có quyền chính trị cũng như
quyền dân sự. Tất cả người bình dân đều được thảo luận và quyết nghị những vấn đề lớn
của nhà nước như: chiến tranh và hịa bình, giám sát các cơ quan nhà nước, cung cấp các
lương thực cho thành phố, bầu những chức vụ cao cấp của bộ máy nhà nước bằng
phương thức bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết duyệt những việc quan trọng nhất của tòa án.
Còn ở La Mã cổ đại, việc tham gia Đại hội nhân dân ở La Mã dựa trên sự phân
biệt tầng lớp. Tất cả những người đàn ơng cầm vũ khí đều được chia thành sáu tầng lớp,
tùy thuộc vào tài sản của họ. Trong Đại hội nhân dân, tức đại hội các centuries (comitia

centuriata), những công dân đều đứng theo biên chế nhà binh, thành từng đội, trong các
centuries của họ, mỗi centuries gồm một trăm người và là một đơn vị biểu quyết. Ăngghen chỉ ra rằng: những tầng lớp thứ nhất cung cấp 80 centuries; tầng lớp thứ hai: 22;
tầng lớp thứ ba: 20; tầng lớp thứ tư: 22; tầng lớp thứ năm: 30; tầng lớp thứ sáu cung cấp
1 centuries, để giữ thể diện [53, tr. 200].
Khái niệm nhân dân và dân chủ được hiểu là một thể chế do dân làm chủ chỉ
xuất hiện từ cách mạng tư sản. Abraham Lincoln tuyên bố dân chủ là một chính quyền
của dân, do dân và vì dân đối lập với chế độ độc tài. Dân chủ hiểu theo nghĩa là một chế
độ nhà nước là một phạm trù mang tính lịch sử. Lênin coi dân chủ là một hình thức
nhà nước. Dân chủ gắn liền với nhà nước, ra đời cùng với nhà nước và mất đi khi nhà
nước tự tiêu vong. Đặc trưng cơ bản của nhà nước là ở chỗ nó là một quyền lực công
cộng tách rời khỏi nhân dân. Cho nên khi cịn tồn tại nhà nước thì khơng thể tồn tại một
nền dân chủ trưc tiếp thuần túy. Dân chủ trực tiếp ở Hy Lạp và La Mã chỉ mang tính
hình thức. Nếu đó là một nền dân chủ trực tiếp thực sự thì Aten và La Mã khơng phải là
những nhà nước. Nếu tồn thể dân chúng đều có thể trực tiếp tham gia quyết định các cơng
việc của xã hội thì khơng cịn khái niệm dân chủ nữa, và cũng khơng có nhà nước nữa, mà
chỉ có sự tự quản của nhân dân. Đó chỉ có thể là xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương
lai theo sự phát triển tất yếu của xã hội loài người.
Như vậy, có thể thấy rằng dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu
tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Trong lịch sử của Hy
Lạp cổ đại, hình thức quyền lực công cộng đầu tiên của các quốc gia - đô thị được sử


sách ghi lại chính là nhà nước. Xét về phương thức tổ chức quyền lực, thì rõ ràng để có
dân chủ thì nhân dân phải là chủ thể của quyền lực, do đó người ta có thể đề cập đến
nhà nước mà khơng có dân chủ, nhưng khơng thể đề cập đến dân chủ mà khơng có
nhà nước.
Dân chủ cũng không thể không đặt trong mối liên hệ với pháp luật. Chính pháp
luật là điều kiện, là đảm bảo để có dân chủ. Những biểu hiện xa lạ với dân chủ có nguy
cơ phá vỡ, làm biến dạng tập trung không phải là dân chủ mà là tự do vô chính phủ, tính
phân tán, tản mạn, cục bộ, vơ kỷ luật, tính tự phát, coi thường pháp luật, kỷ cương... Và

cũng vậy những biểu hiện xa lạ với dân chủ, dẫn tới vi phạm và triệt tiêu dân chủ không
phải là tập trung mà là tình trạng quan liêu, chuyên chế, độc tài, tính áp đặt mệnh lệnh,
bao hàm cả thói tùy tiện, hỗn loạn, vơ chính phủ [67, tr. 55].
Tại sao cho tới tận thế kỷ XVII - XVIII, nhiều tên tuổi nổi tiếng như
Montesquieu hay Rousseau vẫn coi chính thể dân chủ là một thể chế chính trị hạn chế,
khơng thích dụng với các quốc gia lớn, bởi tính trực tiếp của nó. Montesquieu cho rằng:
"ưu thế lớn của các đại biểu là họ có thể bàn cãi về mọi cơng việc. Dân chúng thì khơng
thể làm như thế được. Đây làm một trong những điều bất tiện lớn nhất của dân chủ"
[98, tr. 103-104]. Rousseau cũng nhận thấy rằng, dân chủ bị hạn chế bởi tính trực tiếp.
Trong cuốn Bàn về khế ước xã hội, Rousseau cũng cho rằng không phải ý kiến của số
đông là sáng suốt: "Cơ quan quyền lực tối cao có thể phó thác việc quản lý chính phủ
cho tồn dân hoặc cho đại bộ phận dân chúng; như vậy sẽ có nhiều công dân - pháp
quan hơn là số công dân thường" [70, tr. 101].
Về mặt phạm vi, dân chủ rất toàn diện bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, từ
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa con người với con
người; đến quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng; giữa công dân với nhà nước, các tổ chức
và thể chế hiện hành. Tác động trực tiếp nhất đến dân chủ là dân chủ kinh tế và dân chủ
chính trị. Cốt lõi của dân chủ kinh tế là lợi ích; cốt lõi nhất của dân chủ chính trị là
quyền lực thuộc về nhân dân, được thực hiện thông qua chế độ bầu cử dân chủ, chế độ
kiểm soát quyền lực nhà nước sau khi được thiết lập một cách dân chủ, và chế độ bãi
miễn nghiêm khắc đối với những nhân viên nhà nước thối hóa, biến chất. Dân chủ
trong lĩnh vực ý thức - tư tưởng đòi hỏi sự giải phóng tiềm năng sáng tạo của tư duy con


người và tự do tư tưởng. Dân chủ còn biểu hiện ở mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng và xã hội trong sự thống nhất hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích với trách
nhiệm.
Dân chủ, tự do, cơng bằng, bình đẳng… là những khái niệm có sự tương đồng
mà nếu phân biệt rạch rịi thì sự phân biệt đó chỉ có ý nghĩa tương đối. Dân chủ, tự do
luôn thể hiện khuynh hướng muốn vượt ra mọi ràng buộc, luôn là khát vọng, mong ước

của con người bất luận con người đó là ai, làm gì, ở đâu. Biểu hiện của dân chủ ngày
nay rất đa dạng, dân chủ có thể được hiểu là hình thức nhà nước (dạng tổ chức quyền
lực nhà nước) thể hiện mối quan hệ giữa cộng đồng dân cư và nhà nước; hình thức hoạt
động của mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội; là hình thức cụ thể trong các lĩnh vực
của xã hội công dân; là tự do cá nhân - một giá trị mang tính phổ biến trong cuộc sống
đời thường.
1.1.2. Xu hướng vận động, phát triển của dân chủ thế kỷ XXI
Trước khi tìm hiểu về dân chủ ở Việt Nam và dân chủ ở làng xã, chúng tơi cho
rằng, việc nhìn nhận đánh giá xu hướng vận động của vấn đề dân chủ trên thế giới là vơ
cùng quan trọng, chính điều này sẽ giúp cho những kiến giải của luận văn có cái nhìn
tổng quan và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Qua tìm hiểu, chúng tơi thấy
rằng vấn đề dân chủ hiện nay đang diễn ra rất phức tạp, nhiều quan điểm và nhiều luận
thuyết khác nhau, nhưng cơ bản đều thừa nhận những đặc điểm sau như những xu
hướng vận động cơ bản của dân chủ thế kỷ XXI:
1.2.1.1. Thừa nhận và tơn trọng lợi ích của thiểu số nhằm đạt được lợi ích đa
phương
Theo dự đốn của nhiều nhà khoa học nước ngồi thì tới đây (trong suốt thế kỷ
thứ XXI) nhân loại sẽ nếm trải những biến đổi mạnh mẽ của làn sóng thứ ba (cuộc cách
mạng công nghệ thông tin và sự xuất hiện nền kinh tế tri thức) và làn sóng ấy sẽ làm
biến đổi căn bản các thể chế chính trị quốc gia và quốc tế theo chiều hướng dân chủ phổ
biến và trực tiếp. Khi nói về dân chủ thế kỷ XXI, Alvin Toffler - nhà tương lai học được
đánh giá cao nhất trong những năm gần đây đã khẳng định rằng:


Làn sóng chính trị sẽ khơng dừng lại ở cấp quốc gia. Trong những
thập kỷ sắp đến, toàn bộ "bộ máy luật pháp toàn cầu" từ Liên hợp quốc đến
Hội đồng thành phố, sẽ đối mặt với sự đòi hỏi không chống lại được về việc
phải cấu trúc lại; mà ngun tắc đầu tiên của chính phủ làn sóng thứ ba là
quyền lực thiểu số. Không phải đa số mà là thiểu số được quan tâm đến…
[2, tr.314].

Dân chủ ở cơ sở cũng không thể đi ngược lại với nguyên lý chung là tôn trọng sự
cạnh tranh lành mạnh, và tính đa dạng của các nhóm thiểu số. Tác giả Robert A. Dahl
trong cuốn sách nổi tiếng về dân chủ "A preface to democratic theory" (khái quát về lý
thuyết dân chủ) đã khẳng định một nguyên lý:
Nền dân chủ thực chất nhất chính là nền dân chủ xuất phát từ sự bình
đẳng, sự bình đẳng mà pháp luật ở quốc gia nào cũng hướng tới. Đó là sự tơn
trọng tính đa dạng của các nhóm lợi ích, nhiệm vụ của dân chủ khơng phải là
đè bẹp ý chí của những thiểu số đó mà là tìm ra trong số những nhóm lợi ích
đó tiếng nói chung [100, tr. 34].
Alvin Toffler lập luận rằng, các nhà cai trị làn sóng thứ hai (làn sóng văn minh
cơng nghiệp) ln ln tự cho là phát ngơn nhân danh đa số, vì tính hợp pháp của họ
phụ thuộc vào nó, ơng cũng thừa nhận rằng trong suốt kỷ nguyên nền văn minh làn sóng
thứ hai, cuộc chiến đấu cho nguyên tắc đa số đã có ý nghĩa nhân đạo và giải phóng.
Ngày nay, khi xuất hiện làn sóng thứ ba, người nghèo khơng cịn chiếm đa số và họ trở
thành thiểu số, do đó ngun tắc đa số khơng cịn là một ngun tắc hợp lý nữa, nó
cũng khơng cịn nhân đạo hoặc dân chủ nữa; vấn đề cần hoàn thiện là phải hiện đại
hóa tồn bộ hệ thống để tăng cường vai trị của các nhóm thiểu số khác nhau nhằm cho
phép họ tạo thành đa số [2, tr. 339]. Tác giả luận văn cho rằng, Alvin Toffler lập luận
như vậy là có căn cứ vì thế kỷ XX trở về trước dường như ngun tắc đa số ln ngự trị
và nó ln có nghĩa là sự thay đổi tốt hơn cho người nghèo, nhưng suy nghĩ lại sẽ thấy
dân chủ đa số thực chất là dân chủ ở cấp độ thấp, là mức độ phát triển thuần túy và sơ
khai về dân chủ. Nguyên tắc 51% rõ ràng là một công cụ đơn thuần về lượng, cái gì
để đảm bảo cho chất lượng quan điểm của một người.


Chúng tôi cho rằng, dân chủ trong thế kỷ XXI phải là dân chủ thực chất. Dân
chủ chẳng những chấp nhận sự khác biệt, mà còn lấy sự khác biệt, tính đa dạng trong
nhân cách để làm nền tảng cho phát triển. Mọi sự khác biệt đều có quyền tồn tại và bởi
vậy mà thế giới mới đa dạng, phong phú và nhiều màu sắc. Thế nên những khác biệt là
bình đẳng với nhau và dân chủ như mơi trường nuôi dưỡng và bảo tồn các bộ phận thiểu

số trong xã hội, là sự khoan dung và chấp nhận lẫn nhau giữa chủ quyền của thiểu số và
đa số. Các đặc trưng sắc tộc, các luật tục địa phương, các cộng đồng thiểu số, các nền
văn hóa độc đáo khơng lặp lại, các thổ ngữ, văn tự v.v… đều là những giá trị cần được
dân chủ tôn trọng và bảo tồn bằng những đặc lệ.
Hơn nữa, cần phải thấy được rằng, bản chất của dân chủ là chấp nhận sự đa
dạng hợp lý, dân chủ không xua đuổi, không áp đặt các ý kiến, dân chủ thu nhận tất cả
những khác biệt ấy, để làm gì? Để dung hợp hoặc tìm ra tiếng nói chung, hoặc đi tới
giải pháp tối ưu nhất nhằm đem lại lợi ích đa phương. Tính linh hoạt của dân chủ
trong việc tìm lợi ích đa phương đó sẽ là giải pháp tối ưu, và là thách thức lớn đối với
việc thực hành dân chủ.
Khả năng tự hồn thiện và tiến bộ khơng ngừng của nền dân chủ chính là nhờ sự
chấp nhận tính đa dạng của các ý kiến, nó sử dụng tính đa dạng ấy như cơ chế phản
biện. Chính vì vậy, năng lực tự phê phán, tự so sánh đối chiếu và luôn thay mới sẽ tự
làm mới vấn đề dân chủ, và có lẽ đó cũng là xu hướng của dân chủ trong thế kỷ XXI.
1.2.1.2. Phân công, phân cấp hợp lý
Yếu tố có tác động khơng nhỏ đến tính chất và mức độ dân chủ trong tương lai là sự
phân cấp, phân công hợp lý. Phân cấp hay phân công là việc giao quyền quyết định vào
đúng chỗ của nó. Một số vấn đề không thể giải quyết ở cấp địa phương, và ngược lại
cũng có những vấn đề khơng thể giải quyết ở cấp quốc gia và có cả những vấn đề đòi hỏi sự
hành động ở nhiều cấp đồng thời cùng một lúc.
Nếu mức độ phân cấp quá mức sẽ dẫn đến hiện tượng tản quyền, cát cứ. Alain
Touraine, một nhà xã hội học người Pháp trong cuốn "Phê phán tính hiện đại", đã nhận
xét: "Nếu đất nước bị chia nhỏ thành những tộc người xa lạ và đối địch với nhau, hay
đơn giản hơn, nếu những bất công lớn đến mức người dân khơng có ý thức về một lợi


ích chung, thì dân chủ sẽ khơng có nền tảng" [1, tr. 216]. Nhưng nếu quá ít quyền
quyết định dành cho cấp dưới là một sự nguy hại; nhu cầu cần thiết là phải có sự phân
cấp lại cho hợp lý quyền quyết định nếu một hệ thống quá nặng nề về tập quyền.
1.2.1.3. Dân chủ bán trực tiếp

Nhược điểm cố hữu của dân chủ trực tiếp là ở phản ứng tình cảm, nhất thời và
phụ thuộc nhiều vào vấn đề thơng tin. Thiếu thơng tin, nóng vội, thiếu suy nghĩ khi
quyết định trực tiếp, đó cũng là sự nguy hiểm. Nhưng dân chủ trực tiếp cũng có ưu điểm
của nó. Aritxtốt thừa nhận rằng: "Số đơng ít hủ bại hơn số ít, chẳng khác nào nhiều
nước thì độ bẩn sẽ ít hơn so với ít nước. Cá nhân dễ bị hãm trong sự nóng giận hay sự
cuồng nhiệt, do đó mà phán đốn của cá nhân dễ bị thiên lệch. Đối với số đơng, khó mà
nghĩ rằng, trong một lúc họ đều có thể cuồng nhiệt và sai lầm hết"[3, tr. 216]. Nhược
điểm của dân chủ gián tiếp ở chỗ khi khơng có sự thống nhất ý chí trong các cử tri ở khu
vực bầu cử, thì đại biểu được bầu lên sẽ đại diện cho ý chí của ai? Do vậy, sự nhất trí bị
phá vỡ thì cũng làm phá sản ln khái niệm đại diện.
Tính đại diện trong tương lai cũng cần được xem lại. Đại biểu do dân bầu càng
ngày càng phải giải quyết nhiều công việc, và nhìn chung các đại biểu ngày càng hiểu
biết ít hơn về các việc mà họ phải quyết định. Khi năng lực của đại biểu dân cử kém, mà
lại bảo thủ, đóng kín, khi đó người dân đương nhiên sẽ ít cảm thấy được đại diện đầy
đủ. Người đại biểu muốn giải quyết được công việc buộc phải dựa vào sức mạnh, nguồn
lực từ bên ngồi. Hay nói cách khác, nếu muốn thực sự là đại diện cho dân, cho tiếng
nói của dân thì khơng cịn cách nào khác họ buộc phải dựa vào bộ máy giúp việc và
chuyên gia cố vấn (hình thức này mới là chủ đạo trong tương lai). Như vậy, dân chủ
về mặt hình thức là gián tiếp nhưng hóa ra lại có cả những yếu tố trực tiếp, từ chỗ chỉ
cần người đại biểu đại diện cho nhân dân thuần túy tới việc người đại biểu phải chủ
động huy động sức mạnh, trí tuệ của nhân dân, tranh thủ sự tự vấn của các nhóm chuyên
gia để đại diện cho dân. Dân chủ bán trực tiếp là dân chủ khơng khép kín, nó sẽ bao
gồm những thiết chế để đảm bảo sự giám sát có hiệu quả, lâu dài từ phía thiểu số.
1.2.1.4. Pháp luật - công cụ, phạm vi, đảm bảo của dân chủ


Muốn có dân chủ thực sự thì dân chủ phải đặt trong mối liên hệ với pháp luật.
Pháp luật là đại lượng và phương tiện của dân chủ. Nhưng pháp luật cũng có tính độc
lập tương đối đối với dân chủ: pháp luật không sinh ra dân chủ bởi dân chủ không tự
trên trời rơi xuống mà là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động, là kết quả của

quá trình nhận thức, là tất yếu của tiến bộ xã hội.
Ngoài sự quyết định và chi phối của các nhân tố kinh tế và phi kinh tế, sự phát
triển của pháp luật nhìn chung phụ thuộc vào trình độ nền dân chủ hiện thời hoặc ảnh
hưởng từ bên ngoài của các nền dân chủ khác. Đến lượt mình, dân chủ lại phụ thuộc vào
các điều kiện khách quan về kinh tế - chính trị - xã hội. Pháp luật với ưu thế và nhược
thế riêng của mình lại tác động trở lại đối với dân chủ. Pháp luật có thể thúc đẩy, hỗ trợ
cho dân chủ phát triển và ngược lại, có thể kìm hãm dân chủ dưới nhiều hình thức.
Muốn cho pháp luật thực sự là động lực cho dân chủ thì pháp luật phải gần dân,
pháp luật phải được minh bạch hóa, phải được góp ý, tranh luận thẳng thắn công khai để
pháp luật tự hồn thiện. Một qui định pháp luật khơng rõ ràng, không minh bạch, không
đúng đắn sẽ là cơ hội cho người ta vi phạm, lợi dụng dân chủ. Nếu pháp luật xây dựng
trên nền tảng khép kín, chủ quan, khi thực hiện thì bưng bít, khơng minh bạch vơ hình
chung nó sẽ trở thành cơng cụ của thiểu số áp đặt lên đa số. Về luận điểm này chúng tôi
rất tán đồng với ý kiến của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa trong bài Tính minh bạch của
pháp luật, một thuộc tính của nhà nước pháp quyền: "Minh bạch hóa sẽ góp phần ngăn
chặn được nguy cơ pháp luật trở thành công cụ phục vụ lợi ích của một nhóm người
thiểu số" [58].
1.2. Dân chủ trong lịch sử Việt Nam và vấn đề dân chủ ở xã hiện nay
1.2.1. Khái quát những đặc trưng cơ bản của dân chủ trong lịch sử Việt
Nam
1.2.1.1. Từ xưa nước ta đã là một quốc gia dân chủ
Có nhiều quan điểm hồi nghi hoặc phủ nhận hoàn toàn về sự xuất hiện và tồn
tại một truyền thống dân chủ có từ thời phong kiến trong điều kiện của một chế độ quân
chủ chuyên chế ở Việt Nam [45, tr.18-28]. Trong khi đó lại có nhiều quan điểm khẳng


định rằng nước ta từ xưa đã có một truyền thống dân chủ, coi như một trong những
truyền thống ưu việt của nhân dân được tạo nên trong quá trình dựng nước và giữ nước,
và là một cơ sở thuận lợi để xây dựng chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa hiện nay. Vậy sự thực là gì, trong truyền thống lịch sử ở nước ta đã thực

sự có dân chủ chưa? Và nếu có thì tồn tại ở dạng thức nào, đặc tính, cũng như mức độ
thể hiện của nó ra sao để trên cơ sở đó ta có thể rút ra những bài học trong việc xây
dựng nền dân chủ hiện nay.
Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, năm 1010 Lý Công Uẩn rời đô về Thăng Long,
nhà Lý đã chủ trương xây dựng một mơ hình chính quyền thân dân, phát huy sức mạnh
của nhân dân, sử dụng kế sách: "Ngự binh ư nông", nhà nước không xây dựng lực lượng
quân đội thường trực mà xây dựng một lực lượng dân đinh. Bản chất của kế sách "ngự
binh ư nông" chính là sự vận dụng khéo léo quan điểm "tĩnh vi nông, động vi binh", khi
mà chiến tranh xảy ra có thể huy động được mọi người cùng tham gia qn đội. Điểm
tích cực ở kế sách này đó là xây dựng được lực lượng quốc phòng đủ mạnh, nhưng
ngược lại nhà nước lại không tốn kém nhiều tiền, đồng thời vẫn phát huy được sức
mạnh của nhân dân. ý thức tôn dân được khẳng định rõ trong Chiếu dời đơ của Lý Cơng
Uẩn: "Muốn mưu việc lớn, tính kế mn đời cho con cháu thì trên phải vâng mệnh trời,
dưới theo ý dân"; ngay cả việc nhà Lý đặt Lầu Chng trong thành Thăng Long để "dân
chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chng lên" cũng là một biểu hiện rất rõ ý
thức dân chủ.
Thời kỳ từ 1225 - 1400 là giai đoạn cai trị của nhà Trần: Nhà Trần vẫn tiếp tục
dựa vào mơ hình nhà nước thân dân, thậm chí đạt đến độ hồn thiện. Thời kỳ này nổi
lên mơ hình coi già làng là người có vai trị lớn trong những quyết sách quan trọng của
quốc gia. Dưới thời Trần có hai sự tích khiến khơng chỉ những người nghiên cứu lịch sử
trong và ngồi nước phải ngạc nhiên đó là tích tha tội cho tiểu hiệu Hồng Cự Đà và tích
Hội nghị Diên Hồng.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in nội các quan Bản Mộc bản khắc năm
Chính Hịa thứ 18 (1697):


Vào năm 1257 (Đinh Tỵ), năm thứ 7 trị vì của Vua Trần Thái Tơng
có câu truyện: "Trước kia có lần vua Trần Thái Tơng ban xồi cho những
người hầu cận, đến lượt Cự Đà thì hết, Cự Đà khơng được ăn. Đến khi quân
Nguyên tới Đông Bộ Đầu, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ chạy trốn. Đến Hồng

Giang (khúc sơng Hồng ở phía trên Nam Định, khoảng ngã ba Tuần Vương)
gặp Hoàng Thái Tử đi thuyền ngược lên, Cự Đà lánh sang bờ sông bên kia,
thuyền chạy rất gấp. Quan quân gọi lớn: "Quân Nguyên ở đâu?". Cự Đà đã
trả lời: "Khơng biết, đi mà hỏi những người ăn xồi ấy". Thái tử lúc đó đã xin
vua cha khép Cự Đà vào cực hình để răn những kẻ làm tơi bất trung". Vua
Trần đã nói: "Cự Đà tội đáng chết cả họ, song xét thấy việc Cự Đà là lỗi ở ta,
tha cho hắn tội chết, cho phép hắn đánh giặc chuộc tội" [26, tr.174].
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in nội các quan Bản Mộc bản khắc năm
Chính Hịa thứ 18 (1697):
Vào năm 1282 (Nhâm Ngọ), năm thứ 6 trị vì của vua Trần Nhân
Tơng: "Tháng 12, Trần Phủ từ Nguyên trở về, tâu rằng vua Nguyên sai bọn
thái tử Trấn Nam Vương, Thốt Hoan, Bình Chương A Lạt và A Lý Hải Nha
đem quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp
nước ta. Vua Trần Nhân Tông đã triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện
Diên Hồng, ban yến tiệc và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói "đánh",
mn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng [26, tr.189].
Sở dĩ Nhà Trần thế kỷ XIII đã ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông
hung hãn, tất cả là ở việc nhà Trần biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, Trần Quốc
Tuấn đã coi "chúng chỉ thành thành" (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước) và
tổng kết nguyên nhân thắng lợi như một triết lý dân chủ "vua tơi đồng lịng, anh em hòa
thuận, nước nhà chung sức", đặc biệt khi Trần Hưng Đạo sắp qua đời được vua Trần hỏi
về kế giữ nước ơng đã nói rằng: "Thần nghĩ ta thắng giặc giữ là do trên dưới đồng
lịng...vì vậy, khoan thứ sức dân làm kế gốc rễ bền, ấy là thượng sách giữ nước" [75, tr.
80]. Có thể nói, tư tưởng dựa vào dân của Trần Quốc Tuấn là một minh chứng - một tư
tưởng đặc sắc về dân chủ trong lịch sử.


Đầu thế kỷ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược,
xây dựng lực lượng quân thường trực khá đơng, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền,
nhưng khơng đồn kết được tồn dân, lịng dân ly tán nên đã thất bại, cha con Hồ Quý

Ly đều bị giặc Minh bắt, lúc đó Hồ Nguyên Trừng đã chỉ rõ nguyên nhân của sự thất bại
chỉ thông qua một câu nói: "Tơi khơng sợ đánh, chỉ sợ lịng dân khơng theo mà thơi"[75,
tr. 235].
Dưới triều Lê, Nguyễn Trãi cũng ví dân như nước, nước có thể chở thuyền và
lật thuyền nên "phúc chu thủy tín dân do thủy" (thuyền bị lật mới biết sức dân như
nước). Đặc biệt ông đã nêu lên những tư tưởng sâu sắc về vai trị cũng như sức mạnh
của dân trong Bình Ngô đại cáo với tư tưởng an dân và trừ bạo ngược: "Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" [83, tr. 201]. Nguyên nhân thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được Nguyễn Trãi đúc kết: "Nêu hiệu gậy làm
cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng. Thết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một
bụng cha con". ơng ví dân như nước, các triều đại phong kiến như con thuyền; thuyền
nổi được là nhờ nước; khẳng định tư tưởng thái bình thịnh trị: "Cái gốc của nhạc là ở
nơi thôn cùng xóm vắng khơng có một tiếng hờn giận ốn sầu" [83, tr.202]; khẳng định
trách nhiệm của người cầm quyền: "Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải
theo phép cơng bằng... đổi bỏ thói tham ơ, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc
gia là công việc của mình; lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ" [83, tr. 199].
Thực tế là đất nước ta luôn luôn gặp thiên tai và ngoại xâm, làm cho người cầm
quyền trước đây đã ý thức được rõ ràng vai trị của người dân. Khơng chỉ Trần Quốc
Tuấn, Nguyễn Trãi nói về dân mà cả Gia Long, Minh Mệnh và Tự Đức nữa cũng khơng
ngớt nói về dân [92, tr. 26].
Cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong khi vua quan nhà
Nguyễn dâng đất và ký hiệp ước đầu hàng, thì những người dân ấp, dân lân đã anh dũng
đứng lên chống giặc, bảo vệ quê hương, đất nước. Tinh thần ấy được ca ngợi trong bài
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu. Sự nghiệp văn học của Nguyễn
Đình Chiểu vượt xa những người đương thời không phải nhờ học vấn khoa cử mà nhờ lịng
tin vơ hạn vào nhân dân lao động.


Trong cuốn Hợp tuyển văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 1930), của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 1972, Phan Châu Trinh đã khẳng định:
"Ai coi nước nhà như một món của riêng mình thì ví như bọn trộm cướp, cịn ai cậy

quyền mà áp chế nhân dân thì ví như qn phản nghịch"; còn Phan Bội Châu trong tác
phẩm "Hải ngoại huyết thư" nổi tiếng ơng đã thấy được vai trị to lớn của dân: "Sông xứ
Bắc, bể phương Đông. Nếu khơng dân cũng là khơng có gì.". Nói dân là chủ nhưng dân
là ai? Được hình dung trong tập hợp thế nào? Làm chủ cái gì và làm chủ như thế nào?
Vào thời điểm đó, cái được chú ý là chủ quyền quốc gia chứ chưa phải là dân quyền,
nhân quyền trong đời sống. Tư tưởng về dân chủ của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh là rất tiến bộ, song vào thời điểm lịch sử đó, cái được chú ý là chủ quyền quốc gia
chứ chưa phải là dân quyền, nhân quyền trong đời sống. Khi nói "Mn dân nơ lệ dưới
cường quyền" thì người dân trước hết cũng được đặt trong thực tế mất nước, với vua
quan chuyên chế và bọn cường quyền là quân xâm lược [20, tr. 104]. Để khẳng định
chân lý mới đó, các nhà Nho Duy Tân đã làm quen với những tư tưởng tự do, bình đẳng,
luật pháp, những vấn đề dân quyền của xã hội phương Tây.
Là người sáng lập và lãnh đạo của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ
thiên tài của cách mạng và nhân dân Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng dân chủ tiên tiến
khắp năm châu và đã phát triển lên những bước mới và thực hiện thành cơng ở Việt
Nam, ''có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của
nhân dân đưa cách mạng tiến lên'' [57, tr. 556]. Hồ Chí Minh khơng những thấy rõ vai
trò và sức mạnh quyết định của quần chúng nhân dân, mà tư tưởng của người đã vượt
lên trên tư tưởng của những nhà cách mạng đương thời, trở thành tư tưởng tiên tiến, giải
đáp được những vấn đề cấp bách của dân tộc, của xã hội Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam trong hoàn cảnh mới và thời đại mới.
Khi nghiên cứu các cuộc cách mạng tiêu biểu của thế giới, Hồ Chí Minh quan
tâm đầu tiên tới việc chính quyền nhà nước về tay ai, có thuộc về nhân dân lao động
khơng và điều quan tâm, trăn trở lớn nhất của Người là phải giành chính quyền về tay
nhân dân, xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ và đây là điểm cơ bản khác
biệt nhất của Nhà nước ta so với Nhà nước thực dân, Nhà nước phong kiến. Hồ Chí Minh
đã khẳng định rất rõ ràng: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.


Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc

là công việc của dân. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [67, tr. 476];
đồng thời, Người đã thấy tất cả sức mạnh của chính quyền nhà nước là ở nhân dân: '' Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng qua''. Đối với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, dân chủ bao gồm cả ba vấn đề: dân quyền, dân sinh và dân trí. Quan điểm dân
chủ của Người là quan điểm dân chủ thiết thực và cụ thể. Theo Người, dân chủ, thứ
nhất, là dân là chủ ''nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ''; ''chế
độ ta là chế độ dân chủ tức là nhân dân làm chủ''; thứ hai, dân chủ là toàn bộ quyền lực,
lợi ích đều thuộc về dân ''nước ta là một nước dân chủ". Mọi cơng việc đều vì lợi ích của
dân mà làm. Khắp nơi có đồn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Cơng
đồn, Hội Nơng dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc...Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân,
phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ''.
1.2.1.2. Đặc tính điều tiết ngược trong lịch sử
Lâu nay khi nói về nhà nước quân chủ trung ương tập quyền trong lịch sử phong
kiến nước ta nhiều cơng trình đã nhấn mạnh nhiều đến tính chất chuyên chế, độc tài của
các nhà nước đó, mà chưa đánh giá xứng đáng các yếu tố hay tính chất dân chủ hiện
diện ngay trong hình thức nhà nước quân chủ ấy, khiến việc đánh giá nhiều khi chưa
thực sự toàn diện. Lịch sử đã cho thấy, trong mọi quyết sách của nhà cầm quyền dù ở
bất cứ thời kỳ nào cũng đều phải xem xét đến lợi ích của nhân dân, sức mạnh của nhân
dân, mọi qui định được ban hành ra, nhà cầm quyền Việt Nam đều tập trung xem xét hai
vấn đề: Thứ nhất, khi ban hành người dân có chấp nhận khơng; thứ hai, nếu có chấp
nhận thì người dân có tự nguyện mà thực hiện khơng. Như vậy, dân chủ trong lịch sử ở
mức độ nhất định đã mạnh đến mức có khả năng tạo ra tạo ra sự đối trọng lại với quyết
sách của nhà cầm quyền. Điều này chúng tơi tạm cho đó là "sự điều tiết ngược" - vì đó
khơng phải là sự điều tiết một chiều từ trên xuống, việc ra quyết định thuần túy chỉ chú
ý đến lợi ích của người ban hành quyết định, mà còn cả người thực hiện các qui định đó.
Thứ nhất, trong mối quan hệ vua và dân: Mối quan hệ giữa vua và dân được coi
là tiêu điểm rõ nhất cho thấy tính chất điều tiết ngược, trong mọi quyết sách của nhà vua
khơng thể khơng tính đến mối quan hệ làng - nước, không thể không tính đến lợi ích của
nhân dân. Các vua Việt Nam ln đặt mình ở vị trí con trời, "thế thiên hành đạo" thay



trời để trị dân. Thực ra nói con trời nhưng vua lúc nào cũng lo sợ có ngày bị trời lấy
ngôi lại, nếu vua xử sự trái ý trời. Nhiều triều đại khi thấy dân đói, dân khổ, nhiều ơng
vua đã tự nhận trách nhiệm về mình. Quan niệm "Thiên nhân tương cảm", nhiều triều
đại phong kiến Việt Nam coi lòng dân là ý trời và rất quan tâm tới việc kết hợp lòng dân
với ý trời. Họ quan niệm lòng dân tức là ý trời được thể hiện ở các điềm lành (mưa
thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bệnh tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa...).
Người cầm quyền cai trị có đức, làm việc tốt, hợp lịng dân thì trời xuống điềm lành;
khơng có đức, ăn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân ốn thì trời xuống điềm dữ để răn
bảo. Thí dụ, trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần thời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách
của nhà Mạc khơng xuất phát từ lợi ích của nhân dân, gặp khi có bão lớn, ơng đã dâng
sớ lên vua Mạc và nói rằng:
Trời ra tai khơng phải vơ cớ, chính ở người mà ra. Tai biến về gió
bão là trời hiện điềm để răn bảo... Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng
sợ, coi nhân sự là cần phải sửa...thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra
ân dụ để tha những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt sai quan sở tại thăm nom
giúp đỡ ln. Có thế, ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng
người đã vui, tai trời sẽ hết...Xin bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân,
hậu đãi mà đừng làm khốn dân; giúp đỡ mà đừng làm hại dân...nhẹ bớt cho
dân những việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó [17, tr. 256257].
Đại thần Ngơ Trí Hịa đã cùng đại thần Lê Tri Bật vào năm 1618 làm tờ khai
dâng chúa Trịnh điều trần về chính sách trị dân của triều đình gồm 6 việc có lợi cho dân: "1.
Xin sửa đức chính để cầu mệnh trời giúp; 2. Xin đè nén kẻ quyền hào để nuôi sức dân; 3.
Xin cấm phu dịch phiền hà để đời sống của dân được đầy đủ; 4. Xin bớt xa xỉ để của dân
được thừa thãi; 5. Xin dẹp trộm cướp để dân được yên; 6. Xin sửa sang quân chính để bảo
vệ tính mạng cho dân" [17, tr. 271-272]. Nguồn gốc sâu xa của tư tưởng dân chủ đó một
phần là sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, thuyết "dân quý quân khinh",
thuyết "dân là nước, vua là thuyền" của Tuân Tử... đều là biểu hiện tập trung của tư
tưởng dân vi bản trong tư tưởng Nho gia thời Tiên Tần. Chủ nghĩa dân vi bản cho rằng,
an nguy quốc gia, chính trị có bình ổn hay động loạn được quyết định bởi lòng dân



thuận hay nghịch "trời sinh ra dân, không phải sinh ra ra vì vua; trời lập ra vua cũng là
vì dân" [12, tr. 501].
Thứ hai, khi luật pháp đã ban hành nhân dân có khả năng vơ hiệu hóa pháp
luật: Trong chiều sâu lịch sử, trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, làng trong lịch sử Việt
Nam là một đơn vị tụ cư, có khơng gian văn hóa, được sử dụng như một đơn vị hành
chính cơ sở mà nhà nước phải dựa vào. Trong số những dòng phát triển khác nhau của thời
kỳ Bắc thuộc ở nước ta (179 Trcn đến 905 Scn) có hai dịng đối nghịch ln luôn diễn ra
một cách quyết liệt trên đất nước ta, đó là Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, trong đó có
thể kể đến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền đơ hộ và luật pháp của
nhà Hán đó là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43); Bà Triệu (248); Lý Bí (542);
Đinh Kiến (687); Mai Hắc Đế (722); Phùng Hưng (791). Với một thời gian dài, sự xung
đột đó đã tạo ra một hiệu ứng nghịch đó là thái độ phản kháng lại nhà nước và pháp luật,
vì thái độ này lại được số đơng cộng đồng ủng hộ, trong một thời gian dài hình thành
nên thói quen, 1000 năm đủ tạo thành truyền thống chống lại chính quyền, chống lại nhà
nước và pháp luật vốn được xem là công cụ để nhà Hán đồng hóa người Việt. Bởi vậy,
trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao thể hiện thái độ phản kháng, đồng thời cũng là
sự tự tôn của người dân về vai trị của mình:
"Quan có cần nhưng dân khơng vội.
Quan có vội quan lội quan sang".
1.2.1.3. Dân chủ làng xã và tự trị làng xã trong lịch sử
Người Việt Nam dù sao đi nữa vẫn là thành viên của cộng đồng, không phải là cá
nhân độc lập, bị ràng buộc trong đủ quan hệ cha con, anh em, vợ chồng tức là hộ tiểu nông
chứ không phải cá nhân của quan hệ tư sản. Dân chủ ở đây có chăng chỉ là việc chủ
động làm tròn nghĩa vụ, đền đáp ơn nghĩa tổ tiên, là tình nghĩa đồng bào ruột thịt. Với
những người dân sống theo nghĩa đồng bào, cộng đồng xã hội hồn tồn khơng đứng
trên cơ sở thành lập theo khế ước, theo nguyên tắc tự nguyện, không cần dựa vào ai,
sịng phẳng, cơng bằng về nghĩa vụ và quyền lợi như các nước phương Tây.
Nhìn một cách rộng hơn một chút ta sẽ thấy, người Việt Nam dù sao đi nữa vẫn

là thành viên của cộng đồng công xã, không phải là cá nhân như trong quan hệ xã hội tư


sản. Nhận định chung về đặc tính dân chủ chúng tơi cho rằng đặc tính chung nhất của
dân chủ trong lịch sử đó là dân chủ cơng xã. Bởi lẽ, cơng xã chỉ thừa nhận quyền bình
đẳng và dân chủ của giữa các thành viên khi họ là thành viên công xã, là bộ phận tạo
thành của cộng đồng, nhưng hồn tồn khơng cơng nhận quyền của cá nhân, của con
người, với tư cách là một thực thể độc lập. Dân chủ trong lịch sử đã không dựa trên sự
giải phóng con người và tơn trọng quyền của con người, mà trói chặt con người trong
quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con người với tư cách là
thành viên cộng đồng; về mặt chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo
động chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bọn bạo chúa, tham quan, cường hào với ước
mơ một xã hội công bằng. "Được làm vua, thua làm giặc"; "Bao giờ dân nổi can qua,
con vua thất thế lại ra quét chùa"; "Thà rằng bạo động bất lương, còn hơn chết đói nằm
đường thối thây" [49, tr. 112] Với những người dân sống theo nghĩa đồng bào, cộng
đồng xã hội như vậy sự làm chủ ở đây có chăng chỉ là việc chủ động làm tròn nghĩa vụ,
đền đáp ơn nghĩa tổ tiên, là tình nghĩa đồng bào ruột thịt [20, tr. 107]. Trong kinh tế,
chính từ tính cộng đồng nên ai bỏ làng đi bị coi là biến chất, dẫn đến hệ quả là khơng
khuyến khích việc làm giàu, làng xã đã hình thành nên một vách ngăn vơ hình đã khiến
người dân q rất khó "mở mày mở mặt" với thiên hạ. Chính từ những cơ sở của lịch sử,
kinh tế và xã hội đã phân tích cho thấy yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam
chưa thực sự được quan tâm chú trọng. Dân chủ trong lịch sử Việt Nam chủ yếu tồn tại
ở hai dạng là dân chủ nông dân mà mục tiêu cao nhất của nó là hướng đến bình qn
chủ nghĩa, và dân chủ làng xã lấy quan hệ cộng đồng để trói buộc con người, từ đó dẫn
đến thủ tiêu vai trò cá nhân.Trong đấu tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt
Nam chỉ dừng lại ở yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ phát triển
cao nhất là chủ nghĩa bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo động về mặt
chính trị. Tư tưởng đó gắn liền với tâm lý người nông dân công xã, người sản xuất nhỏ,
nó có mặt chính đáng và tích cực của nó trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế,
chống những bất công của xã hội phong kiến, nhưng cũng bộc lộ mặt không tưởng và

bất lực của người nông dân trong sự nghiệp tự giải phóng mình.
Khởi nguồn của dân chủ là từ thơn, làng - đơn vị hành chính tự nhiên gần dân
nhất. Trong lịch sử, quan niệm về đơn vị hành chính cơ sở đã có những bước phát triển


tiến bộ theo tiến trình phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam. Làng là thuật ngữ
thuần Việt, dùng để chỉ khối dân cư ở nông thôn, tạo thành một đơn vị có đời sống riêng
về nhiều mặt và vào thời kỳ đầu của lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam, làng được
xác định là đơn vị hành chính cơ sở. Xã là một từ Hán Việt được hiểu với những nghĩa
khác nhau, trong đó có nghĩa là đơn vị hành chính cơ sở ở nơng thơn. Thuật ngữ này bắt
đầu được sử dụng ở Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ VII khi Khâu Hòa (Giao châu tổng
quản của nhà Đường) thực hiện chính sách cai trị đối với làng Việt Nam theo mơ hình
thống trị của Trung Quốc. Sách An Nam chí nguyện có ghi: Khâu Hòa đặt hương, xã
dưới huyện, châu và trên cùng là An Nam đô hộ phủ. Thời kỳ này, xã được chia thành
tiểu xã và đại xã. Tiểu xã có từ 10 đến 30 hộ dân, cịn đại xã có từ 40 đến 60 hộ dân. Với
qui mô xã như vậy có thể nói Khâu Hịa đã lấy làng Việt truyền thống làm xã.
Đầu thế kỷ X, với chính quyền tự chủ đầu tiên, Khúc Hạo đã chia đặt các đơn vị
hành chính theo thứ tự: trên có lộ, phủ rồi đến châu, giáp và cuối cùng là xã. Điều này
thể hiện một bước chuyển biến rất quan trọng trong nông thôn Việt Nam truyền thống,
cụ thể là người Việt đã chấp nhận chuyển làng thành đơn vị hành chính cơ sở với tên gọi
là xã và cũng từ đó khái niệm làng xã luôn gắn chặt với nhau không chỉ về phương diện
xã hội mà còn thể hiện ngay trong các văn bản của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Dưới các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê ở nông thôn, công xã vẫn tồn tại với vai trò
hạ tầng cơ sở của xã hội. Đến thời Lý, công xã nông thôn vẫn tồn tại nhưng trên thực tế
quyền sở hữu về ruộng đất và chế độ tự trị đã phát triển khá mạnh. Chế độ tư hữu về
ruộng đất ra đời, sự xuất hiện của tầng lớp địa chủ là nguyên nhân dẫn đến công xã nông
thôn chuyển thành làng xã phong kiến. Theo tài liệu của Viện Hán Nôm: Văn khắc Hán
Nôm Việt Nam, 1998, tập 1, tr.47 đưa ra nhận định về thời điểm ra đời của cấp thôn:
Qua việc nghiên cứu quả chng đồng có niên đại Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ 6,
năm 948, được lưu giữ tại nhà thờ Đức Thánh Trần thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, Từ

Liêm, ngoại thành Hà Nội. Bài minh trên chng (Nhật Tảo cổ minh chung) cịn ghi rõ
ngay tại dòng đầu là: "Giao chỉ huyện, Hạ Từ Liêm thôn". Phải chăng cấp thôn đã xuất
hiện từ rất lâu trước đó. Thơn chính là làng và xã là hợp thể của thôn hay làng, nhưng sự
định vị này không xuất hiện ngay từ đầu trong lịch sử hình thành các làng Việt cổ truyền
ở nước ta. Phải đến thế kỷ X, khi họ Khúc giành được quyền tự chủ, chính quyền nhà


nước phong kiến lúc đó mới thi hành những cải cách hành chính, biến cơng xã thành
đơn vị hành chính cấp cơ sở, gọi là "xã" [92, tr. 218].
Cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nhà Minh chiếm nước ta và áp đặt y ngun
mơ hình nơng thơn Trung Quốc (dưới triều Minh) vào Việt Nam. Nhà Minh tổ chức
thành các lý, mỗi lý có khoảng 110 gia đình và đứng đầu là lý trưởng (chức danh lý
trưởng lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam thời kỳ này, sau này được phổ biến dùng ở
triều Nguyễn).
Nếu như ở thời Trần xã quan là do nhà vua bổ nhiệm, thì bắt đầu từ năm 1466,
xã quan được đổi thành xã trưởng và từ năm 1483 vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ về bầu xã
trưởng dưới hình thức họp dân trong xã lại xét chọn. Xã trưởng không phải là người của
triều đình mà do dân trong xã đề cử, quan trên bổ nhiệm. Thông qua việc chuyển từ cơ
chế bổ nhiệm xã quan sang cơ chế bầu xã trưởng ta có thể thấy tính chất dân chủ đã
được thể hiện ở cấp độ cao hơn.
Theo thống kê vào những năm 1920 - 1921, ở Việt Nam đã có tới 22.565 hương
đảng tiểu triều đình trong đó Bắc Kỳ có tới 10.887 làng xã, Trung Kỳ có tới 9.871 làng
xã và Nam Kỳ có 1.871 làng xã và Nam Kỳ có 1.861 xã ấp. Ngày nay làng, thơn, ấp,
bản là đơn vị xã hội dưới đơn vị hành chính cơ sở là xã, qui mô của xã cũng lớn hơn qui
mô của làng xã trong lịch sử.
Vào những năm đầu khi mới giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, nhà
nước chủ trương hợp các xã nhỏ lại, bỏ cấp tổng, do vậy xã lúc đó gồm 2, 3 xã cũ, có
khi đến 4, 5 xã cũ. Dưới xã là thôn nhưng thôn không phải là đơn vị hành chính cơ sở.
Giai đoạn này, qui mơ của xã được qui định cụ thể:
+ Xã đồng bằng dài từ 3 đến 10 km, trên 3.000 dân;

+ Xã trung du dài từ 10 đến 20 km, trên 2.000 dân;
+ Xã miền núi dài từ 30 đến 60 km, dân cư có từ 1 đến 2 hộ/ 1 km2
Năm 1952 qui mô xã được xác định lại:
+ Xã đồng bằng dài 5 km, có 6.000 dân là tối đa;
+ Xã trung du dài 7 km, có 5.000 dân là tối đa;


+ Xã miền núi dài 10 đến 15 km, có dân cư thưa thớt.
Năm 1953 qui mô xã được xác định là:
+ Xã đồng bằng dài 3 km, có đến 2.500 dân là tối đa;
+ Xã trung du dài 4 km, có đến 2.000 dân là tối đa;
+ Xã miền núi từ 6 đến 10 km, dân số không qui định;
Theo Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Chính phủ thì việc phân loại xã
dựa trên một số tiêu chí như tình hình chính trị, kinh tế, số dân, địa
dư v.v… Tuy vậy, một số quy định vẫn còn chung chung, chưa đủ rõ như: Đối với
những xã công việc phức tạp, đồng bằng và trung du có khoảng 5.000 dân trở lên, ở
miền núi có khoảng 2.000 dân trở lên hoặc xã vùng cao, xa xơi, hẻo lánh thì có thể qui
định là xã loại I, số xã khơng thuộc loại trên là xã loại II.
Làng là một cộng đồng có địa vực, có ranh giới lãnh thổ tự nhiên và hành chính
xác định. Trong đó lãnh thổ hành chính chủ yếu là lãnh thổ tự nhiên, hình thành trên đất
mà những thế hệ đầu tiên lập làng và khai khẩn xác định. Làng là một đơn vị tự cấp, tự
túc về kinh tế. Nhiều làng sản xuất những sản vật truyền thống từ rất lâu đời. Làng cũng
là một cộng đồng tự trị, tương đối độc lập về phong tục, tập quan văn hóa. Sự xuất hiện
của cấp thôn bên cạnh cấp xã là cần thiết cho công việc tổ chức quản lý nông thôn, làng
trong lịch sử đã có lúc được dùng lẫn lộn với xã và thôn, nhưng vấn đề ở chỗ "làng" và
"thôn" hầu như khơng có sự phân biệt. Có xã được hình thành từ 3, 4 thôn, tức từ 3, 4
làng, người ta gọi là "nhất xã, nhị tam thơn" và cũng có trường hợp xã được hình thành
từ một làng, người ta gọi là "nhất xã, nhất thôn" [23, tr. 4].
Người dân vẫn sống với làng, từ nhà tới làng, từ làng tới nước. Làng có thể bị
lấp khuất, bị mờ đi, bị giải thể (dù không thành văn) nhưng sức sống của làng vẫn luôn

tiềm tàng và không thể mất. Xã và thơn có thể bị thay đổi nhưng khơng vì thế mà làng bị
biến mất. Xã đã từng có thời kỳ được phân chia nhỏ hơn làng, tương đương hoặc lớn
hơn làng, thậm chí về sau này xã là sự dung hợp của nhiều làng. Làng trở thành một
biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức người Việt về cội nguồn, về lịch sử của mình. Xã
và thơn có có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với làng. Do biến động của quản lý,
xã và thơn thường có những thay đổi nhưng làng vẫn bền vững, ổn định, tới mức "siêu


ổn định". Người dân vẫn sống với làng, từ nhà tới làng, từ làng tới nước. Chính làng là
nơi đầu tiên và chính thức nhất người dân thể hiện quyền làm chủ của mình, là nơi
người dân thực hành những quyền lợi thiết thân nhất, trực tiếp nhất.
Về vấn đề tự trị làng xã, tác giả cho rằng thôn, làng trong lịch sử luôn là một
đơn vị tụ cư bền vững. Như đã phân tích ở trên, làng là một thiết chế có tính chất lịch sử,
có sức sống trường tồn với lịch sử dân tộc. Từ lâu làng đã là đơn vị tụ cư và có hiện thực
sinh động về dân chủ, đó là điều khơng thể phủ nhận.
Chế độ làng xã tự trị là một chế độ đặc biệt được hình thành và phát triển từ rất
sớm, nguyên nhân sâu xa xuất phát từ các nhu cầu:
(i) Nhu cầu quan hệ huyết thống: đó là nhiệm vụ của các "họ";
(ii) Nhu cầu củng cố quan hệ hàng xóm láng giềng: đó là nhu cầu của các
"ngõ" "xóm";
(iii) Nhu cầu tạo một thế bình đẳng, dù chỉ về hình thức, giữa mọi "tiểu nông tư
hữu" cùng làng - xã: đó là nhiệm vụ của các giáp, tổ chức mà cách sắp xếp người dựa
thuần trên lứa tuổi của những thành viên.
(iv) Nhu cầu riêng của từng cá nhân: đó là nhiệm vụ của các phe.
Có thể khái quát hóa đặc trưng của tính tự trị của thơn làng ở phác đồ sau:

(I
)

(I

I)
(I
II
Vòng tròn nhỏ ở trung tâm (I) là bộ phận "lý dịch" do lý trưởng đứng đầu, mà
nhiệm vụ chính là thi hành, đối với từng hộ và từng người dân trong xã do nó quản, mọi
lệnh từ triều đình bên trên áp xuống (thơng qua các quan lại trung gian: phó lý, trương


×