Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.41 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các hộp
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP

5

BẤT CHÍNH

1.1.

Khái niệm và các đặc trưng của hoạt động bán hàng đa cấp

5

1.1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp

5

1.1.2. Các đặc trưng của bán hàng đa cấp

7


1.2.

Khái niệm và các đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính một loại hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh theo quy định
của pháp luật cạnh tranh

14

1.2.1. Bán hàng đa cấp bất chính

14

1.2.2. Các đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính

16

1.3.

Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi bán hàng đa
cấp bất chính

22

1.4.

Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với bán hàng đa cấp và
việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính của một số
nước trên thế giới

25


Chương 2:

30

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP
BẤT CHÍNH VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ CÁC HÀNH VI BÁN
HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Các quy định pháp luật về hoạt động bán hàng đa cấp bất

30


chính ở Việt Nam
2.1.1. Các quy định pháp luật xác định hành vi bán hàng đa cấp bất chính

30

2.1.2. Trình tự, thủ tục, xử lý đối với hành vi bán hàng đa cấp bất
chính theo Luật Cạnh tranh năm 2004

35

Thực tiễn xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính ở Việt
Nam hiện nay

46


2.2.

2.2.1. Thực tiễn bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam

46

2.2.2. Thực tiễn xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính ở Việt
Nam hiện nay

55

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT

61

VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA VIỆC XỬ LÝ CÁC HÀNH VI BÁN HÀNG
ĐA CẤP BẤT CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.

Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về bán hàng đa
cấp bất chính

62

3.2.

Định hướng hồn thiện các quy định pháp luật về chống bán
hàng đa cấp bất chính và nâng cao hiệu quả của việc xử lý các

hành vi bán hàng đa cấp bất chính

63

3.3.

Các giải pháp hồn thiện

65

3.3.1. Giải pháp pháp lý

65

3.3.2. Giải pháp bổ trợ

82

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


Danh mục các sơ đồ

Số hiệu

sơ đồ

Tên sơ đồ

Trang

2.1

Trỡnh t, thủ tục, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và hành vi bán hàng đa cấp bất chính

36

Danh mục các hộp

Số hiệu
hộp

Tên hộp

Trang

2.1

Mt s doanh nghip bỏn hng đa cấp có hành vi vi phạm
bị Cục Quản lý cạnh tranh xử lý

57



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Như là một xu thế tất yếu của quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước,
cùng với việc hàng hóa nước ngồi tràn vào Việt Nam, các phương thức bán
hàng "phi truyền thống" rất mới lạ cũng nhanh chóng được du nhập. Điều này
dẫn đến hệ quả nhiều quan hệ xã hội và những vấn đề pháp lý mới phát sinh
vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các qui định pháp luật, năng lực và thẩm
quyền quản lý hiện có của các cơ quan chức năng. Có thể thấy rõ điều này
thông qua hiện tượng bán hàng đa cấp tại Việt Nam.
Bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 1998, sự xuất hiện và
bùng nổ của phương thức bán hàng đa cấp trên thực tế đã tạo sự hoang mang
cho người tiêu dùng và sự lúng túng trong xử lý chính sách của các cơ quan
quản lý. Trên thực tế, hoạt động của đa số các công ty sử dụng phương thức
bán hàng đa cấp đã làm phát sinh nhiều quan hệ phức tạp giữa doanh nghiệp
và người tham gia bán hàng đa cấp. Đồng thời, vấn đề chất lượng cũng như
giá cả của sản phẩm được cung cấp thơng qua phương thức bán hàng đa cấp
có nguy cơ gây tổn hại lớn tới quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Trong
khoảng thời gian này, bán hàng đa cấp được các phương tiện thông tin đại
chúng nhắc đến gắn liền với hiện tượng: bóc lột, lừa đảo, trốn thuế... Vậy thực
chất bán hàng đa cấp là gì? Nó có đúng như là các phương tiện thơng tin đại
chúng phản ánh không? Và nhất là để quản lý hoạt động này thì Nhà nước cần
sử dụng cơng cụ gì là phù hợp.
Trước nhu cầu cấp bách trên, Luật Cạnh tranh được Quốc hội thơng
qua ngày 3/12/2004 (có hiệu lực ngày 1/7/2005) đã có quy định về việc ngăn
cấm bán hàng đa cấp bất chính, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 quy định chi tiết về phương thức bán hàng
này. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý ban đầu cơ quan quản lý cạnh

1



tranh mà cụ thể là Cục quản lý cạnh tranh chủ động điều tra và xử lý nhiều vụ
bán hàng đa cấp bất chính trong thời gian qua. Tuy nhiên, những quy định về
bán hàng đa cấp bất chính trong Luật cạnh tranh và Nghị định 110 dường như
mới chỉ mang tính chất tình thế, chưa thực sự giải quyết được thấu đáo vấn đề
bản chất của hoạt động bán hàng đa cấp bất chính, các dạng thể hiện của loại
hành vi này với tính chất là hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh. Chính vì
vậy mà hiệu quả áp dụng chưa cao, chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà
lập pháp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
Với mong muốn có được cái nhìn bao qt về các hành vi bán hàng đa
cấp bất chính, đồng thời, tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm có được từ
thực tiễn xử lí các vụ việc bán hàng đa cấp bất chính của cơ quan quản lý
cạnh tranh trong thời gian qua đề từ đó có những đề xuất thích hợp cho việc
hồn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, tác giả mạnh dạn lựa chọn
đề tài: "Pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam" làm luận văn
tốt nghiệp của mình. Đây thực sự là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về lý
luận và thực tiễn đồng thời cịn có tính thời sự cao.
2. Tình hình nghiên cứu
Bán hàng đa cấp là một phương thức bán hàng mới xuất hiện ở nước
ta. Vì vậy, pháp luật về bán hàng đa cấp với tính chất là một lĩnh vực pháp
luật điều chỉnh hoạt động bán hàng này cũng mới hình thành ở nước ta trong
thời gian gần đây. Mặc dù vậy, pháp luật về bán hàng đa cấp lại là một lĩnh
vực pháp luật nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu pháp lý và kinh tế. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các cơng trình đó
hoặc là cịn quá hẹp, phần lớn mới chỉ dừng lại ở hình thức các bài viết trên
báo hoặc là các tài liệu kinh tế được dịch từ tài liệu nước ngoài.
Thuộc về các cơng trình kể trên, đáng chú ý là các cơng trình như:
"Pháp luật về quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp" được đăng trên


2


Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 (35)/2006 của Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Sơn, một
số khóa luận tốt nghiệp đại học như của Đặng Thị Phương Thủy (K46-CLC Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội), Phạm Đức Quảng (K47-CLC - Khoa
luật - Đại học Quốc gia Hà Nội) mặc dù là những cơng trình nghiên cứu khá
cơng phu về bán hàng đa cấp nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nhận diện một số
vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động bán hàng này mà chưa khai thác ở
khía cạnh các hành vi bán hàng đa cấp bất chính với tính cách là một hành vi
cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh và cũng chưa có những
đánh giá về thực tiễn áp dụng của các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề
này. Như vậy, một cơng trình nghiên cứu tồn diện và công phu về Pháp luật
về bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam thì đến nay chưa có. Đây chính là
một cơ hội tốt để tác giả đi vào tìm hiểu và phân tích đề tài nhưng đồng thời
cũng là một khó khăn cho tác giả vì kế thừa được rất ít thành quả của những
người đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận của pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính của Việt Nam để từ đó đề xuất
các phương hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp bất
chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ về những vấn đề lý luận về bán hàng đa cấp
bất chính và pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bán hàng đa cấp bất
chính của Việt Nam;
- Nghiên cứu so sánh về pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính của
một số quốc gia trên thế giới;


3


- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về về bán hàng đa
cấp bất chính của Việt Nam;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bán
hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Các nội dung nghiên cứu dưới khía cạnh kinh tế về bán hàng đa cấp
khơng thuộc phạm vi nghiên của đề tài này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan
điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.
Phương pháp luận nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phép
biện chứng duy vật để nhìn nhận, đánh giá về pháp luật về cạnh tranh khơng
lành mạnh nói chung, pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính nói riêng.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê một cách thích hợp để triển khai các
nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bán hàng đa cấp bất chính.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính và thực
tiễn xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về bán hàng
đa cấp bất chính và nâng cao hiệu quả của việc xử lý các hành vi bán hàng đa
cấp bất chính ở Việt Nam hiện nay.


4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC TRƢNG CỦA HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG
ĐA CẤP

1.1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp
Ở Việt Nam, bán hàng đa cấp là một khái niệm mới và lần đầu tiên
được chính thức ghi nhận trong Luật Cạnh tranh năm 2004. Trước đó, kiểu
kinh doanh này thường được gọi dưới tên là "truyền tiêu đa cấp", "kinh doanh
theo mạng", "tiếp thị đa tầng". Trên thế giới phương thức này thường được sử
dụng dưới tên gọi "kinh doanh đa cấp" (Multi - Level - Marketing). Đây là
phương thức tiêu thụ sản phẩm do nhà hóa học người Mỹ Karl Ranborg (1887 1973) sáng tạo ra trong khoảng thời gian từ năm 1927 đến năm 1934.
Năm 1927, Karl bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng có
chứa nhiều thành phần có ích cho cơ thể. Karl vận động những người thân của
ơng thử nghiệm miễn phí sản phẩm này nhưng không ai hưởng ứng do lo ngại
về những tác dụng không thể biết trước của sản phẩm. Nhưng Karl đã nghĩ ra
một cách thức khác, ông vận động những người này đi tuyên truyền cho
người thân và bạn bè của họ về các tính năng của chất bổ sung dinh dưỡng,
nếu những người này mua sản phẩm, Karl sẽ trả tiền hoa hồng cho người
cung cấp thông tin trên. Sau đó, Karl cũng quyết định sẽ trả cả hoa hồng cho
cả những người thân quen của bạn mình nếu họ tiếp tục truyền bá cho sản phẩm
của mình. Hình thức sơ khai của bán hàng đa cấp đã ra đời ở Mỹ như thế.
Tuy nhiên, đến thập niên 1970 phương thức kinh doanh này đã vấp
phải sự phản đối của dư luận Mỹ, thậm chí có những thành viên của Hội đồng
Liên bang cũng phản đối phương thức bán hàng kiểu này. Theo cách nhìn
nhận của những người này, bán hàng đa cấp khơng khác gì một hình thức lừa

đảo trá hình với cách thức tổ chức theo kiểu "hình tháp ảo" với những hậu

5


quả khôn lường cho xã hội. Bởi tổ chức theo kiểu "hình tháp ảo", các thành
viên của mạng lưới bán hàng đa cấp chỉ làm duy nhất một việc là giới thiệu
thêm người vào hệ thống của mình nhằm kiếm hoa hồng mà không tạo ra bất
kỳ một giá trị nào cho xã hội. Phải đến một phán quyết của Tòa án thương
mại Liên bang Mỹ năm 1979, bán hàng đa cấp mới chính thức được thừa
nhận hợp pháp. Đây cũng là căn cứ cho sự ra đời của đạo luật đầu tiên về bán
hàng đa cấp tại Mỹ.
Cho đến nay, phương thức kinh doanh này đã trở nên phổ biến ở hầu
khắp các nước trên thế giới. Đặc biệt, do tận dụng được hệ thống thông tin
liên lạc rất phát triển hiện nay mà phương thức kinh doanh này dễ dàng tác
động đến mọi ngõ ngách trong xã hội và ảnh hưởng ngày càng lớn trong tỉ
trọng nền kinh tế thế giới.
Theo pháp luật nhiều nước, "kinh doanh đa cấp là phương thức phân
phối lẻ hàng hóa, dịch vụ thông qua mạng lưới những cá nhân phân phối gồm
nhiều tầng khác nhau" [27, tr. 5], trong đó:
Mỗi người đều có trách nhiệm bán lẻ sản phẩm và có quyền tuyển
dụng, đào tạo người mới tham gia mạng lưới của mình;
Mỗi phân phối viên được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi
ích kinh tế khác từ kết quả tiêu thụ sản phẩm của mình và của mạng lưới do
mình trực tiếp tổ chức và được doanh nghiệp thừa nhận.
Pháp luật Việt Nam khơng nhìn nhận theo cách hiểu này mà quan
niệm về bán hàng đa cấp theo cách khác, theo đó kinh doanh đa cấp chỉ được
hiểu là "Bán hàng đa cấp" và được định nghĩa tại khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh
tranh năm 2004 như sau:
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa

đáp ứng các điều kiện sau:
1. Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thơng qua
mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;

6


2. Hàng hóa được người tham gia tiếp thị trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa
điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh
nghiệp hoặc của người tham gia;
3. Người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp sẽ được
hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết
quả tiếp thị trực tiếp của mình và của người tham gia cấp dưới trong
mạng lưới do mình tổ chức ra và mạng lưới đó được doanh nghiệp
bán hàng đa cấp chấp thuận [19].
Như vậy, phù hợp với thông lệ của nhiều quốc gia, pháp luật Việt
Nam đã không định nghĩa trực tiếp bán hàng đa cấp là gì mà thay vào đó là
đưa ra các điều kiện để xác định ranh giới "chân chính" hay "bất chính", tức
là xác định tính hợp pháp hay bất hợp pháp của hoạt động bán hàng này. Nếu
hoạt động bán hàng đa cấp đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 11, Điều 3
Luật cạnh tranh năm 2004 nêu trên thì các thương nhân được phép sử dụng
để áp dụng vào chiến lược kinh doanh của mình và nhà nước sẽ bảo hộ hoạt
động đó. Dựa trên các điều kiện đã được pháp luật quy định có thể định nghĩa
bán hàng đa cấp như sau:
Bán hàng đa cấp là một phương thức bán hàng trực tiếp, theo đó doanh
nghiệp bán hàng hóa thơng qua mạng lưới những người tham gia ở nhiều cấp,
nhiều nhánh khác nhau, trong đó người tham gia sẽ nhận được tiền hoa hồng,
tiền thưởng và/hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của
người tham gia khác do mình tổ chức ra và được doanh nghiệp chấp nhận.

1.1.2. Các đặc trƣng của bán hàng đa cấp
Với bản chất là một phương thức để tiêu thụ sản phẩm, bán hàng đa
cấp mang những đặc điểm riêng biệt mà khơng phải các hình thức bán hàng
khác đều có. Dựa theo nội hàm quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 về
bán hàng đa cấp, có thể chỉ ra những đặc trưng sau đây:

7


Một là, bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa
Bán hàng đa cấp xét cho cùng vẫn là một phương thức tiếp thị để bán
lẻ hàng hóa. Theo nghĩa này, thơng qua một mạng lưới tiếp thị được tổ chức
bởi những người tham gia, doanh nghiệp sẽ thiết lập trực tiếp mối quan hệ
mua bán sản phẩm với người tiêu dùng mà không qua bất kỳ khâu trung gian
nào. Do đó, doanh nghiệp sẽ khơng tốn các chi phí liên quan đến việc thành
lập, duy trì và phát triển mạng lưới phân phối dưới dạng các cửa hàng giới
thiệu sản phẩm hoặc các đại lý phân phối sản phẩm. Chính đây là nguyên do
tạo nên một ưu thế trội của phương thức bán hàng đa cấp so với phương thức
bán hàng thông thường, bởi người tiêu dùng có thể mua hàng với giá gốc
hoặc ít ra cũng thấp hơn nhiều lần nếu như hàng hóa được mua bán theo
phương thức truyền thống, tránh được việc giá cả bị đẩy lên cao nhiều lần,
hạn chế nạn hàng giả, hàng nhái… Bên cạnh đó, đặc điểm này của hoạt động
bán hàng đa cấp cũng dẫn tới hai khả năng: (i) Doanh nghiệp bán hàng đa
cấp đồng thời cũng là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất sản phẩm (ở các nước
phát triển, trường hợp này là đa số) hoặc (ii) Doanh nghiệp chỉ phân phối
hàng hóa do công ty khác sản xuất bằng cách tiếp thị và bán lẻ bằng phương
thức đa cấp.
Tuy có thể cùng là nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ, nhà nhập
khẩu... nhưng sự khác biệt giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp so với doanh
nghiệp kinh doanh thông thường là ở chỗ doanh nghiệp thông thường chuyển

hàng đến tổng đại lý, tổng đại lý chuyển hàng đến đại lý cấp một, cấp hai…
qua rất nhiều khâu trung gian mới đến tay người tiêu dùng. Ngược lại, doanh
nghiệp bán hàng đa cấp bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng thông qua
mạng lưới "phân phối viên" (mạng lưới đa cấp). Các phân phối viên này nhận
hàng tại doanh nghiệp và giao hàng đến tận tay khách hàng. Tức là doanh
nghiệp đã loại bỏ được việc phải thành lập các đại lý hay cửa hàng, phịng
trưng bày sản phẩm, thay vào đó, các phân phối viên này chủ động tìm kiếm
và tiếp xúc khách hàng. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp thường cung cấp tài

8


liệu cũng như hướng dẫn cho những người này các thơng tin và đặc tính của
sản phẩm để mỗi phân phối viên có thể giới thiệu chi tiết tới khách hàng. Điều
đặc biệt ở chỗ, thay vì trả lương, doanh nghiệp trả hoa hồng cho phân phối
viên trên cơ sở doanh thu đạt được; thay vì tuyển dụng, doanh nghiệp để cho
hợp tác viên tự tìm kiếm đối tác để thiết lập mạng lưới tiêu thụ. Vì vậy, tổ
chức của doanh nghiệp bán hàng đa cấp rất gọn nhẹ. Nó khơng có những nhân
viên bán hàng trực thuộc doanh nghiệp cho dù trên thực tế đội ngũ đảm nhiệm
công việc bán hàng rất đông đảo. Quỹ lương của doanh nghiệp bán hàng đa
cấp giảm được gánh nặng đáng kể so với doanh nghiệp bán hàng theo cách
thức thông thường. Điều đó lý giải vì sao phương thức bán hàng đa cấp lại
được nhiều doanh nghiệp lựa chọn đến vậy.
Cần lưu ý là theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị
định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 8 năm 2005 về quản
lý hoạt động bán hàng đa cấp (Nghị định 110), hoạt động bán hàng đa cấp chỉ
áp dụng đối với đối tượng là hàng hóa. Ở đây, hàng hóa là đối tượng được
mua bán. Nếu căn cứ khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005, "Hàng hóa
là tất cả các loại động sản, kể cả động sản được hình thành trong tương lai;
những vật gắn liền với đất đai" [21], thì hàng hóa ở đây là hàng hóa hữu hình.

Như vậy, những loại hàng hóa vơ hình (dịch vụ) sẽ khơng được coi là hàng
hóa theo cách hiểu của Luật Cạnh tranh năm 2004 và do đó, khơng phải là đối
tượng của bán hàng đa cấp.
Cũng cần phải nhấn mạnh là để bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng, lợi ích của cơng chúng và trật tự cơng cộng, khơng phải loại hàng hóa
nào cũng thuộc đối tượng bán hàng đa cấp. Theo thông lệ quốc tế, ngồi các
loại hàng hóa bị cấm lưu thơng, bị hạn chế lưu thơng hoặc lưu thơng có điều
kiện, thì các loại hàng hóa đặc thù như: hóa chất, dược phẩm, trang thiết bị y
tế, thiết bị chuyên dùng, các sản phẩm sử dụng theo quy trình an tồn, sản
phẩm là nhu yếu phẩm hàng ngày đều khơng thuộc đối tượng của bán hàng
đa cấp.

9


Hai là, doanh nghiệp bán hàng đa cấp tiếp thị và tiêu thụ hàng hóa
thơng qua những người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau (đa cấp).
Trong hoạt động bán hàng đa cấp, người ta chú ý nhiều nhất đến mạng
lưới đa cấp. Mạng lưới đa cấp hiểu đơn giản bao gồm những phân phối viên
đảm nhiệm việc tiếp thị và bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp. Những người
này có thể được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như hợp tác viên, cộng tác
viên, phân phối viên, đại diện bán hàng, nhà phân phối độc lập, trực tiêu
viên… nhưng đều nhận nhiệm vụ tiếp thị, quảng cáo và bán sản phẩm. Những
người này có ảnh hưởng quyết định tới sự thành bại của hoạt động bán hàng
đa cấp. Các phân phối viên khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp thường
làm hai việc chính: (i) bán sản phẩm và (ii) xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản
phẩm. Hoạt động thứ hai có nhiều điểm đáng chú ý hơn so với hoạt động thứ
nhất, đây cũng là hoạt động dễ nảy sinh tiêu cực. Bởi các phân phối viên
trong bán hàng đa cấp sau khi dùng thử sản phẩm hoặc được giới thiệu về tính
năng và cơng dụng của sản phẩm, họ sẽ tìm kiếm những người mua sản phẩm,

đặc biệt là những người có khả năng tham gia vào mạng lưới. Đối tượng của
các phân phối viên thường là bạn bè, người thân và phương pháp được sử
dụng thường là gặp gỡ trực tiếp. Lý do khiến những phân phối viên tích cực
phát triển mạng lưới bởi thu nhập của mỗi thành viên trong mạng lưới bán
hàng đa cấp không chỉ bao gồm doanh thu bán hàng của mình, mà cịn từ
doanh thu bán hàng của những người trong mạng lưới tiêu thụ do họ lập ra.
Đặc điểm này thể hiện rất rõ tính chất mạng lưới của hoạt động bán hàng đa
cấp. Hệ thống này cho phép các thành viên tự giới thiệu thêm người vào mạng
lưới, người mới này đồng thời cũng là cấp dưới của thành viên giới thiệu. Một
phân phối viên do đó, vừa là cấp trên vừa là cấp dưới trong mạng lưới bán
hàng đa cấp. Về cách thức tổ chức mạng lưới, mỗi doanh nghiệp lại có những
chính sách khác nhau trong thiết lập hệ thống bán hàng của mình. Sự khác
biệt chủ yếu nằm ở chỗ một cấp trong mạng lưới có bao nhiêu thành viên,
mạng lưới được tổ chức thành bao nhiêu cấp. Hệ quả của việc tổ chức mạng

10


lưới dẫn tới tỷ lệ hoa hồng các thành viên được hưởng rất khác nhau. Điều
này là tối quan trọng bởi mục tiêu lợi nhuận là động lực quan trọng lôi kéo
các thành viên tham gia vào hoạt động bán hàng đa cấp.
Đặc biệt trong cách thức vận hành mạng lưới bán hàng đa cấp, phân
phối viên giới thiệu và bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng mà không nhân
danh doanh nghiệp. Do đó, khi bán hàng đến tay người tiêu dùng, doanh
nghiệp không thiết lập một mối quan hệ trực tiếp với khách hàng mà thông
qua mạng lưới phân phối viên. Như vậy, doanh nghiệp và người tiêu dùng
nhìn chung có quan hệ độc lập. Đồng thời xét về mặt pháp lý, phân phối viên
trong mạng lưới cũng không phải là thành viên doanh nghiệp, điều này dẫn
tới việc doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm về hành vi của hợp tác
viên trong quá trình tiếp xúc và bán sản phẩm cho khách hàng. Trách nhiệm

của doanh nghiệp, nếu có, chỉ dừng lại ở chất lượng của sản phẩm cũng như
những thông tin về sản phẩm do họ cung cấp.
Vấn đề cốt lõi mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp quan tâm là trong
quá trình hoạt động, người tham gia đã tổ chức tiêu thụ được bao nhiêu sản
phẩm để doanh nghiệp căn cứ vào đó chi trả tiền hoa hồng và các lợi ích kinh
tế khác. Do đó, người tham gia bán hàng đa cấp khơng phải là nhân viên mà
là chủ thể kinh doanh có tính độc lập tương đối với chủ doanh nghiệp bán
hàng đa cấp.
Ngoài ra theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004: "…Hàng hóa được
người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở,
nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm
bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia…" [19]. Điều
này có nghĩa là phân phối viên trong mạng lưới bán hàng đa cấp trực tiếp gặp
gỡ khách hàng để tiếp thị và bán lẻ sản phẩm, họ không phải đăng ký kinh
doanh khi tham gia hoạt động bán hàng đa cấp. Nhà làm luật không xem họ
như các đại lý phân phối sản phẩm, các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm.

11


Như vậy, khi phân tích về tổ chức mạng lưới đa cấp, cần phải làm rõ
một số nội dung sau:
Người tham gia bán hàng đa cấp là các phân phối viên trong việc tiếp
thị, bán lẻ hàng hóa (được gọi với những tên như cộng tác viên, đại lý, nhà
phân phối độc lập, trực tiêu viên...) trực tiếp cho người tiêu dùng mà không
nhân danh doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Như vậy, không phải là trực tiếp
thiết lập quan hệ với người tiêu dùng, doanh nghiệp bán hàng đa cấp thực
hiện việc giới thiệu và bán lẻ thông qua mạng lưới người tham gia, cũng có
quan hệ độc lập với khách hàng. Do người tham gia bán hàng đa cấp khơng là
nhân viên của mình nên doanh nghiệp bán hàng đa cấp không phải chịu trách

nhiệm trước khách hàng tiêu thụ sản phẩm về hành vi của phân phối viên, mà
chịu trách nhiệm trong giới hạn phạm vi chất lượng sản phẩm và các thông tin
liên quan đến sản phẩm do họ cung cấp.
- Khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, các phân phối viên không
phải là các đại lý phân phối theo quy định của Luật Thương mại, không thuộc
các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp bán hàng đa cấp thành lập.
Luật Cạnh tranh quy định người tham gia tiếp thị hàng hóa tại nơi ở, nơi làm
việc của người tiêu dùng mà không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của
doanh nghiệp hay của người tham gia. Do trực tiếp gặp gỡ người tiêu dùng để
giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, người tham gia không phải đăng ký kinh doanh
khi tham gia bán hàng đa cấp.
- Người tham gia được tổ chức thành những cấp khác nhau theo
phương thức, mỗi người tham gia tổ chức một mạng lưới phân phối mới, khi
được doanh nghiệp chấp nhận; số lượng người tham gia ở cấp sau luôn nhiều
hơn so với cấp trước nó, làm cho phương thức kinh doanh này tạo ra một hệ
thống phân phối theo hình tháp. Trong quan hệ nội bộ, người tham gia ở cấp
trên có vai trị tổ chức và điều hành hoạt động của những người trong mạng
lưới cấp dưới.

12


Ba là, người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của người
tham gia khác trong mạng lưới do họ tổ chức ra.
Đặc điểm này được cho là nguyên nhân chính yếu tạo nên sức hấp dẫn
của phương thức bán hàng đa cấp. Bởi lẽ, cách thức phân chia lợi ích như trên
có hai tác dụng: (i) kích thích hợp tác viên hoạt động năng nổ để tiêu thụ sản
phẩm; (ii) kích thích các hợp tác viên tự tạo lập mạng lưới tiêu thụ của riêng
mình. Hiệu ứng kép trên suy cho cùng đem lại lợi ích lớn nhất cho doanh

nghiệp bán hàng đa cấp, doanh số bán hàng không ngừng gia tăng và hệ thống
phân phối ngày càng được mở rộng.
Thực tế cho thấy chính sách lợi ích chính là động lực thu hút một số
lượng đông đảo người dân tham gia bán hàng đa cấp. Do hạn chế tối đa các
chi phí liên quan đến quảng cáo, tiếp thị, vận chuyển, bến bãi, khuyến mại…
nên chi phí duy nhất mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp mất chính là khoản
hoa hồng cho các phân phối viên. Mức hoa hồng này có thể cao thấp khác
nhau tùy theo doanh nghiệp, nhưng nhìn chung thường rất hấp dẫn đối với
người có thu nhập trung bình, thu nhập thấp, kể cả một bộ phận những người
thu nhập cao (một lý do khác là hoạt động bán hàng đa cấp không yêu cầu về
bằng cấp và các điều kiện chuyên môn khác đối với phân phối viên).
Về phía người tham gia, hoa hồng là khoản thu nhập mà phân phối
viên nhận được từ doanh nghiệp bán hàng đa cấp dựa trên doanh số bán
hàng của cá nhân và doanh số bán hàng của mạng lưới cấp dưới. Về phía
doanh nghiệp bán hàng đa cấp, hoa hồng được coi là khoản trả công cho các
hoạt động tiếp thị, bán hàng và hoạt động phát triển đội ngũ bán hàng của
doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Trong sơ đồ trả thưởng của doanh nghiệp
bán hàng đa cấp, các phân phối viên được nhận hoa hồng trực tiếp từ doanh
số bán hàng của mình và phần trăm hoa hồng từ doanh số bán hàng của
phân phối viên cấp dưới. Số tiền nhận được từ doanh số bán hàng của mạng

13


lưới cấp dưới thường được gọi là "hoa hồng quản lý". Nhiều nhà kinh tế cho
rằng "hoa hồng quản lý" là chi phí trả cho hoạt động giới thiệu và đào tạo
nhân viên.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT
CHÍNH - MỘT LOẠI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH


1.2.1. Bán hàng đa cấp bất chính
Như đã phân tích ở trên, bán hàng đa cấp đem lại nhiều lợi ích thiết
thực cho người tiêu dùng: mua được hàng trực tiếp từ nhà sản xuất nên tránh
được nạn hàng giả, hàng kém chất lượng... Dưới góc độ của doanh nghiệp,
bán hàng đa cấp tiết kiệm được một loạt các chi phí như quảng cáo, chi phí
vận chuyển, chi phí thuê mặt bằng trưng bày sản phẩm... Mặt khác, bán hàng
đa cấp tạo ra một lượng lớn việc làm cho xã hội bởi khơng giới hạn người
tham gia, đó là chưa kể đến cách thức bán hàng trực tiếp và chủ yếu dựa trên
quan hệ thân quen làm cho doanh số bán hàng tăng lên đáng kể.
Cùng với sự phát triển của bán hàng đa cấp, phương thức kinh doanh
theo kiểu bán hàng đa cấp bất chính đã xuất hiện ở Việt Nam. Đây là phương
thức kinh doanh trong đó, doanh nghiệp và những tầng trên trong mạng lưới
người tham gia được hưởng các khoản lợi ích kinh tế chủ yếu từ tiền đóng
góp của những người mới tham gia mà không phải là từ lợi nhuận của việc
bán lẻ sản phẩm cho người tiêu dùng.
Điều 48 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định:
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu
lợi từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
1. Yêu cầu người mua muốn tham gia phải đặt cọc, phải
mua một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền
để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

14


2. Khơng cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá
hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, lợi ích kinh tế
khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán

hàng đa cấp;
4. Cung cấp thơng tin gian dối về lợi ích của việc tham gia
mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, cơng
dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia [19].
Những quy định trên cho thấy, việc bán hàng đa cấp được coi là bất
chính khi đáp ứng đủ hai điều kiện: (i) một là, thực hiện một trong các hành vi
mà luật liệt kê; (ii) hai là, nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người
tham gia mạng lưới.
Như vậy, dấu hiệu khách quan hay dấu hiệu vật chất của hành vi bán
hàng đa cấp bất chính là việc thực hiện một trong bốn hành vi trên và dấu
hiệu chủ quan của nó là mục đích thu lợi bất chính mà doanh nghiệp bán hàng
đa cấp mong muốn thụ hưởng. Luật Cạnh tranh năm 2004 đã sử dụng đồng
thời cả hai dấu hiệu này để làm cơ sở cấu thành hành vi vi phạm. Dưới góc độ
so sánh, Luật Cạnh tranh Việt Nam có những quy định khá tương đồng với
các nước trong việc mô tả dấu hiệu khách quan của hành vi bán hàng đa cấp
bất chính (ví dụ như cách quy định tại Điều 55, Luật cạnh tranh Canada).
Tuy nhiên, khi xác định dấu hiệu chủ quan để kết luận về tính "bất chính"
của sự vi phạm, các nhà làm luật Việt Nam có cách tiếp cận rất đặc thù.
Pháp luật Việt Nam xác định sự bất chính dựa vào mục đích của hành vi vi
phạm là "nhằm thu lợi bất chính". Trong khi đó, pháp luật của một số nước
khác như Canađa, Đài Loan tập trung phân tích về bản chất gian dối của
hành vi vi phạm. Trong đó, các nhà làm luật ở những quốc gia này tập trung
mô tả các thủ đoạn gian dối của doanh nghiệp khi đưa ra thơng tin về (i) lợi
ích mà những người tham gia được hưởng, hoặc (ii) lợi ích sẽ được hưởng

15


khi tham gia vào mạng lưới, để từ đó thiết lập được hệ thống phân phối đa
cấp [3, tr. 95-96].

1.2.2. Các đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính
Bán hàng đa cấp là phương thức kinh doanh được thừa nhận bởi
nhiều quốc gia trên thế giới. Từ bản chất, bán hàng đa cấp khơng mang tính
chất tiêu cực. Pháp luật các nước không lên án hoạt động bán hàng đa cấp,
bán hàng đa cấp chỉ được coi là đối tượng của pháp luật cạnh tranh khi có dấu
hiệu cạnh tranh khơng lành mạnh.
Dưới góc độ lý thuyết cạnh tranh, sự không lành mạnh của hành vi
cạnh tranh được xác định căn cứ vào khả năng gây thiệt hại của nó đối với thị
trường, đối với đời sống xã hội và bản chất trái đạo đức, tập quán kinh doanh
hơn là dựa vào khả năng thu lợi cho người thực hiện. Mặt khác, tự thân bốn
hành vi bị cấm đoán đã bao hàm trong đó mục đích bất chính của người thực
hiện. Do đó, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện một trong bốn hành vi đã liệt kê
tại Điều 48 Luật cạnh tranh năm 2004, đã là bán hàng đa cấp bất chính.
Khơng coi mục đích "thu lợi bất chính từ việc dụ dỗ tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp" là một căn cứ độc lập để xác định sự vi phạm, Nghị định 110 đã
quy định rõ các hành vi bị cấm đốn. Việc xác định tính khơng lành mạnh của
bán hàng đa cấp bất chính phải dựa trên việc phân tích các biểu hiện của hành
vi vi phạm, nhất là các dấu hiệu về sự chiếm dụng vốn, dồn hàng cho người
tham gia và lừa dối.
Bán hàng đa cấp bất chính mang bản chất của sự chiếm dụng vốn
Luật Cạnh tranh quy định "cấm doanh nghiệp yêu cầu người muốn
tham gia phải đặt cọc hoặc phải trả một khoản tiền để được hưởng quyền
tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp". Theo đó, người muốn tham gia phải
trả tiền hoặc phải đặt cọc một khoản tiền để tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp. Cần phải xác định rằng pháp luật không cấm doanh nghiệp đặt ra điều
kiện để chọn lọc người tham gia vào mạng lưới bán hàng nếu các điều kiện đó

16



không phải là điều kiện trả tiền hay đặt cọc. Trong thực tế các doanh nghiệp
có thể đưa ra các tiêu chuẩn nhất định về kinh nghiệm, trình độ, ngoại hình...
để chọn lọc những người có năng lực và điều kiện thực tế nhằm đáp ứng nhu
cầu tiếp thị, bán hàng của mình. Chỉ khi các điều kiện được đặt ra là phải trả
tiền hay đặt cọc một khoản tiền thì sẽ cấu thành hành vi vi phạm.
Theo các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, các nghĩa vụ đặt cọc hay trả
tiền của người tham gia là biện pháp bảo đảm an tồn, uy tín, bình đẳng trong
kinh doanh, là sự ràng buộc vật chất để bảo đảm người tham gia phải tơn
trọng uy tín của doanh nghiệp và của sản phẩm. Theo lý thuyết cạnh tranh, sự
chiếm dụng của hành vi được lập luận qua các căn cứ sau đây:
- Người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp chỉ là người tiếp thị để
bán lẻ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp bán hàng đa cấp tiến hành tiếp thị sản
phẩm đến với khách hàng. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp khơng ký gửi hàng
hóa cho người tham gia để bán giùm. Khi trực tiếp bản lẻ hàng hóa cho khách
hàng, người tham gia phải thực hiện theo phương thức mua đi, bán lại để
hưởng phần chênh lệch. Vì vậy, nghĩa vụ đặt cọc hay trả tiền cho việc tham
gia là khơng có căn cứ;
- Bản chất của bán hàng đa cấp là người tham gia tiếp thị sản phẩm
giúp doanh nghiệp bán hàng đa cấp, được hưởng lợi ích kinh tế từ kết quả tiếp
thị, bán hàng của mình và của mạng lưới do mình tổ chức ra. Quan hệ qua lại
về lợi ích và nghĩa vụ giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người tham gia
thực sự chỉ phát sinh khi người tham gia thực hiện việc tiếp thị sản phẩm.
Việc gia nhập mạng lưới chưa đem lại cho người tham gia bất cứ lợi ích gì,
nên chưa thể ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với họ;
- Về bản chất, đặt cọc trong các giao dịch phát sinh trên thị trường là
biện pháp bảo đảm vật chất mà các chủ thể phải thực hiện với nhau nằm đảm
bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ; việc trả tiền là nghĩa vụ thanh toán của
một chủ thể cho việc được hưởng một lợi ích ngang giá. Vì vậy, việc doanh

17



nghiệp bán hàng đa cấp buộc người muốn tham gia phải thực hiện các nghĩa
vụ nói trên như một điều kiện để xem xét việc có được tham gia mạng lưới
hay không là trái với bản chất của việc đặt cọc hay của nghĩa vụ trả tiền trong
các thương vụ.
Từ các lý lẽ trên, những khoản tiền mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp
có được từ nghĩa vụ vơ lý đã áp đặt cho người muốn tham gia phải thực hiện
là những khoản tài chính bất chính mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã
chiếm dụng được.
Bán hàng đa cấp bất chính phản ánh chiến lược dồn hàng cho
người tham gia
Theo Luật Cạnh tranh năm 2004, việc dồn hàng cho người tham gia
được thực hiện thông qua các hành vi: doanh nghiệp bán hàng đa cấp yêu cầu
người muốn tham gia phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu để được
quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; hoặc khơng cam kết mua lại với
mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại.
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị bán lẻ sản phẩm đến tay
người tiêu dùng, theo đó những người tham gia chỉ là người giúp doanh
nghiệp tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, mà không phải là các đại lý bao tiêu hay
người tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Hợp đồng tham
gia bán hàng đa cấp có tính chất của hợp đồng hợp tác giữa doanh nghiệp bán
hàng đa cấp và người tham gia. Người tham gia không phải là người tiêu dùng
trong giao dịch này (trừ phi họ là người có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, khi đó,
họ sẽ giao kết một thương vụ khác với doanh nghiệp bán hàng đa cấp). Trong
quá trình tiếp thị, người tham gia tìm kiếm khách hàng, sau đó mua sản phẩm
từ doanh nghiệp bán hàng đa cấp để bán lẻ cho người tiêu dùng với mong
muốn được hưởng hoa hồng, tiền thưởng. Khi người tham gia không bán
được hoặc bán không hết số sản phẩm đã mua, doanh nghiệp bán hàng đa cấp
có nghĩa vụ phải mua lại với mức giá hợp lý để không gây thiệt hại quá lớn


18


cho người tham gia. Mức hợp lý được xác định ít nhất bằng 90% giá đã bán
cho người tham gia. Tỷ lệ tối đa 10% giá đã mua mà người tham gia phải chịu
thiệt (nếu khơng bán được hàng hóa) được coi như khoản vật chất ràng buộc
hòng thúc ép họ nỗ lực thực hiện nghĩa vụ tiếp thị đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Hành vi buộc người muốn tham gia phải mua một lượng hàng nhất định
ban đầu để được quyền tham gia bán hàng đa cấp, hoặc từ chối mua lại sản
phẩm hoặc mua với giá thấp hơn 90% giá đã bán là hành vi đi ngược lại với
bản chất và mục đích của hệ thống bán hàng đa cấp lành mạnh. Lúc đó, doanh
nghiệp bán hàng đa cấp bị coi là đã thực hiện hành vi dồn hàng cho người
tham gia, biến họ thành người tiêu dùng bất đắc dĩ.
Bán hàng đa cấp bất chính tập trung chủ yếu vào việc lôi kéo, dụ dỗ
người tham gia
Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm doanh nghiệp bán hàng đa cấp không
được thực hiện hành vi cho người tham gia được nhận tiền hoa hồng, tiền
thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc giới thiệu người khác tham gia
vào mạng lưới bán hàng đa cấp. Theo hệ thống bán hàng đa cấp truyền thống,
những người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng hoa hồng, tiền thưởng
hoặc các lợi ích kinh tế khác từ hai nguồn sau đây:
- Từ kết quả tiếp thị, bán lẻ hàng hóa của họ;
- Từ kết quả tiếp thị, bán hàng hóa của người tham gia bán hàng đa
cấp cấp dưới trong mạng lưới do họ đã xây dựng và bảo trợ trong một phạm
vi nhất định (có một giới hạn về cấp nhất định).
Điều này đã giúp doanh nghiệp bán hàng đa cấp đồng thời đạt được
hai mục đích: (i) kích thích người tham gia nỗ lực tiếp thị và bán hàng hóa;
(ii) thúc đẩy người tham gia xây dựng, tổ chức và vận hành mạng lưới cấp
dưới có năng lực và hoạt động hiệu quả.

Khi đem lại cho người tham gia những lợi ích chủ yếu từ việc giới
thiệu những người tham gia mới mà không từ kết quả tiếp thị và bán hàng hóa

19


của họ, hệ thống bán hàng đa cấp bị coi là khơng bình thường. Bởi lẽ, với lợi
ích được hưởng, người tham gia sẽ chỉ chú trọng đến việc dụ dỗ người khác
tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp mà không nỗ lực tiến hành các hoạt động
tiếp thị và bán hàng hóa. Với hành vi này, khi thiết lập mạng lưới bán hàng đa
cấp, doanh nghiệp bán hàng đa cấp dường như không quan tâm đến việc tiếp
thị và tiêu thụ háng hóa mà chỉ tìm cách tổ chức mạng lưới đa cấp. Đương
nhiên, mạng lưới đa cấp này không được pháp luật thừa nhận, các khoản chi
để thành lập mạng lưới đa cấp là rất lớn trong khi thu nhập từ việc bán hàng
hóa là khơng đáng kể. Mặt khác, nếu bán hàng đa cấp truyền thống luôn khống
chế một giới hạn cấp tham gia nhất định được hưởng hoa hồng, tiền thưởng
và thường là mức hoa hồng sẽ giảm dần theo cấp tham gia (vì số lượng thế hệ
có hạn cho nên người tham gia càng chậm, càng xa vị trí của người cầm đầu
thì mức lợi ích được hưởng càng ít vì phần lợi ích thu được từ doanh số bán
hàng phải chia cho những cấp ở tầng trên). Khi hệ thống bán hàng đa cấp
dành lợi ích khơng từ hiệu quả tiếp thị hoặc doanh thu bán lẻ mà từ việc giới
thiệu người mới tham gia vào hệ thống thì doanh nghiệp sẽ khơng bao giờ
khống chế thế hệ, cấp bán hàng được hưởng hoa hồng, tiền thưởng. Số tiền
doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải trả cho người tham gia sẽ tăng dần theo
cấp số gia tăng của số lượng người mới tham gia. Lúc này, nguy cơ xảy ra các
cuộc khủng hoảng về tài chính cho doanh nghiệp bán hàng đa cấp, đe dọa lợi
ích của xã hội, của những người tham gia là tất yếu. Do đó, các doanh nghiệp
bán hàng đa cấp ln tìm mọi cách để bù đắp khoản chi phí đã trả cho người
tham gia, đặt ra những điều kiện về mức hàng hóa tối thiểu mà người tham gia
muốn gia nhập phải mua hoặc đặt ra mức phí gia nhập đối với thành viên mới.

Bán hàng đa cấp bất chính mang tính lừa dối
Luật Cạnh tranh năm 2004 "cấm doanh nghiệp bán hàng đa cấp cung
cấp những thơng tin gian dối về lợi ích của việc tham gia vào mạng lưới bán
hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, cơng dụng của hàng hóa để dụ dỗ,
lôi kéo người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp" [19].

20


Việc đưa ra các thơng tin gian dối có thể nhằm mục đích sau đây:
- Dụ dỗ, lơi kéo người khác tham gia bằng cách tác động vào bản tính
hám lợi của con người thông qua những thông tin về lợi ích của người tham
gia đang được hưởng hoặc sẽ được hưởng nếu tham gia;
- Thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm với những thơng tin về tính chất
cơng dụng gây ra sự nhầm lẫn để những người tham gia tiếp thị, bán hàng hóa
cho người tiêu dùng. Sự lừa dối này khơng chỉ làm giảm uy tín của người
tham gia trước người tiêu dùng mà còn đe dọa đến lợi ích chính đáng của
khách hàng, của xã hội, nhất là khi những sản phẩm được tiêu thụ là sản phẩm
kém chất lượng.
Các vụ việc có liên quan đến hành vi đưa thông tin gian dối trong bán
hàng đa cấp chủ yếu tập trung vào các loại sản phẩm là thực phẩm và thuốc
chữa bệnh - những sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe
con người.
Việc đưa thông tin gian dối trong bán hàng đa cấp đang diễn ra theo
chiều hướng phức tạp, đa dạng về phương thức truyền bá thông tin. Mặt khác,
đặc thù của tính truyền tiêu dưới hình thức rỉ tai làm cho tính xã hội trong
việc xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm rất lớn khơng thể lường trước
được. Tính gian dối của thông tin và khả năng gây hậu quả của nó đối với đời
sống xã hội là cơ sở thực tế để kết luận về tính bất chính của hành vi vi phạm.
Tính độc lập trong hoạt động của người tham gia đặt ra một vài vấn đề cho

việc xác định trách nhiệm. Trong bán hàng đa cấp, người tham gia tiến hành
tiếp thị để bán lẻ sản phẩm một cách độc lập, người tiêu dùng cuối cùng sẽ chỉ
biết đến người tham gia đã trực tiếp giới thiệu và bán sản phẩm cho họ. Do
đó, việc đổ trách nhiệm qua lại giữa người tham gia và doanh nghiệp bán
hàng đa cấp rất dễ xảy ra. Ví dụ, các thông tin trong tờ rơi hay tài liệu mà
người tham gia phân phối sản phẩm nước trái nhàu NONI cung cấp cho người
tiêu dùng không thể xác định là do người tham gia hay do doanh nghiệp bịa ra.

21


Khi báo giới và cơ quan chức năng vào cuộc, người đứng đầu văn phịng đại
diện của cơng ty Tahitan Noni International tại Việt Nam đã phủ nhận mọi
trách nhiệm, cho rằng chính người tham gia tự nghĩ ra mà cơng ty khơng được
biệt các thơng tin nói trên. Cơng ty chỉ kiểm soát số lượng sản phẩm được bán
ra từ những người tham gia.
1.3. NHU CẦU ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI BÁN
HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH

Người Việt Nam mới chỉ làm quen với phương thức bán hàng đa cấp
trong thời gian gần đây. Trong khi đó, các nhà làm luật và những người có
trách nhiệm quản lý kinh tế của chúng ta chỉ quan tâm đến việc điều chỉnh
pháp luật sau khi xảy ra hàng loạt các vụ việc lừa đảo, chiếm dụng vốn liên
quan đến các doanh nghiệp bán hàng đa cấp trên thị trường gây ra những xáo
trộn lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Do chỉ được tiếp nhận từ mặt trái của
hiện tượng, nhiều nhà quản lý đã gay gắt cho rằng cần phải cấm đoán triệt để
việc xây dựng hệ thống bán hàng đa cấp. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng,
hệ thống này vẫn cứ phát sinh, hoạt động và lôi kéo được rất nhiều người
thuộc nhiều tầng lớp khác nhau ở nhiều địa phương tham gia. Do đó, vấn đề
được đặt ra cho khoa học pháp lý và cho công tác xây dựng pháp luật là cần

nhanh chóng nghiên cứu, thiết kế khn khổ pháp lý phù hợp để điều tiết có
hiệu quả hoạt động này, đồng thời ngăn ngừa các toan tính sử dụng phương
thức bán hàng đa cấp như một công cụ lừa đảo, xâm hại lợi ích của xã hội.
Trong các cuộc tranh luận về thái độ cần có của nhà nước và pháp luật
đối với bán hàng đa cấp, đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm
thứ nhất cho rằng, cần phải cấm phương thức bán hàng đa cấp bởi nó có quá
nhiều khiếm khuyết và bằng chứng là những hậu quả về kinh tế - xã hội mà
các vụ việc liên quan đã, đang xảy ra trên thị trường. Quan điểm thứ hai đưa
ra nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với bán hàng đa cấp. Theo đó, bán hàng đa
cấp chỉ là cách thức được doanh nghiệp sử dụng để tiêu thụ hàng hóa, nên

22


×