Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Văn hóa ứng xử hồ chí minh và việc xây dựng văn hóa ứng xử của cán bộ công chức cấp cơ sở ở tỉnh đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.73 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN NGỌC THẮM

VĂN HĨA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH
VÀ VIỆC XÂY DỰNG VĂN HĨA ỨNG XỬ
CỦA CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN NGỌC THẮM

VĂN HĨA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH
VÀ VIỆC XÂY DỰNG VĂN HĨA ỨNG XỬ
CỦA CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. LƢƠNG MINH CỪ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lương Minh Cừ. Những kết luận khoa học chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
Tác giả

Nguyễn Ngọc Thắm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ, NỘI DUNG CƠ
BẢN VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VÀ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VĂN HĨA
ỨNG XỬ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ....................................................................................................9
1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VĂN HĨA
ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................9

1.1.1. Quan niệm chung văn hóa ứng xử ................................................................. 9
1.1.2. Nội dung cơ bản trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh ................................. 16

1.1.3. Những đặc điểm chủ yếu của văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh ........................51
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM VỀ
XÂY DỰNG VĂN HĨA ỨNG XỬ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP CƠ SỞ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ..............................................................................................54

1.2.1. Quan điểm về cấp cơ sở và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở
Việt Nam hiện nay ..................................................................................................54
1.2.2. Hệ thống quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức cấp cơ sở ở Việt
Nam hiện nay ......................................................................................................... 62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................... 69
Chƣơng 2: XÂY DỰNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY - ĐẶC ĐIỂM,
THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ............................... 72
2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ
SỞ Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY .......................................................................... 72

2.1.1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai hiện nay ........................... 72
2.1.2. Đặc điểm về đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.. 74
2.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY- THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ ...... 75


2.2.1. Những thành tựu trong xây dựng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay .............................................................. 75
2.2.2. Những mặt hạn chế trong xây dựng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay .............................................................. 92
2.3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HĨA ỨNG XỬ CỦA CÁN BỘ,
CƠNG CHỨC CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY..................................... 105

2.3.1. Phương hướng xây dựng văn hóa ứng xử của cán bộ, công chức cấp cơ sở ở

tỉnh Đồng Nai hiện nay ........................................................................................ 105
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần xây dựng văn hóa ứng xử đối với đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay ..................................... 106
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 121
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 128
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất
đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho cuộc sống tự do,
ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một tấm
gương đạo đức ngời sáng, một hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hệ thống tư
tưởng đó, vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam ln là mối quan tâm
trong nhận thức và hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Người đặc biệt quan tâm
tới việc xây dựng con người mới, trong đó văn hóa ứng xử giữ một vị trí quan trọng.
Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện văn hóa ứng
xử. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh đa dạng, phong phú, chứa đựng những giá trị văn
hóa, đạo đức đặc sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò to lớn của cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất
bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” (Hồ Chí Minh, 2011, tr. 280). Cán bộ thời nào, ở bất
cứ đâu, trong các hệ thống và bộ phận nào cũng đều quan trọng. Song, cán bộ cơng
chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng hiện
nay. Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp cơ sở) là một hệ thống tổ chức chính trị
trong bốn cấp ở nước ta hiện nay. Đây là cấp cơ sở, cấp gần dân nhất, có mặt trên mọi

địa bàn dân cư trong cả nước, trực tiếp đưa các chủ trương, đường lối của Đảng và
pháp luật, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống của nhân dân. Đảng, Nhà nước
ta với chủ trương hướng mạnh về cơ sở, luôn quan tâm đến việc đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Vị trí, vai trò quan trọng của cấp cơ sở và hệ
thống chính trị cấp cơ sở đã được khẳng định tại Nghị quyết số 17NQ/TW ngày
18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng:
“ Cơ sở xã phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân ta cư trú và sinh
sống. Hệ thơng chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,


2

huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2002, tr. 1).
Vai trò, nhiệm vụ của cấp cơ sở trong hệ thống chính trị được thực hiện như thế
nào, đến đâu là phụ thuộc trước hết vào đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở được xác định là loại nguồn nhân lực đặc biệt, là nhân tố quan
trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà
nước của chính quyền cấp cơ sở. Trong những năm qua, q trình thực thi nhiệm vụ
cán bộ, cơng chức cấp cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực, qua đó đã tạo được
niềm tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị cấp cơ sở. Tuy nhiên, do những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã làm cho tình trạng suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trở nên nghiêm trọng, ngày càng có nhiều cán bộ,
công chức cấp cơ sở đã mắc bệnh chuyên quyền, hách dịch, coi thường, quát mắng ...
khi tiếp xúc, làm việc với cơng dân trong q trình thực thi cơng vụ. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu, vận dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh vào việc xây dựng văn hóa
ứng xử của đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả thực thi

nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh
Đồng Nai nói riêng đã trở thành vấn đề cấp bách.
Đồng Nai là tỉnh cửa ngõ Đông Nam Bộ, là một trong ba đỉnh của tam giác
phát triển của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam. Đơn vị hành chính cấp cơ sở
hiện nay của tỉnh gồm 171 xã, phường, thị trấn, trong đó có 60 xã là xã miền núi. Là
một tỉnh tập trung đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo sinh sống.
Qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
trên địa bàn của tỉnh đã có những bước trưởng thành, góp phần quan trọng tạo nên
thay đổi diện mạo về kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trước những thay
đổi và yêu cầu của tình hình tình phát triển mới, đặc biệt trong cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và q trình hội nhập quốc tế hiện nay, đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở của tỉnh hiện vẫn đang tồn tại nhiều hạn chế, bộc lộ
nhiều khiếm khuyết như: Trình độ cịn thấp, số cán bộ, công chức qua đào tạo về


3

chuyên môn nghiệp vụ chưa nhiều; đạo đức công vụ, thái độ phục vụ nhân dân của
một bộ phận cán bộ, cơng chức chưa tốt…. Tình hình đó địi hỏi cần phải tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, cần đặc biệt làm tốt công tác bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức, bồi dưỡng kỹ năng ứng xử, giao tiếp cho đội ngũ cán bộ, công chức
cấp cơ sở qua đó tạo dựng niềm tin của nhân dân vào sự trong sạch, vững mạnh của
chính quyền cấp cơ sở.
Xuất phát từ những lí do đó, tác giả chọn đề tài: “Văn hóa ứng xử Hồ Chí
Minh và việc xây dựng văn hóa ứng xử của cán bộ, cơng chức cấp cơ sở ở tỉnh
Đồng Nai hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Triết học. Tác giả hy
vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ,
cơng chức cấp cơ sở, từ đó tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
cơ sở, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới,
đồng thời góp phần vào xây dựng nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc cải cách

hành chính và sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có nhiều cơng trình đề cập đến các nội dung
khác nhau, tùy ở góc độ tiếp cận. Có thể chia các cơng trình đó theo các hướng sau:
Hướng thứ nhất, những cơng trình, bài viết về văn hóa nói chung và văn hóa
ứng xử nói riêng: “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trần Ngọc Thêm (chủ biên), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, năm 1999 đã xem xét văn hóa khởi đầu từ các điều kiện vật chất
quy định và định vị văn hóa Việt Nam, qua đó nhận thức được cái tinh thần là văn
hóa nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống Cộng đồng, để rồi cái tinh thần đó lại tác
động trở lại đời sống vật chất hình thành nên cách thức ứng xử giao lưu với môi
trường tự nhiên và xã hội. “Văn hóa và lối sống”, do Thanh Lê (chủ biên), Nxb
Thanh niên, năm 2000 đã đề cập gián tiếp văn hóa ứng xử bằng hai mục ở hai
chương: đó là những điều bàn về lối sống, nếp sống, mức sống của người Việt Nam.
Từ đó tác giả nêu lên giá trị của văn hóa đối với lối sống hiện nay là ủng hộ cái đẹp,
phê phán cái xấu, hướng tới chân – thiện – mĩ. “Văn hóa đạo đức trong giao tiếp ứng
xử xã hội” của Nguyễn Văn Lê, Nxb Văn hóa – Thơng tin, năm 2005, tác giả đã nêu 2


4

chương: về văn hóa ứng xử Cộng đồng và văn hóa ứng xử trong thương lượng – đàm
phán. Qua đó, tác giả lý giải và chỉ dẫn các tình huống cụ thể rồi đưa cách ứng xử cho
phù hợp với đối tượng và loại hình khác nhau. “Văn hóa ứng xử truyền thống của
người Việt Nam” do Lê Văn Quán, Nxb văn hóa thơng tin, năm 2007, đã giành năm
chương để bàn về văn hóa ứng xử của người Việt Nam. Từ các nhân tố tạo nên các
ứng xử, tác giả nêu lên các bình diện và phương châm ứng xử của người Việt theo
nhân cách chân, thiện, mĩ. “Cẩm nang Văn hóa ứng xử và giao tiếp cơng sở” của Võ
Bá Đức, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, năm 2012. “Một số vấn đề về quy
định giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ” của PGS.TS
Vũ Thị Phụng (Trang tin điện tử của Tạp chí tổ chức nhà nước đăng ngày 7/7/2016).

“Vấn đề Văn hóa ứng xử cơng sở ở Việt Nam hiện nay” luận văn thạc sỹ Triết học
của Trần Thị Thúy Hà tại Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Trong luận văn này,
tác giả nêu một số vấn đề lý luận về văn hóa ứng xử công sở ở Việt Nam hiện nay,
đánh giá thực trạng, nguyên nhân và tác động của văn hóa ứng xử công sở đến hiệu
quả hoạt động của các công sở trong hệ thống bộ máy chính quyền và từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng văn hóa ứng xử cơng sở, đáp ứng u cầu
cải cách hành chính và những yêu cầu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những cơng trình, bài viết về văn hóa Hồ Chí Minh nói chung và văn hóa
ứng xử Hồ Chí Minh nói riêng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt
Nam” của Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 1998.
“Hồ Chí Minh tượng trưng cao đẹp của bản sắc văn hóa Việt Nam” bài viết của giáo
sư Song Thành đã đề cập đến lối sống và cách ứng xử của Hồ Chủ tịch. Theo tác giả:
Người thật giản dị, vĩ đại và cũng cực kì lịch sự, thanh tao, cao quý trong cách ứng
xử với bạn bè quốc tế và với các cụ già, phụ nữ, thanh niên, nhi đồng. Phong cách
ứng xử Hồ Chí Minh là kết tinh cao đẹp của văn hóa ứng xử văn hóa Việt Nam. “Hồ
Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất” của GS. Song Thành, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 1999, tác giả đã nêu cụ thể, chi tiết về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
thơng qua chương X với nội dung: Văn hóa giao tiếp, ứng xử Hồ Chí Minh. Theo
tác giả: Văn hóa giao tiếp, ứng xử Hồ Chí Minh được biểu hiện gồm: Khiêm tốn,


5

nhã nhặn, lịch lãm; Chân tình, nồng hậu, tự nhiên; linh hoạt, chủ động, biến hóa;
uyển chuyển có lí, có tình; cảm hóa. Khoan dung, đại lượng; nụ cười xóa nhịa mọi
ách bức. Văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh với việc xây dựng con người mới hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ của Cao Thị Hải Yến Đại học Văn hóa TPHCM, năm 2001),
luận văn nêu bật những đặc điểm cơ bản trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh: tính
nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc ứng xử; tính đa dạng và linh hoạt trong ứng xử; sự
tinh tế và uyên bác; sự ân cần, cởi mở, chu đáo; tính quyết tâm, kiên trì, bền trì, bền

bỉ và lạc quan; cảm hóa, khoan dung và độ lượng; khiêm nhường, nhã nhặn, lịch lãm
và bình dị; tính nhân văn. “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng văn hóa
giao tiếp của người cán bộ lãnh đạo, quản lí ở nước ta hiện nay” của Võ Thị Hồng
Loan, Tạp chí khoa học xã hội (3), tr.20- 28, năm 2003, bài viết có 2 mục lớn và 4
mục nhỏ. Từ khái niệm văn hóa và văn hóa giao tiếp, mối quan hệ giữa văn hóa giao
tiếp và văn hóa ứng xử, tác giả đã lí giải vì sao văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh có sức
thuyết phục cao đến như vậy. Từ đó tác giả trình bày một số nguyên tắc cơ bản trong
văn hóa giao tiếp Hồ Chí Minh cần quán triệt. “Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh” do Đặng Xn Kì (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, năm 2004, tác giả giành
chương VI nói về phong cách ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh, cơng trình đã nêu
bật được những chuẩn mực về văn hóa ứng xử theo phong cách Hồ Chí Minh.
“Những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh”, bài viết Tạp chí Cộng sản do Nguyễn Xn
Thơng viết năm 2004 đã nêu bật những giá trị văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
qua đó tác giả đề cập đến văn hóa ứng xử của Người. Văn hóa cách mạng của Người
vừa có nội dung yêu nước, tiến bộ và nhân văn cao đẹp; vừa thể hiện được chức năng
nhận thức, giáo dục. Theo tác giả, những giá trị văn hóa ứng xủa của Người là sự
giản dị, gần gũi, khiêm tốn với đồng bào, đồng chí, là sự thương yêu, q trọng con
người. “Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – Giá trị và ý nghĩa” bài viết Tạp chí Cộng
sản của Hồng Chí Bảo, năm 2005 trong bài viết này tác giả trình bày thành 5 phần,
trong đó phần 4 tác giả nêu lên quan điểm rất rõ ràng về văn hóa ứng xử Hồ Chí
Minh. Theo tác giả, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là ngun tắc ứng xử của Người,
là văn hóa giáo dục, kết hợp giáo dục bằng lời với thực hành bằng công việc thực tế


6

và bằng sự nêu gương, đặc biệt, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là văn hóa tự ứng xử.
“Một số vấn đề văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại” của Nguyễn Đăng Duy
Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2005, tác giả đã đề cập đến văn hóa ứng xử Hồ Chí
Minh với một số nét cơ bản như: ứng xử với thiên nhiên, ứng xử với bản thân và xã

hội. “Hồ Chí Minh – Sự hình thành nhân cách lớn” của Trần Thái BìnhNxb trẻ,
năm 2007, trong phần 3 chương III tác giả bàn đến văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh.
Tác giả đã trình bày chi tiết cách ứng xử của Người thơng qua các tình huống cụ thể.
Theo tác giả, ở Hồ Chí Minh có một phong cách ứng xử rất văn hóa. Chữ văn hóa
bao hàm rộng rãi tất cả những giá trị tinh thần quý báu của một nhân cách lớn những
giá trị nhân văn. “Tìm hiểu văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh” của TS. Nguyễn Thị Tình
và Th.s.Lê Kim Dung, Nxb Giáo dục Việt Nam, năm 2009, trong phần thứ hai, tác
giả trình bày nội dung văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh thơng qua việc tìm hiểu những
yếu tố thể hiện nhân cách lớn của Người như: lòng nhân ái, yêu thương con người, trí
tuệ sáng suốt, học vấn sâu rộng và lý tưởng cao đẹp…
Các cơng trình nêu trên là sự gợi ý, cung cấp một số cơ sở luận chứng, luận cứ
để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài của luận văn. Nhưng cho đến nay, chưa có cơng
trình nào trực tiếp nghiên cứu những giá trị tích cực trong văn hóa ứng xử của Hồ
Chí Minh vào việc xây dựng văn hóa ứng xử của cán bộ, cơng chức cấp cơ sở. Đó là
hướng nghiên cứu mà luận văn tiếp cận và triển khai nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: tập trung nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản
về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc xây dựng văn hóa ứng xử của
cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai.
Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận văn trình bày, phân tích làm rõ khái niệm văn hóa, khái niệm
ứng xử và văn hóa ứng xử; cơ sở hình thành văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, những nội
dung cơ bản trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh; xác định đội ngũ cán bộ, công chức


7

cấp cơ sở và quy tắc ứng xử của cán bộ, cơng chức làm việc trong bộ máy chính
quyền cấp cơ sở.

Thứ hai, phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng văn hóa ứng xử của cán
bộ, cơng chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai; từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp
xây dựng văn hóa ứng xử của cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh và xây dựng văn hóa
ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử và thực tiễn hoạt động của
Hồ Chí Minh.
Thứ hai, vấn đề xây dựng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức
cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. (Đề tài khảo sát thực trạng văn hóa ứng xử
của đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2010
đến nay; trong đó chủ yếu tập trung khảo sát ở các đảng bộ cơ sở xã, phường, thị
trấn thuộc 11 Đảng bộ: thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh và các huyện
Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Thống
Nhất, Tân Phú và Định Quán. Đề tài đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng
văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai hiện nay)
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lí luận của luận văn: dựa vào cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn sử dụng các phương pháp: Lịch sử và lô gic, kết hợp chặt chẽ giữa
lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học …để thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần làm rõnội dung cơ bản và thực tiễn văn
hóa ứng xử Hồ Chí Minh. Từ đặc điểm và thực trạng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán


8


bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai trong những năm qua, đề xuất các giải pháp
nhằm xây dựng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng
Nai hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn: những giải pháp mà luận văn đề xuất sẽ góp phần vào
việc xây dựng và nâng cao văn hóa ứng xử thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công
chức cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Nai. Ngồi ra, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cả nước nói
chung. Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ trong nghiên
cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành hai chương, năm tiết, mười một tiểu tiết.


9

Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ, NỘI DUNG
CƠ BẢN VĂN HĨA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VĂN
HÓA ỨNG XỬ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VĂN
HĨA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Quan niệm chung văn hóa ứng xử
Khái niệm chung về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và phức tạp. Từ khi
văn hóa trở thành đối tượng nghiên cứu của văn hóa học - khoa học nghiên cứu về

văn hóa cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy vậy, có thể
quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc chiều rộng, theo
không gian hoặc theo thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những
giá trị tinh hoa. Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh. Giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị
đặc thù của từng vùng. Giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá
trị trong từng giai đoạn.
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì con
người sáng tạo ra. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Vì lẽ đó, khái niệm văn
hóa khơng tách rời khái niệm con người.
Ở các ngơn ngữ phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ chữ “cultus” (tiếng
Latinh có nghĩa là “trồng trọt”). Danh từ “cultus” được hiểu theo hai nghĩa khác
nhau “cultusagri” là trồng trọt ngoài đồng (trồng cây) và “cultusannimi” là trồng
tinh thần, trồng người. Như vậy theo nghĩa gốc của từ “văn hóa” thì đó là làm cho sự
vật, hiện tượng sinh sôi, nảy nở, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.


10

Trong truyền thống phương Đông, theo tiếng Hán “văn” là những cái tốt đẹp
của cuộc sống đã được đúc kết, là sản phẩm trí tuệ của con người; hóa” là biến hóa,
là đem cái đã được đúc kết ấy hóa thân trở lại cuộc sống, làm cho sống tốt đẹp hơn.
Văn hóa mang nghĩa là động lực phát triển xã hội. Theo cách hiểu khác văn hóa là
lấy cái đẹp để giáo hóa con người.
Thực chất, văn hóa là một lĩnh vực rộng bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến
hoạt động của con người, chính vì vậy có rất nhiều cách hiểu và cách diễn đạt khác
nhau về văn hóa. Nhiều ngành khoa học đều lấy văn hóa làm đối tượng nghiên cứu,
mỗi nhà khoa học lại tiếp cận văn hóa trong một hồn cảnh lịch sử và ở những góc độ
khác nhau. Trong luận văn này, tác giả chú ý tới một số khái niệm văn hóa sau:

Trong tác phẩm “Primitive culture” (Văn hóa nguyên thủy) của tác giả
Edward Burnett Tylor – một nhà nhân chủng học người Anh đưa ra định nghĩa đầu
tiên về văn hóa:
“Văn hóa… là phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán cùng những khái niệm và thói quen khác mà con người thu nhận
được với tư cách là một thành viên trong xã hội” (E.B.Tylor, 2001, tr. 13).
Theo E.Tylor cho rằng văn hóa bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến
đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật…
quan niệm này đã nêu lên được rất nhiều lĩnh vực của văn hóa, tuy nhiên nó mới chỉ
dừng lại ở việc liệt kê các lĩnh vực sáng tạo của con người.
Một số quan niệm xem:
“Văn hóa là sự hiểu biết … Nhưng chỉ riêng sự hiểu biết khơng thơi chưa làm
nên văn hóa. Sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó làm nền và định hướng
cho thế ứng xử (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, hành vi…) của mỗi cộng
đồng dân tộc và các thành viên trong đó hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp
đối với bản thân và trong quan hệ đối với người, đối với sự vật và hiện tượng
của môi trường xã hội và môi trường tự nhiên xung quanh” (Nhiều tác giả,
tr.19-20).


11

Như vậy, văn hóa là cơ sở định hướng cho thế ứng xử tốt đẹp của cá nhân và
cộng đồng dân tộc:
Năm 1991, trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm đã
định nghĩa văn hóa như sau:
“Văn hóa là một hệ thống hữa cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động,
vật thể và phi vật thể…) do con người sáng tạo ra và tích lũy qua q trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
(Trần Ngọc Thêm, 1999, tr. 16-17).

Từ đó, tác giả nêu lên bốn đặc trưng và gắn liền với chúng là bốn chức năng
của văn hóa đó là: tính hệ thống với chức năng tổ chức xã hội; tính giá trị với chức
năng điều chỉnh xã hội; tính nhân sinh với chức năng giao tiếp, tính lịch sử với chức
năng giáo dục.
Trong những quan niệm về văn hóa nêu trên, mỗi quan niệm nhìn nhận bản
chất văn hóa ở một góc độ riêng, nhưng đều coi văn hóa là sản phẩm hoạt động của
con người thông qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên và với xã hội.
Những sản phẩm đó ln hướng con người tới chân, thiện, mỹ; gắn bó chặt chẽ cuộc
sống của con người.
Định nghĩa văn hóa của UNESCO: trong bản tuyên bố chung của Hội nghị có
nêu lên một quan niệm về văn hóa như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và
vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, tập tục và tín
ngưỡng. Chính văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, làm
cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đốn
được những giá trị thực và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện mình, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án
chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng


12

biết mệt về những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên
bản thân mình” (Đại hội đồng UNESCO, 1982)
Từ định nghĩa văn hóa của UNESCO chúng ta thấy: Văn hóa là đời sống tinh
thần của xã hội – vì thế, văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng xã hội; nó là tổng thể
những nét riêng biệt về vật chất và tinh thần, trí tuệ và xúc cảm tạo nên bản sắc của

một dân tộc, một cộng đồng xã hội; nó có yếu tố cốt lõi là hệ giá trị, đóng vai trị điều
tiết hoạt động của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội ấy.
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh: trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật
ký trong tù, Hồ Chí Minh đã ghi lại một cách hiểu của mình về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đời hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, 2011, tr. 458).
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy: Văn hóa đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất:
Đó là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình.; nó khơng chỉ thu
hẹp trong lĩnh vực văn học – nghệ thuật mà văn hóa bao trùm lên tồn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội; văn hóa cũng khơng chỉ thu hẹp trong lĩnh vực giáo dục,
không chỉ phản ánh trình độ học vấn của một người, mà là thước đo trình độ phát
triển của tồn xã hội: về sản xuất, khoa học – kỹ thuật, chính trị, tơn giáo, văn học –
nghệ thuật, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán …
Từ việc hệ thống hóa sơ bộ những cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, có
thể suy rộng ra: Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo. Các giá trị đó được các thế hệ kế thừa, vận dụng vào cuộc sống và
được lưu truyền từ đời này sang đời khác để tạo nên những đặc trưng và bản sắc
của từng dân tộc.


13

Khái niệm chung về văn hóa ứng xử
Khái niệm ứng xử

Ứng xử là khái niệm ghép gồm hai từ “ứng” và “xử”. Mà ứng và xử lại bao
gồm nhiều nghĩa khác nhau: ứng phó, ứng đáp, ứng đối, ứng biến và xử sự, xử lý,
xử trí, xử thế, hành xử…Khái niệm ứng xử có thể được hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau:
Dưới góc độ sinh học: Ứng xử nghĩa là tồn thể phản ứng thích nghi có thể
quan sát khách quan mà một cơ chế có một hệ thống thần kinh thực hiện để đáp trả
lại những sự kích thích…Điều đáng chú ý là những phản ứng ấy, những ứng xử,
xử lý để đáp ứng cơ chế kích thích, tác động “được diễn ra theo cách tương đối ổn
định” thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, ...của đối tượng bị tác động.
Dưới góc độ tâm lý học: Ứng xử được khai thác dưới khía cạnh những quan
hệ giao tiếp. Điều đó lí giải vì sao vấn đề ứng xử đã được nhiều người sử dụng
khái niệm kép: giao tiếp - ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với
tự nhiên, con người với xã hội và con người với chính mình.
Dưới góc độ xã hội học: Ứng xử được hiểu là:
“Cách hành động và nói như thế nào đó của một vai trị này đối diện với một
vai trò khác (tức một cặp vai trò như vợ/ chồng, cha/ con, cấp trên/ cấp
dưới…). Và đó là những hành động hoặc gọi là phản ứng, theo một cách tương
đối” (Nhiều tác giả, tr. 24).
Ứng xử được dùng để chỉ hành động mang tính phản ứng trên cơ sở người
đó đóng vai trị như thế nào đối với đối tượng cần ứng xử.
Từ những nội dung trên có thể hiểu: “ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp,
là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác hay môi trường tự
nhiên với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành vi,
cử chỉ, cách nói năng của con người, nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa
con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là
những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và
cách nói năng của cá nhân với những người xung quanh”.


14


Khái niệm văn hóa ứng xử.
Trong cơng trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm khơng
trình bày một cách trực tiếp khái niệm văn hóa ứng xử nhưng ông đã xác định được
những nội hàm của khái niệm này. Theo tác giả, các cộng đồng chủ thể văn hóa tồn
tại trong quan hệ với hai loại mơi trường: Mơi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí
hậu…) và môi trường xã hội (các dân tộc, các quốc gia). Với mỗi loại mơi trường
đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng: tận dụng mơi
trường (tác động tích cực) và ứng phó với mơi trường (tác động tiêu cực). Với mơi
trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn, uống, tạo ra các vật dụng hàng ngày…; Đồng
thời phải ứng phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu
và thời tiết (quần áo, nhà cửa…). Với mơi trường xã hội, bằng q trình giao lưu và
tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc
lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó
với họ trên các mặt trân quân sự, ngoại giao… (Trần Ngọc Thêm, 1999, tr. 16-17).
Như vậy, theo tác giả văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội
có hai hàm nghĩa: tận dụng và ứng phó. Có thể coi đó là thái độ ứng xử. Cách thể
hiện thái độ này là giao lưu và tiếp biến văn hóa.
Trong cơng trình “Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với mơi trường tnhiên” do
Nguyễn Viết Chức chủ biên thì cho rằng: “Văn hóa ứng xử bao gồm, những cách thức
quan hệ, thái độ và hành động của con người đối với môi trường thiên nhiên, đối với
xã hội và đối với người khác” (Nguyễn Biên Chức, 2002, tr. 54). Như vậy, văn hóa
ứng xử, theo các tác giả, gồm 3 chiều quan hệ: với thiên nhiên, xã hội và bản thân.
Có thể hiểu một cách khái quát:
“Văn hóa ứng xử là những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng
xử trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với các đối tượng khác nhau thể
hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý…trong quá trình phát triển
và hoàn thiện đời sống đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn
mực của cá nhân, nhóm xã hội, tồn bộ xã hội; phù hợp với đời sống xã hội,
với đặc trưng bản sắc của văn hóa một dân tộc, một quốc gia được cá nhân,



15

nhóm xã hội, cộng đồng, tồn bộ xã hội thừa nhận và làm theo” (PGS.TS
Phan Như Hoa (chủ biên), 2002, tr. 18)
Vai trị của văn hóa ứng xử
Thứ nhất, văn hóa ứng xử là một thành tố của văn hóa tinh thần, thể hiện trí
tuệ và nhân văn, phản ánh đời sống tâm hồn tình cảm của cá nhân và cộng đồng
trong hoạt động thực tiễn xã hội.
Thứ hai, văn hóa ứng xử là một phương diện để thể hiện nhân cách và bản lĩnh
của con người trong hoạt động thực tiễn. Ứng xử có phần phụ thuộc nhất định vào cá
tính, khí chất… của mỗi cá nhân, nhưng chủ yếu và quyết định là thuộc vào quá trình
học tập, rèn luyện, tức là vốn văn hóa, đạo đức, sự trải đời của mỗi người. Có cách
ứng xử đầy bản năng lại có cách ứng xử rất văn hóa, qua cách ứng xử có thể thẩm
định được nhân cách của một con người.
Thứ ba, nếu xem văn hóa ứng xử là một hoạt động thì đó là hành vi ứng xử
nhằm thực hiện các khn mẫu mang tính lý tưởng kết tinh những giá trị và chuẩn
mực mà cá nhân và cộng đồng hướng tới. Khuôn mẫu ứng xử là các hành động ứng
phó và xử lý được lặp lại một cách lâu bền ở đa số cá nhân trong cộng đồng xã hội
thuộc Khuôn mẫu ứng xử các cấp độ khác nhau, từ địa phương nhỏ (làng, xã,
huyện), đến vùng, miền, cả nước, khu vực và thế giới. Nó được tổng quát hóa, tiêu
chuẩn hóa và hợp thức hóa để làm mẫu mực chỉ dẫn cho các cá nhân và cả cộng đồng
xã hội đó. Khn mẫu ứng xử phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, môi trường xã
hội và mơi trường văn hóa.
Thứ tư, văn hóa ứng xử còn thể hiện rõ nét qua kỹ năng ứng xử. Kỹ năng ứng
xử không phải trên trời rơi xuống, cũng khơng phải do di truyền mà phải thơng qua
q trình học tập, rèn luyện kỹ năng ứng xử từ hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng tư
tưởng, đạo đức, lối sống có văn hóa. Các kỹ năng này được hình thành chủ yếu qua
con đường giáo dục.

Thứ năm, văn hóa ứng xử cịn thể hiện qua cách nói, viết của con người. Đây
chính là ngơn ngữ của cử chỉ, là phương tiện thể hiện văn hóa của con người, nó
phản ánh quá trình hoạt động tạo ra lối suy nghĩ của con người. Ngôn ngữ gắn liền


16

với học vấn và tính cách của con người, nó cho phép chia sẻ xúc cảm, tình cảm, ý
nghĩ, kinh nghiệm, khát vọng, trí nhớ, nhu cầu, tư tưởng của con người.
Bên cạnh hành vi, kỹ năng, ngôn ngữ, chữ viết thì thái độ ứng xử là một vấn
đề có tính chất định hướng cơ bản và thường xuyên cho văn hóa ứng xử (thái độ lựa
chọn các khn mẫu ứng xử, thái độ thể hiện kỹ năng ứng xử…). Nghĩa là thái độ
đóng vai trị định hướng và có ý nghĩa xuyên suốt của văn hóa ứng xử. Nó là một
phần nền tảng và có tính định hướng của văn hóa ứng xử.
Tóm lại: Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Đó chính là
hệ thống giá trị, chuẩn mực quy định cách thức ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng
đồng. Ở góc độ cá nhân, văn hóa ứng xử là thái độ, lời nói, hành vi của con người
trước sự tác động của con người hay các yếu tố khác thể hiện sự hiểu biết, bản chất
nhân cách của mỗi cá nhân trong các tình huống giao tiếp nhất định.
1.1.2. Nội dung cơ bản trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Văn hóa ứng xử truyền thống của dân tộc Việt Nam
Văn hóa ứng xử là một bộ phận khơng thể tách rời của văn hóa nói chung, do
đó nó cũng mang những đặc trưng cơ bản của văn hóa nói chung như tính biểu
tượng, tính xã hội, tính tín hiệu, tính chuẩn mực, tính đánh giá, tính sáng tạo, tính
nhân văn đặc biệt là tính bản sắc và tính trường tồn. Điều đó có nguồn gốc sâu xa hay
cũng có thể nói là bị quy định trước tiên bởi điều kiện của mơi trường thiên nhiên. Vì
vậy ở những vùng địa lý khác nhau thì có đặc điểm ứng xử tiêu biểu riêng.
Việt Nam nằm ở góc tận cùng phía Đơng – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm mưa
nhiều, có nhiều sông lớn và đồng bằng phù sa màu mỡ nên Viêt Nam rất thích hợp để

phát triển nền nơng nghiệp lúa nước. Do đó văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa
gốc nơng nghiệp. Đặc điểm quan trọng này có tác động khơng nhỏ đến việc hình
thành những đặc điểm cơ bản trong văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam như sau:
Một là, văn hóa ứng xử của người Việt mang tính cộng đồng. Xuất phát từ
nền nông nghiệp lúa nước theo thời vụ, người dân đất Việt sống hài hịa, gắn bó với
nhau để nương tựa, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong lao động, sản xuất và sinh hoạt hàng


17

ngày. Tính cộng đồng đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính cách, trong bản sắc văn
hóa Việt Nam, chi phối đến đời sống và các quan hệ ứng xử của người Việt.
Tính cộng đồng khi nó tạo nên truyền thống ứng xử tốt đẹp của dân tộc ta, đó
là tinh thần đồn kết, tương thân tương ái, là sự gắn bó, sẻ chia lúc khó khăn hoạn
nạn đối với đồng bào mình như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một
nước phải thương nhau cùng”; “Thương người như thể thương thân”; “Lá lành đùm
lá rách”; “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”…
Xuyên suốt dòng chảy của thời gian, tính cộng đồng trong văn hóa ứng xử của
dân tộc Việt được vun đắp bởi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đó là
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, đùm bọc thương yêu lẫn nhau…Trải qua
hàng nghìn năm phong kiến Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và mấy thập niên
chống đế quốc Mỹ xâm lược, không chỉ nhân dân Việt Nam mà cả nhân dân thế giới
đều nhận thấy chính sự cố kết của cộng đồng dân tộc Việt Nam biểu hiện qua lòng
yêu nước của nhân dân ta, qua tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái … đã tạo
thành sức mạnh vô địch đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người đã tổng kết đặc điểm ứng xử cơ bản này của dân tộc Việt Nam trong
bài viết về lòng yêu nước của dân tộc, qua đó ta hiểu rằng, chính tính cộng đồng đã
tạo nên “một làn sóng vơ cùng to lớn, mạnh mẽ, nhấn chìm mọi bè lũ cướp nước và
bán nước”.
Là một người con của dân tộc, đặc điểm văn hóa này chi phối tới cách ứng xử

của Hồ Chí Minh. Chính trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, đã thơi thúc Người ra đi
tìm đường cứu nước. Chính lịng u nước, nỗi trăn trở với nỗi đau của dân tộc mình
là động lực vơ cùng to lớn giúp Hồ Chí Minh vượt qua tất cả trở ngại, vất vả để đạt
được mục đích của mình. Sau này, khi đã trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam,
trong quá trình làm việc hay khi đi thực tế, thăm hỏi nhân dân, Người vẫn luôn giữ
thái độ tôn trọng ý kiến tập thể, tôn trọng cộng đồng.
Hai là, người Việt Nam có lối ứng xử trọng tình nghĩa. Cuộc sống cộng đồng
ở làng xã đã tạo ra sự đồn kết gắn bó, đùm bọc lẫn nhau, đó là ngọn nguồn của nếp
sống “trọng tình” trong truyền thống ứng xử của người Việt. Cả cuộc đời và qua


18

nhiều đời, người dân Việt Nam thường chỉ làm ăn, sinh sống ở làng, mọi người thân
quen, gắn bó với nhau trong mối quan hệ bền chặt là huyết thống và làng giềng nên
bị chi phối bởi quan niệm: “bán anh em xa mua làng giềng gần; hàng xóm tối lửa tắt
đèn có nhau” chính lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa là một nét đẹp trong
truyền thống của dân tộc ta. Truyền thống đó tạo ra cuộc sống hịa thuận, lấy tình
nghĩa làm đầu; tình cảm trở thành thước đo giá trị trong mọi hành vi ứng xử của con
người, lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử: “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau
ghét cả tông ti họ hàng”
Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời.
Trong gia đình thì: Vợ chồng là nghĩa ở đời, Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn (ca
dao). Ngồi xã hội, ai giúp mình một chút gì đều phải nhớ ơn; ai bảo ban mình một tý
gì cũng đều tơn làm thầy: Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.
Điều này giúp ta dễ dàng lí giải vì sao trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ ta và chính Người cũng là tấm gương sáng
về vấn đề này khi nói: “hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin được” (Hồ Chí Minh, 2011, tr. 668).

Ba là, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng bởi lối sống hài hòa, linh hoạt của
con người Việt Nam.
Nghề trồng lúa nước buộc con người phải sống phụ thuộc, giao hòa với đất,
với nước theo thời tiết thiên nhiên. Triết lý sống hài hịa với mơi trường thiên nhiên
cịn thể hiện ở quan niệm Thiên - Địa – Nhân hay thiên - nhân hợp nhất. Con người
sống dựa vào trời đất, chết lại trở về với đất. Do vậy, con người và thiên nhiên là một
khối liên thông bền chặt; trong đó con người phải hịa đồng với thiên nhiên. Đặc
điểm này góp phần khơng nhỏ làm nên lối ứng xử lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên
của Hồ Chí Minh trong suốt quãng đời hoạt động cách mạng. Đặc biệt trong thời
gian bị tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, Bác đã từng ngân nga những câu thơ để tự
an ủi mình “Vật chất tuy đau khổ, không nao núng tinh thần” hay lạc quan với “Hết
mưa là nắng hửng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời”. Khơng chỉ hài hịa với thiên


19

nhiên, trong tự bản thân mỗi người mà người Việt Nam còn sống rất hài hòa, linh
hoạt trong quan hệ xã hội để sống khơng mất lịng ai, chiến thắng nhưng không làm
kẻ thù mất mặt … Điều này được chứng minh rất rõ nét trong cách ứng xử của ông
cha ta trong lịch sử. Nối tiếp truyền thống ứng xử của các bậc anh hùng dân tộc, bằng
tấm lòng nhân đạo và tình u thương con người, Hồ Chí Minh, đã đánh thức lương
tri của lính Pháp và lính lê dương thuộc nhiều quốc tịch khác nhau đã chạy sang hàng
ngũ Việt Minh, sát cánh cùng dân ta trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp 19461954. Trong kháng chiến chống Mỹ, với chính sách khoan hồng của chính phủ Hồ
Chí Minh, đã có rất nhiều câu chuyện cảm động về tinh thần hòa hiếu, khoan dung,
độ lượng của bộ đội, nhân dân ta đối với kẻ thù.… Có lẽ nếu khơng hiểu sâu sắc về
đặc trưng văn hóa Việt Nam, khơng nắm bắt được truyền thống hịa hiếu, khoan
dung của dân tộc thì sẽ khó có thể lý giải được những hành động này.
Việc chú trọng các mối quan hệ cũng dẫn đến con người Việt Nam có một lối
ứng xử năng động, linh hoạt có khả năng thích nghi cao với mọi tình huống, mọi
biến đổi. Vì vậy, tính linh hoạt trong ứng xử của nền văn hóa Việt Nam cũng như

con người Việt Nam khi giao lưu thể hiện ở sự sàng lọc, bỏ thô lấy tinh, tích lũy qua
thời gian làm cho các giá trị văn hóa ứng xử của dân tộc thêm phong phú, đa dạng
góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao văn hóa ứng xử cho mỗi người con của dân
tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự linh hoạt trong q trình
tiếp thu văn hóa dân tộc và nhân loại.
Giá trị văn hóa ứng xử của nhân loại
Ngồi sự kế thừa những đặc điểm văn hóa dân tộc làm nên “người Việt Nam
nhất trong những người Việt Nam”, Hồ Chí Minh cũng kế thừa một cách biện chứng
những thành tựu văn hóa của nhân loại để hình thành văn hóa ứng xử của mình.
Trước hết, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh mang cốt cách của sự ứng xử người
phương Đơng.
Xuất thân từ một gia đình khoa bảng, cho nên Nho giáo là vốn tri thức Người
đã tiếp thu thuở ấu thơ. Nho giáo thấm vào tư tưởng, tình cảm của Người khơng
cịn là học thuyết khơ khan về tơn ti đẳng cấp, mà là tấm lịng, nỗi trăn trở về số


20

phận của đất nước, của dân tộc. Người rất trân trọng các giá trị tích cực của học
thuyết Nho giáo. Một trong những nội dung quan trọng của Nho giáo được Hồ Chí
Minh tiếp nhận trong sự ứng xử của người lãnh đạo với quần chúng nhân dân đó là
tư tưởng “lấy dân làm gốc”; “dân vi bang bản, bản cố bang ninh” (dân là gốc của
nước, nước có vững dân mới n ổn). Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dễ trăm lần
khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; rồi những phương pháp xử
thế của người xưa cũng được Người kế thừa và vận dụng trong ứng xử với mình và
với người: Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân (điều mình khơng muốn thì đừng làm cho
người khác). Tư tưởng này đã được Hồ Chí Minh vận dụng xuyên suốt trongquá
trình hoạt động cách mạng của Người mà trước hết được biểu hiện ở lòng tơn q
của Hồ Chí Minh về vai trị của con người và được Người khái quát qua triết lý của
cuộc sống: nghĩ cho cùng, mọi vấn đề là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm

người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức. Người
khẳng định: “Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay
đổi” (Võ Nguyên Giáp, 1993, tr. 47)
Hồ Chí Minh tiếp nối và phát huy ở một tầm cao mới, mang một nội dung
mới, sâu sắc và tồn diện. Tình thương đó, trước hết dành cho nhân dân lao động,
cho những người cùng khổ bị áp bức, đoạ đầy. Từ tình thương yêu đồng bào mình,
dân tộc mình, Người mở rộng lịng u thương đó đến tất cả nhân loại khổ đau bởi áp
bức, bóc lột, bất cơng. Đứng trên lập trường của giai cấp vơ sản, tình u thương con
người đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành chủ nghĩa nhân văn cách mạng. Người
quan niệm: trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì
mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân và:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Hồ Chí Minh, 2011, tr. 89)
Mặt khác, tinh hoa văn hóa ứng xử của phương Đơng nói chung và Nho giáo
nói riêng được đúc kết trong “ngũ tri”: Tri kỉ, tri bỉ, tri thời, tri chi, tri biến. Hồ Chí
Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết đó để đưa vào cách ứng xử của mình:
Biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa.


×