Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Hoa Sen có vai trị và vị trí đặc biệt cả về tâm linh và văn hóa của người Việt. Từ bao đời nay, Hoa sen đã đi vào lịng người, đi
vào cuộc sống và văn hố của người Việt. Ngắm hoa sen chúng ta có thể thấy và nhận ra hình ảnh con người Việt Nam
Mặc dù sinh ra trong bùn lầy nhưng hoa sen không bị ơ nhiễm mà lại có khả năng làm thay đổi hồn cảnh sống, vì hoa sen hễ
mọc ở nơi nào thì sẽ làm cho nước đục nơi đó lắng trong. Sen có cả hương lẫn sắc, nhưng hương sen không quá nồng mà dịu,
gợi một tinh thần cao thượng. Sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng phớt hồng, nhụy vàng. Từ khi nở đến khi tàn không hề bị
ong bướm bén mảng tới. Qua bao ràng buộc để đến được chỗ khống đạt hư khơng, sen tiếp tục vươn lên dưới ánh mặt trời,
khai nụ kết hoa, khoe sắc và xông hương tràn ngập không gian.
Sự hình thành của sen diễn ra theo qui luật nhân quả luân hồi. Sen có cả nụ - hoa - hạt. Hoa nở tượng trưng cho quá khứ, đài
sen tượng trưng cho hiện tại và hạt sen tượng trưng cho tương lai, sự nối tiếp liên tục. Vì vậy, hoa sen trở thành biểu tượng
trong nghệ thuật Phật giáo của Phương Đơng. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo, tư tưởng sâu kín. Bơng hoa sen
cũng tượng trưng cho sự thanh cao, bất khuất của người qn tử, giữ chặt lịng mình trước cám dỗ của lợi danh, giữ cho mình
sự trong sạch dù ở giữa chốn bùn nhơ
Từ ý nghĩa tâm linh ấy, bông hoa này đã đi vào tâm thức của người Việt Nam, trở thành hình tượng trong kiến trúc và điêu khắc
của người Việt xưa, trong nghệ thuật, trong văn học, ẩm thực…
Cho đến tận hôm nay, khi bạn bè quốc tế đến với Việt Nam thì hình ảnh đầu tiên họ gặp là bông sen vàng trên những chuyến
bay của Vietnamairline, hình ảnh biểu hiện cho sự khai sáng và hoàn mỹ; vừa đời thường lại vừa cao quý, linh thiêng; vừa
duyên dáng, mềm mại, nhưng không kém phần cứng cáp, đĩnh đạc, tượng trưng cho những con người Việt Nam dũng cảm kiên
cường nhưng đôn hậu và cởi mở.
<b>1. Hình tượng hoa sen trong văn học nghệ thuật</b>
Khi nói đến Sen, Là người Việt Nam chắc hẳn ai cũng thuộc câu ca dao:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Khi xưa, Mạc Đĩnh Chi khi đứng trước vua Trần Anh Tông đã thể hiện rõ phẩm chất của mình qua bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa
sen trong giếng ngọc): Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, khơng hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn; vả lại sen này lại trồng trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao q biết bao. Ơng như sen, dù có phải ở vào hồn cảnh ơ
trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh chánh thì người ơng càng cao
q biết mấy. Sen q nhưng phải có người sành mới biết thưởng thức…”
Làng quê nơi Bác sinh ra cũng có tên là Làng Sen, và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già
dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta:
...
<b>2. Hoa sen trong mỹ thuật truyền thống của người Việt</b>
Ở Việt Nam, đề tài hoa sen xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật tạo hình, hầu như ở thời nào cũng được các nghệ nhân thể hiện
trong các đồ án trang trí của nơi thờ tự hoặc ở các cơng trình văn hóa của cộng đồng. Sen được khai thác, phản ánh dưới nhiều
góc độ bố cục khác nhau, xuất hiện hằng xuyên theo chiều dài của lịch sử dân tộc qua những cơng trình kiến trúc.
<i> Hoa sen trong mỹ thuật thời Đinh - Tiền Lê</i>
Trên một số viên gạch lát nền cỡ lớn tại khu vực đền vua Đinh và đền vua Lê, ngoài đề tài trang trí chim phượng cịn có đề tài hoa
sen. Đồ án về các hoa sen ở đây gồm 4 loại.
Loại hoa sen có 16 cánh thường được thể hiện nổi trên các viên gạch vng cỡ lớn. Nhìn chính diện (từ trên xuống), họa tiết
được bố cục chung dưới dạng một mặt tròn nằm giữa viên gạch, gồm 3 lớp. Lớp ngoài cùng là 16 cánh sen xếp đều nhau kết
thành một vành tròn đều đặn. Lớp giữa gồm những vân xoắn đơn được xếp cùng chiều, nối lưng nhau thành một vành trịn thứ
hai, có lẽ thể hiện nhụy hoa. Lớp trong cùng là một hình trịn điểm 13 chấm nổi, thể hiện hình gương sen với các hạt. Mười ba
hạt sen được sắp xếp thành các cạnh từ trung tâm chạy ra 8 phía, cân đối, đều đặn. Các cánh sen không chạm thêm chi tiết gì
ngồi một đường gờ nhỏ viền theo chu vi của cánh. Loại đồ án hoa sen 16 cánh này còn gặp nhiều ở thời kỳ sau, ở các tảng đá
kê chân cột cho nên phần giữa và phần nhị hoa khơng chạm khắc gì và nó có nhiều nét tương đồng với các đồ án trang trí ở
Trung Quốc và Nhật Bản.
Loại hoa sen 14 cánh được trang trí trên một đài sen bằng đất nung, cao xấp xỉ 10,5cm. Đài sen hình trịn, trang trí một hình hoa
14 cánh ở giữa và bao quanh sen là đồ án hoa cúc dây và một băng các chấm tròn. Trong trường hợp này, sen cũng bố cục
theo lối nhìn chính diện từ trên xuống, được chia thành 3 lớp như kiểu hoa sen 16 cánh. Lớp thứ hai làm nhụy hoa ở đây rất
hẹp, các nhụy được thể hiện như những đường gạch chéo nhỏ. Lớp trong cùng (gương sen) đã có số ụ trịn (thể hiện hạt sen)
nhiều tới 21 hạt, gồm một hạt tương đối to ở giữa và 20 hạt nhỏ bao quanh thành 2 vòng (vòng trong 8 và ở vịng ngồi là 12).
Đồ án này khắc họa khá tỉ mỉ. Các hạt sen ở giữa đều được thể hiện kép bằng 2 vòng tròn đồng tâm cịn trong lịng các cánh
sen khơng những có gờ viền quanh mà cịn điểm cả vân lá. Phía ngồi hoa sen là một băng hoa dây mảnh kiểu dây leo tay
mướp (có nhiều vào các thời sau). Ngồi cùng là những hình chấm trịn to, mỗi chấm được bao quanh bằng hai đường tròn
đồng tâm như kiểu các hạt sen ở giữa.
sen.
4 loại đồ án hoa sen trên là những đồ án khá đẹp, chứng tỏ tuy các thời Đinh - Tiền Lê ngắn ngủi nhưng cũng đã sáng tạo ra
những sản phẩm có dấu ấn đặc trưng trong lịch sử mỹ thuật nước nhà.
<i> Hoa sen trong mỹ thuật thời Lý</i>
Đây là thời kỳ mà Phật giáo phát triển mạnh, được coi như quốc giáo và trang trí hoa sen được ứng dụng rất nhiều với các đài
hoa sen, các bệ tượng Phật bằng hoa sen, các kiến trúc hình hoa sen. Những tảng đá kê chân cột cho đến diềm cửa tháp, diềm
bệ tượng và cả đồ gốm... hễ đâu có điều kiện thích hợp là nghệ nhân dùng ngay hoa sen để trang trí. Đặc biệt các cơng trình
liên quan đến Phật giáo thì đề tài hoa sen càng được sử dụng nhiều.
Loại đồ án hình hoa sen đỡ chân cột: Do yêu cầu chống mối mọt và ẩm thấp nên các chân cột đều được kê đá. Tận dụng điều
đó, các nghệ nhân đã trang trí các cánh sen viền quanh, tạo cảm giác như tồn bộ ngơi chùa được dựng trên các đóa hoa sen.
Hoa sen chân cột có phần giống với hoa sen trên các viên gạch ở thời Đinh - Lê, được bố cục các cánh thành một vịng trịn
theo kiểu nhìn chính diện từ trên xuống. Hoa bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ. Điều khác nhau là các đồ án này của thời
Lý khơng thể hiện phần nhị sen và gương sen, có lẽ vì cột che khuất. Đáng chú ý là lịng của các cánh sen thời Lý ở các di tích
liên quan tới vua, thường được chạm thêm đôi rồng dâng chầu lá đề. Nét chạm tỉ mỉ tinh tế, tôn thêm vẻ cao quý của cánh sen.
Loại đồ án này còn thấy trên một số đồ gốm men ngọc thời này.
Loại đồ án hoa sen đỡ các vật thiêng, là hình các đài sen trong tư thế nhìn nghiêng, như đài sen làm bệ đỡ cho các chân chim
phượng, trong các đồ án phượng múa ở các thành bậc (ở chùa bà Tấm, Hà Nội), hoa sen làm bệ đỡ cho các vật thiêng bố cục
trong hình lá đề, hoặc trong các đồ án dàn nhạc, thiên thần, về rồng chầu (ở chùa Phật Tích)... Trong đó các đài sen thường đỡ
các lá đề.
Loại đồ án hoa văn hoa sen kết hợp hoa dây và hoa thiêng khác thành băng dọc ở diềm cửa tháp hay ở bệ tượng, nay cịn thấy
ở di tích chùa Long Đọi, tháp Chương Sơn. Nghệ nhân bố cục thay đổi một hoa sen lại đến một hoa cúc, được thể hiện trong
những vòng tròn của hoa dây. Cả vòng tròn này lại gần như tiếp tuyến nhau và chỗ gặp nhau là hình các thiên thần nhỏ bé đang
trong động tác múa. Những hoa dây ở đây mang tính chất ước lệ, trên thực tế lá sen, lá cúc đã cách điệu khác hẳn thực tế. Bố
cục của đồ án hoa sen trong các trường hợp này thường theo kiểu nhìn nghiêng hơi chếch để thấy cả gương sen với hạt sen.
Các cánh sen cũng chia làm hai lớp như loại đồ án đài sen đỡ vật thiêng, nhưng lớp dưới của nó vừa làm đài đỡ vừa biến thành
một vịng trịn ơm trọn lấy cả phần trên của gương sen. Tuy cách điệu khá cao nhưng đồ án hoa văn sen này được xếp vào loại
có bố cục chuẩn nhất, cân đối và đơn giản trong đường nét mà vẫn mô tả được cái dáng vẻ riêng của hoa sen.
Loại đồ án hoa sen trên gốm men ngọc được trang trí trong lịng một chiếc bát men ngọc (hiện vật trưng bày của Bảo tàng lịch
sử Hà Nội). Bát vào loại nhỏ, có màu men ngà hơi chuyển sang màu vàng nâu sẫm. Nghệ nhân gốm khắc chìm hình hoa văn lên
đất, sau đó tráng men và đem nung. Đó cũng là kỹ thuật phổ biến của các đồ gốm men ngọc thời Lý. Các hoa sen được thể hiện
theo lối nhìn nghiêng, trang trí ở trong lịng bát. Cuống hoa quay vào tâm bát, cứ một bông hoa sen lại một bông hoa cúc, chúng
hoàn toàn độc lập với nhau. Tổng cộng có 3 hoa sen và 3 hoa cúc. Hoa sen gồm nhiều cánh, nở rộng ra 2 phía với bố cục tuân
thủ sự cân xứng trong toàn bộ đồ án trang trí.
<i> Hoa sen trong mỹ thuật thời Trần </i>
<i>Đài Sen thế kỷ 11-12</i>
Đồ án hoa sen đỡ các vật thiêng thời Trần khá phong phú như đồ án đỡ chân chim phượng trên trán bia chùa Tổng (Hưng Yên),
đỡ các hình lá đề trong đồ án ở chùa Thái Lạc, chùa Dâu (Bắc Ninh), ở các chân cột, cốn, nhất là ở cửa chùa Thái Lạc, đài sen
đỡ phía dưới các tượng phỗng, một đề tài chuẩn của thời kỳ này. Trên các bệ tượng Phật của thời Trần đều chạm thành những
đài sen lớn. Cánh sen có 2 hoặc ba lớp, xen kẽ nhau, thể hiện thành những khối nổi, khơng cịn chỉ là hoa văn nữa. Tuy nhiên
cũng có những bệ lớp phía dưới cùng lại chỉ chạm nơng thành một viền hoa văn trang trí, các cánh sen được chạm nối tiếp nhau
vòng quanh bệ, hình thức thường to khoẻ, chen khít dăng thành hàng dài nhiều khi thì bố cục nghiêng mà nhiều nhà nghiên cứu
gọi là cánh sen vẹo. Trong lòng các cánh sen thường chạm thêm những hình hoa kết hợp bởi các ơ trịn.
Đồ án hoa sen cách điệu thành hoa dây được sử dụng khá nhiều trên kiến trúc của chùa Thái Lạc. Và có lẽ đây cũng là ngơi
chùa duy nhất có đồ án trang trí này. Hoa sen chạy dài phía dưới đơi rồng đang trịnh trọng dâng chầu lá đề, hay uốn lượn phía
trên các “tầng mây”, nơi có hình các tiên nữ đầu người mình chim đang vừa múa vừa dâng hoa.
gân lá. Ở một liễn men nâu ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, hoa sen lại bố cục thành hoa dây uốn lượn cong trịn đều. Cứ mỗi ơ
trống là một hoa sen, bố cục theo lối nhìn nghiêng, cánh hoa đổ ra hai phía như ở các đồ gốm hoa nâu khác. Dây hoa này có
nhiều lá, có lá như một cánh sen, có lá lại giống lá của hoa cúc trông rất sinh động.
<i> Hoa sen trong mỹ thuật thời Lê sơ</i>
Vào thời Lê sơ, đạo Phật bị hạn chế, các chùa tháp không phát triển, nhưng hoa sen vẫn là loại đề tài được chú ý nhiều. Hoa
sen khơng những được trang trí trên các bệ tượng Phật, trên các chân tảng cột chùa mà còn ở các thành bậc cung điện của
triều đình và trên cả các bia tiến sĩ ở Văn Miếu.
Đồ án hoa sen ở mặt ngoài thành bậc các cung điện như ở bậc điện Kính Thiên (Hà Nội), điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Văn Miếu
(Hà Nội). Mặc dù dưới hình thức cuộn vòng của hoa dây, nhưng trung tâm vẫn là bơng hoa sen. Hoa sen thể hiện theo kiểu nhìn
nghiêng, thấy rõ cả từng lớp của hoa. Trong cùng là một búp hoa cịn xếp kín chưa nở. Tiếp đó là các lớp cánh sen toả đều ra
hai bên như bố cục hình nan quạt. Vì được cách điệu cao nên ở đây khó nhận ra các cánh sen quen thuộc.
Ở thành bậc điện Lam Kinh đồ án hoa sen cũng giống như ở thành bậc điện Kính Thiên. Đáng chú ý là có một số đồ án ở giữa
không phải là chùm cánh, mà lại là cả một đài sen tạo thành một mảng to như hình lá sen, cịn ở giữa là các hình xoắn cách
Đồ án hoa sen ở diềm bia: Một số bia thời Lê sơ như các bia tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội - 1484), bia chùa Cao (Hà Tây - 1505)...
đều có trang trí hình hoa sen xen lẫn các hoa khác. Bố cục hoa sen theo kiểu nhìn nghiêng, cịn các cánh hoa thì phần lớn đang
chụm lại che kín đài gương, ở trên là 3 lớp cánh đang xếp sát nhau, phía dưới cũng có 3 cánh nhỏ đã nở rộng. Đó là trường hợp
hoa sen diềm bia chùa Cao. Còn ở diềm bia Văn Miếu bố cục cũng như vậy nhưng có phần đơn giản hơn. Ở giữa là hai cánh
sen ơm lấy đài gương, phía ngồi có 5 cánh nở đều ra các phía, giống hoa sen bệ
chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh - thế kỷ XVII)
Hoa sen trên bệ tượng Phật: Các bệ tượng Phật thời Lê sơ, như bệ các chùa Khám
Lạng (Bắc Giang - 1432), chùa Cao (Hà Tây-1505)... đều có trang trí cánh sen . Kiểu
cách và chi tiết của các hoa văn này gần giống với các cánh sen trên các bệ thời Trần.
Đặc biệt ở chùa Khám Lạng, ngồi các cánh sen to, cịn có lớp cánh sen được chạm
theo kiểu xếp gối lên nhau chỉ thấy nửa hình, cứ thế mà thành băng dài. Lối bố cục gối
lên nhau này cũng đã thấy có ở thời Trần. Ở chùa Cung Kiệm, dưới chân bệ đá của
tượng Phật niên đại 1449, còn thể hiện một đóa hoa sen nổi trên sóng nước, chạm theo lối nhìn hơi chếch nghiêng, các cánh
sen nở vây quanh một búp sen ở giữa, lá phía ngồi hình sóng, bố cục đơn giải, ít chi tiết.
Hình tượng hoa sen trong nghệ thuật tạo hình Việt là một đề tài rất phong phú, được thể hiện ở rất nhiều các hình thức trang trí
mỹ thuật và kiến trúc đặc trưng riêng cho mỗi thời kỳ lịch sử dân tộc. Nó khơng chỉ mang lại giá trị vật chất cho cuộc sống, mà
cịn mang giá trị tinh thần vơ giá với người Việt. Chính vì vậy hình tượng hoa sen khơng chỉ là cảm hứng sáng tác của các nghệ
nhân xưa, mà ngày nay các họa sĩ hiện đại vẫn có nhiều tác phẩm thành công với đề tài hoa sen, qua nhiều cách nhìn và ngơn
ngữ tạo hình khác nhau, nhưng đều biểu đạt được giá trị thẩm mỹ vĩnh hằng của loài hoa đã thấm sâu vào tâm hồn dân tộc Việt.
<b> </b> <b>3. Hoa sen trong văn hoá ẩm thực Việt Nam:</b>
Từ ảnh hưởng của hoa sen trong đời sống tinh thần mà người dân Việt Nam đã đưa sen lên đỉnh cao của văn hóa ẩm thực.
Các bộ phận trên bơng hoa sen được biến chế thành những món ăn đặc trưng,
mang đậm một hương vị Việt Nam như gỏi ngó sen, mứt sen, trà sen. Sen hồ Tịnh
Tâm của Cố đô Huế ngày xưa được dùng để ướp trà cho vua. Người ta ướp trà
vào ban đêm. Khi sen vừa hé nhụy là lúc trời đất đang giao hồ, hương cịn rất
đượm. Trà được đặt vào trong lòng hoa rồi dùng dây buộc lại, ép không cho hoa
nở ra, để qua hết đêm trà sẽ hấp thụ toàn bộ hương sen. Sáng hơm sau thì thu
trà, trà sen Huế vì thế có hương thơm thanh khiết và đậm đà đến say lòng.
Chè sen Huế với hạt sen tươi, bóc vỏ, lột lớp lụa mỏng, xoi tim rồi đem chưng
cách thủy, chưng với đường phèn thì hương mới thơm. Chè sen được múc trong bát cổ men sứ màu xanh nhỏ như “mắt trâu”,
chỉ độ dăm bảy hạt sen vàng nở lươm tươm. Trong các dịp lễ tết hay kỵ giỗ, chè sen là món quan trọng gần như không thể thiếu
trong lễ phẩm. Cúng xong, chỉ một bát thôi là đã thưởng thức đủ cái “quốc hồn quốc túy” của xứ Huế rồi!
Ngoài ra, người Huế còn dùng sen để nấu cơm sen rất nổi tiếng trong các món ăn truyền thống Huế. Cách nấu cơm sen cũng
hết sức cầu kỳ, chỉ có những người phụ nữ Huế thực thụ tính tình điềm đạm có bản sắc “tơn nữ” mới nấu được cơm sen. Trong
những món ăn “bát bửu”, cơm sen xuất hiện với một phong cách rất Huế. Những ai muốn thưởng thức món cơm sen Huế hãy
đến cố đơ vào mùa sen nở. Ngồi ra, cịn có nhiều món ăn thượng vị từ sen Huế mang nhiều hương sắc và hương vị đậm đà.
Còn một nét đặc biệt nữa là người miền Bắc thường dùng dùng lá sen để gói cốm. Hương đồng, cỏ nội quấn quyện với hương
đồng cỏ nội. Những hạt cốm xanh màu ngọc thạch trở nên dẻo và thơm lâu hơn khi nằm trong lòng chiếc lá sen tươi. Hương
thơm dìu dịu của lá sen hoà quyện với hương cốm. Thật là một sự kết hợp hài hòa tuyệt vời mà bất cứ ai đã thưởng thức còn
nhớ mãi.
CINET