Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

SKKN phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD bậc trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.78 KB, 28 trang )

Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO AN GIANG
TRƢỜNG THPT CHU VĂN AN
Tổ: GDCD-HN-NGLL.

ĐỀ TÀI

PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY- HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN



( BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG )

CDPL

Người thực hiện: Ngô Thành Y – ĐT: 0919.716920

Năm học: 2018 - 2019

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”

MỤC LỤC
-----------------------Số
TT
1


2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

I.

Sơ lƣợc lý l

II. Tên sáng kiến
III. Lĩnh vực

IV. Mục đích yêu cầu sáng kiến
1.

Thực trạng ba


2.

Sự cần thiết

3.
3.1. Cơ sở lí luận
3.2. Giải pháp thực hiện


3.3.

Nội dung sang





V. Hiệu quả đạt đƣợc của sang kiến
VI.
VII.

Mức độ thứ nh
Mức độ thứ ha
Mức độ thứ ba
Mức độ thứ tƣ

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.

Quan niệm về

Tình huống có


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
PHỤ LỤC 1:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHIẾU ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN
1.
2.
3.
4.

Họ và tên ngƣời đăng ký: NGÔ THÀNH Y.
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trƣờng THPT Chu Văn An.
Nhiệm vụ đƣợc giao trong đơn vị: Giảng dạy lớp 10C1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11; 12C 1, 9, 10.

- Tên đề tài sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN
- Lĩnh vực đề tài sáng kiến: Phƣơng pháp dạy – học.
5.
-

Tóm tắt nội dung sáng kiến:
Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến.
Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến.
Nội dung sáng kiến, bao gồm:
+ Cơ sở lí luận

+ Giải pháp thực
hiện. - Hiệu quả đạt
đƣợc.
- Mức độ ảnh hƣởng của sáng
kiến. - Kết luận.
7. Thời gian, địa điểm, công việc áp dụng sáng kiến:
Thời gian: Từ năm 2014 đến nay (2019).
Địa điểm: Tại trƣờng THPT Chu Văn An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
- Công việc: áp dụng phƣơng pháp nêu vấn đề trong giảng dạy mơn GDCD nói chung và
nhất là nội dung công dân với pháp luật lớp 12.
8. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Đề tài “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG

DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG” là những lớp do tơi trực tiếp giảng dạy, chủ yếu là học sinh lớp 12 trƣờng THPT

Chu Văn An.
9. Kết quả đạt đƣợc: Đa số học sinh đều thấy thoải mái, thích giờ GDCD, nắm kiến thức và
khả năng vận dụng kiến thức pháp luật tốt để giải quyết hiệu quả những vấn đề có liên quan
trong cuộc sống.

An Giang, ngày 09 tháng 02 năm 2019
Tác giả

Ngô Thành Y

PHỤ LỤC 2:


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.



Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”

Kết quả thực hiện sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.

I. Sơ lƣợc lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Ngô Thành Y;
-

Nam, nữ: Nam.

Ngày tháng năm sinh: 09/9/1969

Nơi thƣờng trú: ấp Vàm Nao, Xã Tân Trung, Huyện Phú Tân, Tỉnh An
Giang.
-

Đơn vị công tác: Trƣờng THPT Chu Văn An.

-

Chức vụ hiện nay: Tổ trƣởng chuyên môn, giáo viên dạy lớp.

-

Lĩnh vực công tác: Tổ trƣởng chuyên môn, giảng dạy.

II. Tên sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.

III. Lĩnh vực: Phƣơng pháp dạy - học.
1. Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến:
Môn giáo dục công dân (GDCD) là một môn khoa học xã hội có vai trị quan trọng
trong việc trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học cơ bản, phổ thông, thiết thực về đạo
đức, pháp luật, đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc. Qua đó
hình thành và phát triển ở học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ và từng
bƣớc hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống.
Chúng ta sẽ khơng đạt đựợc những mục tiêu đó nếu nhƣ ngƣời dạy vận dụng không tốt các
phƣơng pháp trong giảng dạy môn GDCD. Nhất là áp dụng các phƣơng pháp để học sinh liên
hệ, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, trong đó có “phƣơng pháp nêu vấn đề trong giảng
dạy môn GDCD”
Với những mục tiêu, yêu cầu của mơn GDCD nhƣ đã nêu thì việc áp dụng các phƣơng
pháp dạy học của giáo viên ở trƣờng THPT trong thời gian qua chƣa đạt đƣợc hiệu quả giáo


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
dục của chƣơng trình đã đặt ra. Vì một trong những trọng tâm của đổi mới chƣơng trình, sách
giáo khoa là tập trung vào đổi mới phƣơng pháp dạy – học, thực hiện dạy - học dựa vào hoạt
động tích cực, chủ động của học sinh dƣới sự tổ chức, hƣớng dẫn của giáo viên nhằm phát
triển tƣ duy độc lập, sáng tạo, góp phần hình thành phƣơng pháp và nhu cầu tự học, tạo niềm
tin và hứng thú cho học sinh trong học tập. Thì việc vận dụng “phƣơng pháp nêu vấn đề trong
dạy – học môn GDCD” là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Để góp phần đào tạo những con ngƣời mới phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu
của địa phƣơng, của đất nƣớc trong tình hình mới.
Để nâng cao chất lƣợng dạy - học cho phù hợp với mục tiêu của giáo dục hiện nay trong
tình hình mới, một yêu cầu đƣợc đặt ra cho ngƣời giáo viên là phải đổi mới phƣơng pháp dạy

học, chuyển phƣơng pháp dạy học từ lấy giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung
tâm, phát huy tích tích cực chủ động của học sinh trong q trình học. Mơn GDCD ở trƣờng
THPT cũng phải đáp ứng yêu cầu đó. Đổi mới phƣơng pháp dạy học đối với môn GDCD thực
chất là giải quyết vấn đề: Làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức
của học sinh? Hình thành và phát triển kỹ năng học tập bộ môn GDCD cho học sinh, giáo viên
cần đặt cho học sinh trƣớc những tình huống có vấn đề thực tế, sinh động nhằm kích thích sự
tìm tịi, sáng tạo của học sinh trong q trình học tập.
Đó là cách dạy học nêu vấn đề, nó đáp ứng đƣợc phần nào yêu cầu của nền giáo dục
hiện đại. Ngƣời thầy giữ vai trò là ngƣời hƣớng dẫn, học sinh chủ động, tự giác trong học tập.
Với một bài soạn đƣợc thiết kế theo nhiều tình huống khác nhau xoay quanh một chủ đề, bài
học với một vài đơn vị kiến thức nhất định, giáo viên sẽ điều khiển tồn bộ q trình học tập,
tổ chức để học sinh tham gia tích cực vào việc tự tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời
cũng tự đánh giá về những kết quả tiếp thu của bản thân. Đây là phƣơng pháp đƣợc vận dụng
nhiều không chỉ riêng bộ môn GDCD mà cịn trong các mơn khoa học khác nữa.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đổi mới phƣơng pháp dạy - học và kinh nghiệm của bản
thân trong thực tế giảng dạy vừa qua, tôi xin ghi nhận lại những việc đã và đang làm của bản
thân đạt đƣợc những kết quả nhất định trong việc áp dụng “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong
q trình giảng dạy mơn GDCD ở bậc THPT”.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Cơ sở lí luận: Luật giáo dục nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 đƣợc
Quốc Hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (ở điều 5, khoản 2) đã ghi nhận: “Phƣơng
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tƣ duy sáng tạo của

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
ngƣời học; bồi dƣỡng cho ngƣời học năng lực tự học, khả năng thực hành, lịng say mê học
tập và ý chí vƣơn lên”
Bản chất của dạy - học là quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Sự

tác động qua lại của quá trình trên làm cho các nhà khoa học sƣ phạm nghiên cứu và xây dựng
thành các phƣơng pháp dạy học. Trong đó phƣơng pháp “Nêu vấn đề” trong giảng dạy là một
thành tựu của lí luận về phƣơng pháp dạy - học. Các phƣơng pháp dạy cũ chủ yếu làm cho
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, thuộc lòng các đơn vị của kiến thức từng bài học, chủ đề nhất định.
Giáo viên dùng mọi cách để tác động vào học sinh sao cho trong một thời gian xác định học
sinh tiếp thu một khối lƣợng tri thức nhất định. Với phƣơng pháp giảng dạy nhƣ vậy, thì học
sinh sẽ tiếp thu tri thức một cách thụ động, khơng sáng tạo khó vận dụng tri thức đã tiếp thu
vào thực tế lao động, cuộc sống hằng ngày.
“Phƣơng pháp nêu vấn đề” trong giảng dạy sẽ kích thích nhu cầu tiếp nhận tri thức của
học sinh, từng bƣớc hình thành và phát triển tƣ duy độc lập, sáng tạo, biết tự đặt ra và giải
quyết những vấn đề của cuộc sống. “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong giảng dạy mơn GDCD”
ngồi việc cung cấp tri thức bộ mơn cho học sinh, nó cịn xây dựng và phát triển thói quen vận
dụng tri thức đã có để giải quyết những vấn đề, tình huống trong cuộc sống và nắm đƣợc bản
chất của sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan.
3.2. Giải pháp thực hiện
Giảng dạy môn GDCD ở trƣờng THPT là một trong những hoạt động giáo dục và giáo
dƣỡng của giáo viên, thông qua việc truyền đạt kiến thức để tác động đến học sinh nhằm hình
thành nhân cách cho các em. “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy - học mơn GDCD”, có vai
trị góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu đổi mới phƣơng pháp dạy - học môn GDCD. Sử
dụng các phƣơng pháp dạy - học môn GDCD là phải chú ý phát huy tính độc lập, sáng tạo của
học sinh để các em có thể xử lí tốt với mọi tình huống và tự giải quyết các vấn đề của cuộc
sống đặt ra. Giáo viên khơng chỉ có nhiệm vụ truyền thụ những kết luận có sẵn mà nêu ra
những tình huống có vấn đề để học sinh giải quyết.
*

Quan niệm về phƣơng pháp nêu vấn đề:
“Đặt ra” và “giải quyết vấn đề” là những thành tố tất yếu của dạy học nêu vấn đề. Với

tƣ cách là kết quả, giải quyết vấn đề sẽ hình thành ở học sinh sự hiểu biết bản chất của hiện
tƣợng hay sự kiện nào đó. Đƣơng nhiên, việc đặt ra và giải quyết vấn đề học sinh chỉ có thể

đạt đƣợc kết quả dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên và cùng với giáo viên thực hiện. Do đó,
giảng dạy nêu vấn đề là sự giải thích một hiện tƣợng hay một sự kiện nào đó thơng qua việc
đặt ra và giải quyết vấn đề do học sinh thực hiện cùng với giáo viên và dƣới sự hƣớng dẫn của

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
giáo viên. Nhƣ vậy, hạt nhân của giảng dạy nêu vấn đề là việc hình thành vấn đề, ở đây vai trị của
giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể dùng hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung kiến thức
của bài học/chủ đề và đối tƣợng học sinh để đƣa các em vào tình huống có vấn đề, hoặc dƣới sự
hƣớng dẫn của giáo viên học sinh có thể tự đƣa mình vào tình huống có vấn đề. Kết quả của việc
giảng dạy nêu vấn đề không chỉ là tổng số các đơn vị tri thức mà học sinh thu nhận đƣợc mà cịn
hình thành ở học sinh ý nghĩa bên trong của các hiện tƣợng, sự kiện tức là hiểu bản chất của sự
vật, hiện tƣợng, sự kiện. Trong khi giải quyết vấn đề, tùy theo mức độ câu hỏi và trình độ của học
sinh mà giáo viên có thể gợi ý hoặc khơng gợi ý để học sinh giải quyết vấn đề. Nhƣng quan trọng
nhất là sau khi học sinh giải quyết vấn đề xong, giáo viên phải nhận xét, đánh giá, hệ thống hóa tri
thức cần thu nhận, sản phẩm cần đạt đƣợc là những gì.

* Tình huống có vấn đề: Là sự mâu thuẫn giữa những tri thức đã biết với những tri thức chƣa
biết, mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết đƣợc nhờ vào sự tích cực trong suy nghĩ và sự sáng
tạo của học sinh trong học tập. Việc xác định đƣợc các tình huống có vấn đề trong bài dạy/ chủ
đề giữ vai trị quyết định sự thành cơng của giáo viên khi thực hiện “phƣơng pháp dạy - học
nêu vấn đề”. Trên cơ sở mục đích - yêu cầu của từng bài học/ chủ đề giáo viên sẽ xác định
những kiến thức nào là trọng tâm mà thầy và trò cùng giải quyết.
Ví dụ 1: Bài 1: “pháp luật và cuộc sống” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn đề thế này:
Pháp luật có phải là những điều cấm đốn, làm hạn chế tự do của con ngƣời khơng?
-

Vấn đề đƣợc đặt ra là: thống qua thì pháp luật là những điều cấm đoán làm hạn chế,


mất tự do của con ngƣời, nhƣng vấn đề đặt ra cho học sinh giải quyết “Pháp luật có phải là
những điều cấm đốn làm hạn chế tự do của con ngƣời khơng ?”
-

Hƣớng giải quyết vấn đề: giáo viên tiếp tục nêu vấn đề “Trong xã hội hiện nay nếu nhƣ

khơng có luật giao thơng đƣờng bộ thì sẽ thế nào ? Vì sao nhƣ thế ? hoặc giáo viên có thể nêu
vấn đề khác nhƣ: Trong gia đình cha mẹ khơng quy định gì về thời gian học hành, vui chơi,
giải trí,...nhƣng sau đó bất ngờ kiểm tra đột xuất và phạt nặng vì vi phạm những qui định “Tùy
hứng”, “chủ quan, áp đặt” của cha mẹ hoặc ở trƣờng không có nội qui, qui định thì việc học
tập, vui chơi của các em có thuận lợi khơng ? Vì sao nhƣ vậy ?
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Pháp luật
không
phải là những điều cấm đoán, làm hạn chế tự do của con ngƣời mà nó cịn tạo điều kiện thuận
lợi để mỗi con ngƣời đều đƣợc tự do trong lao động, học tập, vui chơi - giải trí, nghiên cứu
khoa học, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong khn khổ của pháp luật.
Ví dụ 2 : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn đề để củng cố
cả bài học: Hãy nêu một tình huống pháp luật có chứa đủ các hình thức thực hiện pháp luật ?


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
-

Vấn đề đặt ra là: Học sinh phải vận dụng kiến thức môn Ngữ Văn và kiến thức pháp

luật của môn GDCD để xây dựng một tình huống và chỉ ra bốn hình thức thực hiện pháp luật

trong tình huống đó.
-

Hƣớng giải quyết vấn đề: Giáo viên lƣu ý cho học sinh phải hiểu đƣợc nội dung của

bốn hình thức thực hiện pháp để từ đó đƣa vào tình huống cho phù hợp. Từ sử dụng pháp luật,
thi hành pháp luật, tuân thủ pháp luật đến áp dụng pháp luật một cách hợp lơgic, sát thực tiễn
cuộc sống.
-

Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Bằng cách lấy một

tình huống của học sinh làm tốt để chia sẻ cho cả lớp tham khảo. Hoặc giáo viên nêu ra một
tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Ông Trần Văn T vừa trúng đƣợc hai vé số đặc biệt. Do có
kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nên Ơng quyết định thành lập cơng ty TNHH MTV xây
dựng “ TVT” và đƣợc cơ quan có thẩm quyền công nhận; Công ty “ TVT” thực hiện việc mở
sổ kế toán đúng quy định của pháp luật và đóng thuế đúng số, đủ kì; do chủ quan tin ngƣời
trợ lí nên Ơng Trần Văn T khơng kiểm tra việc thuê lao động, để cho ngƣời chƣa thành niên
làm những công việc nặng nhọc trên công trƣờng và bị thanh tra xây dựng xử phạt về hành vi
nhận ngƣời chƣa thành niên làm những công việc nặng nhọc trái với luật lao động”.
*

Bốn hình thức thực hiện pháp luật trong tình huống trên có thể nêu ra thế nhƣ

thế này:
+

Hình thức thực hiện pháp luật: Là Ơng Trần Văn T thành lập công ty TNHH xây dựng

“ TVT” và đƣợc cơ quan có thẩm quyền cơng nhận - quyền của Ơng T.

+

Hình thức thi hành pháp luật: Là Cơng ty “ Văn T” thực hiện việc mở sổ kế tốn đúng

quy định của pháp luật về thuế và đóng thuế đúng số, đủ kì - nghĩa vụ buộc mà Ông T phải
làm khi tham gia kinh doanh.
+

Hình thức tuân thủ pháp luật: Là Ông Trần Văn T sử dụng ngƣời chƣa thành niên làm

những công việc nặng nhọc trái với luật lao động đã qui định. Trong khi pháp luật về lao động cấm
sử dụng ngƣời chƣa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm - Ơng

+
Hình thức áp dụng pháp luật: Là Ơng Trần Văn T, giám đốc công ty TNHH xây
dựng “
TVT” bị cơ quan thanh tra xây dựng xử phạt về hành vi sử dụng ngƣời lao động chƣa đủ tuổi
theo qui định của luật lao động để làm công việc nặng nhọc - thanh tra xây dựng là cơ quan có
thẩm quyền căn cứ vào qui định của pháp luật để xử lí vi phạm.


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
* Xây dựng hệ thống câu hỏi tình huống có vấn đề. Hệ thống câu hỏi bao gồm câu hỏi tái
hiện, so sánh, phân tích, khái qt hóa, tìm tịi phát hiện....để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn
đề do giáo viên đặt ra.
Ví dụ : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12) phần “Bản chất xã hội của pháp luật”
Giáo viên có thể nêu các câu hỏi có vấn đề sau và yêu cầu học sinh giải quyết:

- Theo em, hai Nhà nƣớc có cùng một chế độ chính trị - xã hội thì pháp luật có
giống
nhau hồn tồn hay khơng ? Vì sao?
- Ở một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn khác nhau
pháp
luật có khác nhau hay khơng ? Vì sao?
Vấn đề đặt ra là: ở hai nhà nƣớc nhƣng có cùng một chế độ chính trị - xã hội pháp luật
có giống nhau khơng ? Vì sao ? Và ở trong một đất nƣớc, cùng một giai cấp thống trị thì ở
những giai đoạn khác nhau pháp luật có khác nhau hay khơng ? Vì sao ?
Hƣớng giải quyết vấn đề: Học sinh nắm đƣợc lý luận về Nhà nƣớc và pháp luật đã học
từ phần 2 lớp 11, những kiến thức của lớp 12, liên hệ thực tế nƣớc ta và các vốn kinh nghiệm
sống của các em sẵn có để giải quyết hai câu hỏi nêu trên, để từ đó đi vào nội dung “Bản chất
xã hội của pháp luật”
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề:
+

Những Nhà nƣớc có chế độ chính trị - xã hội giống nhau nhƣng pháp luật do các nhà

nƣớc đó ban hành khơng hồn tồn giống nhau, vì các nhà nƣớc đó tồn tại trong những điều
kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có những điều kiện lịch sử, phong tục tập quán và lối sống
khác nhau. (Nêu ví dụ cụ thể để chứng minh).
+

Ở cùng một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn phát triển

khác nhau pháp luật ln có sự thay đổi. Vì thực tiễn đời sống xã hội luôn vận động và không
ngừng thay đổi, làm cho các quan hệ xã hội cũng thay đổi theo. Do đó, pháp luật phải thay đổi
theo cho phù hợp xu thế phát triển của xã hội và những biến đổi trong đời sống. Giáo viên có
thể nêu hoặc yêu cầu học sinh nêu các ví dụ để chứng minh cho sự thay đổi của thực tiễn đời
sống xã hội làm cho pháp luật thay đổi theo.

* Học sinh nêu ra những cách giải quyết tình huống có vấn đề. Giáo viên ghi lên bảng và
cho học sinh chứng minh hay bác bỏ các cách giải quyết của học sinh. Dƣới sự hƣớng dẫn của
giáo viên, học sinh sẽ đối chiếu cách giải quyết của học sinh với kết quả cuối cùng để kết luận
nội dung bản chất xã hội của pháp luật nhƣ ví dụ trên và hƣớng dẫn học sinh ghi bài.
3.3. Trong “dạy - học nêu vấn đề mơn GDCD - bậc THPT” có thể phân thành bốn mức
độ sau đây:


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”



Mức độ thứ nhất: giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện
cách giải quyết vấn đề theo hƣớng dẫn của giáo viên. giáo viên đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Ví dụ: ở bài 1, lớp 12, phần 1. b- (các đặc trƣng của pháp luật/ tính quyền lực bắt buột
chung), giáo viên nêu vấn đề nhƣ thế này: Nếu khơng đảm bảo tính quy phạm phổ biến của
pháp luật thì điều gì sẽ xảy ra ? Nhà nƣớc sẽ làm gì đối với những ngƣời xử sự không đúng
với những qui định của pháp luật ?
Sau khi nêu vấn đề, giáo viên hƣớng dẫn học sinh cách giải quyết vấn đề, thông qua thực
tế cuộc sống. Bằng những ví dụ cụ thể hãy nêu ra những việc xảy ra nếu tính quy phạm phổ
biến của pháp luật không đƣợc thực hiện ? Nhà nƣớc làm gì khi có ai đó vi phạm pháp luật ?
Học sinh trả lời theo hƣớng dẫn của giáo viên, giáo viên ghi nhận những ý kiến của các
em trên bảng, cuối cùng giáo viên đánh giá kết quả của học sinh và kết luận nhƣ sau:
+

Nếu không đảm bảo đƣợc tính quy phạm phổ biến của pháp luật sẽ khơng đảm bảo


đƣợc sự cơng bằng, bình đẳng trong quá trình thực hiện pháp luật trong xã hội.
+
Những ngƣời xử sự không đúng với những qui định của pháp luật sẽ bị cơ quan
Nhà
nƣớc có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả cƣỡng chế, để buộc họ phải tuân
theo hoặc khắc phục hậu quả do việc làm trái pháp luật của họ đã gây ra.



Mức độ thứ hai: giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên, khi cần giáo viên và
học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 4, lớp 12, phần 3. bình đẳng trong kinh doanh, giáo viên nêu vấn đề: chính
sách và luật bình đẳng giới nƣớc ta qui định “Ƣu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ”,
theo em có mâu thuẫn với qui định nam, nữ bình đẳng trong kinh doanh hay khơng ? Vì sao ?

Giáo viên gợi ý để học sinh hiểu đựợc chính sách, luật luật đẳng giới và thực tế trong gia
đình và ngồi xã hội để các em giải quyết vấn đề, giáo viên kịp thời hỗ trợ để các em đi đúng
hƣớng và tự đánh giá, khi cần thì giáo viên có thể cùng học sinh đánh giá kết quả.
Học sinh và giáo viên đánh giá theo các nội dung sau đây: Chính sách bình đẳng giới
nƣớc ta quy định “Ƣu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ”, khơng mâu thuẫn với quy
định bình đẳng nam, nữ trong kinh doanh. Bởi vì, ngƣời phụ nữ có những đặc điểm về cơ thể,
sinh lí và các chức năng làm mẹ, làm vợ trong gia đình đã ảnh hƣởng không nhỏ đến việc
tham gia hoạt động kinh doanh của phụ nữ. Nên chính sách nhà nƣớc qui định nhƣ thế để đảm
bảo bình đẳng giữa nam và nữ trong kinh doanh.


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.



Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học mơn GDCD - Bậc trung học phổ thơng”
Ví dụ 2: ở bài 2, lớp 12, phần 2. vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí, giáo viên nêu
vấn đề để kiểm tra kiến thức cũ hoặc củng cố bài: Hãy nêu một tình huống pháp luật và chỉ ra
các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống đó.
Vấn đề đặt ra là: Học sinh phải vận dụng kiến thức liên môn để xây dựng một tình huống
và chỉ ra ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống đó.
Hƣớng giải quyết vấn đề: Giáo viên lƣu ý học sinh phải hiểu thế nào là hành vi trái pháp
luật, thế nào là ngƣời có năng lực trách nhiệm pháp lí và ngƣời vi phạm pháp luật phải có lỗi
là thế nào, từ đó xây dựng một tình huống sát thực tế cuộc sống nhƣng có đủ ba dấu hiệu của
vi phạm pháp luật trong đó.
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Bằng cách lấy một
tình huống của học sinh làm tốt, yêu cầu học sinh đó chia sẻ cho cả lớp hoặc giáo viên nêu ra
một tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Nguyễn Lê Trần, 21 tuổi là thợ hồ ở quê. Một hôm,
sau khi dự tiện mừng nhà mới, anh chạy xe gắn máy về nhà cùng một ngƣời bạn tên là Phan,
giữa đƣờng Trần gặp một ngƣời bạn cũ và kêu ngƣời bạn đó lên xe để trở về. Lâm nói: Anh
ấy khơng có nón bảo hiểm và nếu trở thêm một ngƣời nữa là quá số ngƣời qui định sẽ bị phạt,
nhƣng Trần khơng nghe và nói: Lúc này trƣa rồi chắc khơng cịn cảnh sát nữa đâu và cứ chạy
tiếp. Sau một đoạn đƣờng thì bị cánh sát giao thông dừng xe, lập biên bản xử phạt vi phạm
hành chánh”
* Ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống trên có thể nêu ra nhƣ sau:
+ hành vi trái pháp luật: Là Nguyễn Lê Trần, 21 tuổi lái xe khi đã uống rƣợu, chở ba,
chở ngƣời khơng đội nón bảo hiểm. Đã vi phạm qui định luật giao thơng đƣờng bộ;
+
Do ngƣời có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện: Là Nguyễn Lê Trần, 21
tuổi, bình
thƣờng (làm thợ xây dựng) là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm pháp lí theo qui định của
pháp luật;
+


Ngƣời vi phạm pháp luật phải có lỗi: Nguyễn Lê Trần biết lái xe khi đã uống rƣợu, chở

ba, chở ngƣời khơng đội nón bảo hiểm là vi phạm luật giao đƣờng bộ, nhƣng vẫn cứ vi phạm.

(Trần khơng nghe Phan khun và nói: “lúc này trƣa rồi chắc khơng cịn cảnh sát nữa đâu”
và cứ chạy tiếp)
Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh hiểu thế nào là hành vi trái pháp luật, ngƣời có năng
lực trách nhiệm pháp lí và thế nào là có lỗi, để củng cố bài thông qua ba dấu hiệu vi phạm
pháp luật trong tình huống.


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”



Mức độ thứ ba: giáo viên cung cấp thơng tin có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định
vấn đề nảy sinh , tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp, học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề, giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 6, lớp 12, phần 1.b- quyền đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân, giáo viên nêu vấn đề: Tính mạng, sức khỏe có vai trị nhƣ
thế nào đối với đời sống con ngƣời ? Nếu tính mạng của con ngƣời bị đe dọa thì dẫn đến
những hậu quả gì ?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, tự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề theo những
thơng tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả nhƣ sau:
+


Tính mạng, sức khỏe có vai trị hết sức quan trọng trong đời sống con ngƣời, nó là tiền

đề cho tất cả các hoạt động của con ngƣời. Nếu tính mạng, sức khỏe của con ngƣời bị đe dọa
thì mọi ngƣời trong xã hội sẽ khơng an tâm lao động, học tập và vui chơi giải trí và sẽ dẫn đến
xã hội mất ổn định, thiếu lành mạnh, khơng phát triển đƣợc.
+
Trong xã hội chúng ta tính mạng và sức khỏe của con ngƣời đƣợc đảm bảo an
tồn,
khơng ai đƣợc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của ngƣời khác.
+

Giáo viên có thể dẫn chứng các quy định của pháp luật nƣớc ta về quyền đƣợc đảm

bảo an tồn về tính mạng, sức khỏe để tăng thêm tính thuyết phục của phần kết luận.
Ví dụ 2: ở bài 8, lớp 12, phần 1. quyền học tập sáng tạo và phát triển của công dân, giáo
viên nêu vấn đề: em có nhận xét gì về quyền quyền học tập của công dân ở nƣớc ta hiện nay ?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, tự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề theo những
thông tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả nhƣ sau:
+

Mọi cơng dân nƣớc ta đều có quyền học tập không hạn chế, từ bậc tiểu học, trung học,

đại học và sau đại học;
+

Mọi công dân nƣớc ta đều có quyền học bất cứ ngành nghề nào nếu phù hợp với năng

khiếu, sở trƣờng và điều kiện của gia đình của mình;
+

loại

Mọi cơng dân nƣớc ta đều có quyền học thƣờng xuyên, học suốt đời. Với các

hình đào tạo khác nhau trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam;
+

Mọi công dân đều đƣợc Nhà nƣớc và xã hội đối xử công bằng về cơ hội học tập,

khơng phân biệt dân tộc, tơn giáo, giới tính, thành phần, điạ vị xã hội...Nhà nƣớc và xã hội có
chính sách khuyến học, khuyến tài.


Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”



Mức độ thứ tư: học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hồn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất
lƣợng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Ví dụ 1: ở bài 7, lớp 12, phần 1.b- nội dung quyền bầu cử và ứng vào các cơ quan đại
biểu của nhân dân, học sinh có thể nêu vấn đề thế này: Tại sao pháp luật lại hạn chế quyền bầu
cử, ứng của ngƣời bị tƣớc quyền bầu cử, ngƣời đang chấp hành hình phạt tù, ngƣời mất năng
lực hành vi dân sự,....?
Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề mà bạn mình vừa nêu, giáo viên
chỉ định một vài học sinh phát biểu ý kiến, kể cả học sinh nêu vấn đề này để xem cánh giải
quyết của em nhƣ thế nào. Sau đó giáo viên yêu cầu một học sinh phát biểu tốt nhất kết luận

vấn đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hƣớng sau đây: Hạn chế không cho
những đối tƣợng nêu trên bầu cử và ứng cử nhằm đảm bảo tính hiệu quả, chất lƣợng của mỗi
phiếu bầu cũng nhƣ ngƣời ra ứng cử. Phải đảm bảo cho việc bầu cử và ứng cử đạt đƣợc mục
đích đề ra là chọn đƣợc những ngƣời có tài, có đức thay mặt cho cử tri, cho nhân dân để quyết
định những vấn đề trọng đại và quản lí tốt những cơng việc của địa phƣơng, của đất nƣớc một
cách hiệu quả.
Ví dụ 2: ở bài 9, lớp 12, phần 2.d- nội dung nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ mơi
trƣờng, học sinh có thể nêu vấn đề thế này: Hiện nay tình trạng đổ rác xuống sơng rạch ở vùng
nông thôn là tƣơng đối phổ biến. Vậy thực trạng này nguyên nhân là do đâu ? Trách nhiệm
thuộc về ai và cần phải làm gì để chấm dứt ?
Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề vừa nêu, chỉ định một vài học sinh
phát biểu ý kiến để giải quyết vấn đề, kể cả học sinh nêu vấn đề này xem cánh giải quyết của
em thế nào, vấn đề này tƣơng đối dễ giáo viên nên chỉ định những học sinh ít phát biểu để rèn
luyện cho các em này kỹ năng nói. Sau đó giáo viên yêu cầu một học sinh phát biểu tốt nhất
kết luận vấn đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hƣớng sau đây:
+
Xác định lại thực trạng đó có phải là phổ biến ở vùng nơng thơn hiện nay
không ? Yêu
cầu học sinh cả lớp xác định.
+

Nếu đúng thì tìm nguyên nhân: do ý thức về bảo vệ môi trƣờng của ngƣời dân ở vùng

nông thôn chƣa tốt; do công tác tuyên truyền, giáo dục của nhà nƣớc chƣa làm hoặc làm chƣa
tốt; do chƣa tổ chức các xe thu gom rác ở những nơi đó... và yêu cầu học sinh xác định lại xem

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.



Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
nguyên nhân nào là cơ bản và phổ biến để xác định trách nhiệm thuộc về ai và tìm cách khắc
phục, để tiến đến chấm dứt tình trạng đổ rác xuống sơng rạch ở vùng nông thôn.
Nhƣ vậy, ở mức độ thứ tƣ này là mức độ cao nhất là học sinh tự nêu vấn đề và cách giải
quyết, tự đánh giá chất lƣợng, hiệu quả, giáo viên có ý kiến khi kết thúc. Mức độ này sẽ giúp
cho học sinh chủ động, tích cực trong tiếp thu lĩnh hội tri thức của môn GDCD và các kiến
thức xã hội khác đƣợc dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.
Trên đây là những giải pháp bản thân tôi đã áp dụng “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy
– học môn GDCD” lớp 12 ở trƣờng THPT Chu Văn An đạt hiệu quả trong thời gian vừa qua.
V. Hiệu quả đạt đƣợc của SKKN
Thực tế cho thấy việc áp dụng kinh nghiệm “Phƣơng pháp nêu vấn đề” trong giảng dạy
môn GDCD ở trƣờng trung học phổ thông đã giúp cho tiết dạy sinh động và hiệu quả hơn.
Giáo viên làm việc trên lớp nhẹ hơn trƣớc.
Một tiết học thời gian rất ít so với nội dung kiến thức của bài học, nhƣng sau khi áp
dụng đề tài này vào thực tiễn giảng dạy của mình thì mâu thuẫn giữa thời gian và nội dung
đƣợc giải quyết. Vì vậy, đây là một trong những phƣơng pháp rất phù hợp với việc dạy – học
GDCD trong trƣờng phổ thơng hiện nay, nó kích thích đƣợc tính tị mị, muốn tìm hiểu, có thể
xem là một biện pháp góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
Góp phần nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho học sinh trong nhà trƣờng và ngồi
xã hội, đồng thời các em cịn vận động, tuyên truyền cho ngƣời thân, bạn bè cùng thực hiện
những qui định của pháp luật .
Từ đây cũng nhận thấy đƣợc rằng thái độ, cách nhìn nhận của học sinh về bộ môn
GDCD đã đƣợc thay đổi dần, các em không cảm thấy quá nặng nề, quá khô khan mỗi khi vào
tiết học GDCD. Mà ngƣợc lại các em cảm thấy hứng thú khi đƣợc tự mình khám phá những
kiến thức có liên quan đến cuộc sống hằng ngày, hình huống gần gũi đối với học sinh đƣợc
giải quyết dễ dàng.
Nhờ việc áp dụng “phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” giúp học
sinh hiểu bài, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng kiến thức tốt hơn. Kết quả qua các năm
học đƣợc thể hiện qua các số liệu thống kê sau :

Năm học 2015 – 2016 áp dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy – học mơn GDCD
bậc THPT thì kết quả đƣợc nâng lên về khả năng tƣ duy, vận dụng kiến thức của học sinh để
giải quyết những vấn đề cụ thể mà cuộc sống đặt ra khá tốt và kết quả điểm số nhƣ sau :



NĂM HỌC 2015 – 2016:

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Khối
lớp
10
11
Với kết quả vừa nêu, chứng tỏ việc vận dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy –
học môn GDCD bậc THPT » bản thân tôi áp dụng mang lại kết quả khả quan trong việc giáo
dục học sinh theo phƣơng châm « học đi đơi với hành », gắn lý luận với thực tế cuộc sống.
Năm 2016-2017 loại giỏi tăng cao và tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học tốt
hơn, các em ham thích học giờ GDCD hơn kết quả nhƣ sau :



NĂM HỌC 2016 – 2017:

Giáo
STT

Lớp

viên

10C1
12C1
10C2
12C2
10C3
12C3
10C4
12C4
Ngô
10C5
1

Thành
Y

12C5
10C6
10C7
10C8
10C9
10C10
10C11

Tổng


số


 NĂM HỌC 2017 – 2018:
Vận dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy – học môn GDCD bậc THPT » mang lại
hiệu quả trong việc giáo dục học sinh sẽ góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học môn GDCD,
gúp học sinh gắn lý luận với thực tiễn đƣợc thuận lợi và hiệu quả hơn. Cụ thể nhƣ sau :
THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MƠN
MƠN GDCD - NĂM HỌC: 2017-2018
Giáo viên: Ngô Thành Y

Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.


Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”

S

Giáo viên chủ

T

Lớp
nhiệm

T

Tổng cộng
Khối

1

11


1

11C1

Trần Văn Lâm

2

11C2

Mai Văn Quí

3

11C4

Nguyễn Thị Hiền

4

11C5

Trần Thị Ngọc Hà

5

11C6

Nguyễn Hoài Ân


6

11C7

Nguyễn Thuỳ Nhi

7

11C8

Ung Thị Tú Trinh

8

11C9

Trần Thị Kim Bồng

9

11C10

Nguyễn Văn Lâm

11C11

Huỳnh An Lân

1

0

Khối

2

12

1
1
1
2
1
3
1
4

VI. Mức độ ảnh hƣởng:

12C1

12C6

12C7

12C11

Nguyễn Thị Thuỳ Trang

Mai Thanh Hồng


Phạm Thị Bích Thuỷ

Dƣơng Phƣớc Sang


×