Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quan điểm của đảng cộng sản việt nam về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

LÊ THỊ HỒNG

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

LÊ THỊ HỒNG

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Chuyên nghành: Triết học
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA

TP. HỒ CHÍ MINH - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa. Nội dung và
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực. Các tài liệu
sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

TP.HCM, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

LÊ THỊ HỒNG


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI......10
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CUẢ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .......................................... 10

1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa................................................................ 10
1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa................................................................ 14
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .................33

1.2.1. Giai đoạn hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ( từ Đại hội VI đến hết nhiệm kỳ Đại hội
VII của Đảng) ................................................................................................ 34
1.2.2. Giai đoạn phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ( từ Đại hội VIII đến Đại hội XII
của Đảng) ................................................................................................40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................ 49
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ........................................... 52
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN ĐIỂM ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .......................................... 52


2.1.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, dựa trên nền tảng
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. ........................................... 52
2.1.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ................. 57
2.1.3. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyền lực nhà

nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ........... 63
2.1.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề cao vai trị
“thượng tơn pháp luật” và ngun tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
quản lý xã hội ................................................................................................ 66
2.1.5. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển............ 68
2.2. Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .............................................................. 73

2.2.1. Ý nghĩa lý luận của quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa......................................................................... 73
2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ............................................................... 80
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................ 86
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 91


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền là kiểu tổ chức nhà nước và xã hội dựa trên nền
tảng dân chủ, tinh thần thượng tôn pháp luật và là thành tựu của tiến bộ xã hội.
Trong quá trình đổi mới đất nước, “Đảng ta đã nhận thức ngày càng
sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban
chấp hành Trung ương, 2015, trang 139). Có thể nói nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là nền dân chủ tiến bộ, không chỉ kết tinh những giá trị dân
chủ phổ quát của nhân loại, mà còn thể hiện những giá trị đặc trưng truyền
thống của văn hóa và con nguời Việt Nam. Trong đó nổi bật là tôn trọng,
đảm bảo quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân, gắn trực tiếp với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (được quy định trong
Hiến pháp năm 2013).
Đồng thời với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ tính tất yếu khách quan và cấp thiết của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là, Đảng ta
đã nhận thức rõ hơn
“Bản chất dân chủ và pháp quyền của Nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, 2015, trang 141).
Qua 30 năm đổi mới, công việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có bước chuyển biến tích


2

cực: các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được cụ thể hóa; dân chủ
trong các lĩnh vực xã hội nhất là trong lĩnh vực kinh tế đã có bước tiến rõ rệt;
ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân cũng từng bước được nâng lên; các
quan điểm mới về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể hiện
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và được thể chế hóa trong Hiến Pháp năm
2013 cùng các đạo luật của nhà nước; đồng thời, từng bước chúng được thể
hiện trong đời sống và mang lại kết quả tích cực.

Tuy nhiên trong nhận thức, “Lý luận về bản chất của hệ thống chính
trị và đổi mới hệ thống chính trị, về Đảng cầm quyền, về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa…còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa
lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, Ban chấp hành Trung ương, 2015, trang 144)
Còn trong thực tiễn
“Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong
bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…chưa thực sự hợp lý,
hiệu lực, hiệu quả… Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung
chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, cịn chồng
chéo; tính cơng khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.Kỷ
cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi cơng vụ cịn nhiều yếu
kém” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, trang 173-174).
Trong khi đó,
“Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị


3

ở nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, trang 185).
Tất cả những điều đó đã và đang gây cản trở, làm hạn chế đến việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Như vậy, cho đến nay công việc xây dựng phát triển và hoàn thiện lý
luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và việc hiện thực hóa chúng
trong thực tiễn cần phải được tiếp tục nghiên cứu phát triển và hoàn thiện.
Đề tài “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” góp phần làm sáng tỏ một
trong những vấn đề nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lý luận về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam được Hồ Chí Minh khởi
xướng, xây dựng và Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển, sáng tạo
trong thời kỳ đổi mới. Vì vậy, các cơng trình nghiên cứu trong lĩnh vực này
thường tập trung vào tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về
xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, về quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó,
phần tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài này tác giả không liệt kê dàn trải,
mà tập trung vào các hướng nghiên cứu sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật. Theo hướng nghiên cứu này, có các cơng trình tiêu biểu: Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật (Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý, Hà Nội, 1993); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật (Nguyễn Xuân Tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999); Nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật (Nguyễn Ngọc Minh,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Hồ Chí Minh bàn về nhà nước và
pháp luật (Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb. Pháp lý, Hà Nội,
2001); Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh (Bùi Ngọc Sơn, Nxb. Lý luận chính


4

trị, Hà Nội, 2004); Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh (Vũ Đình Hịe,
Nxb.Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, 2001); Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền (Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia, Hà
Nội, 2007); Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLênin về xây dựng nhà nước pháp quyền (Phan Ngọc Dũng, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009); Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới- Sự
hình thành và phát triển (Hồng Văn Hảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1995); và những cơng trình khác.
Trong các tác phẩm trên, các tác giả đã phân tích tương đối đầy đủ tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật (nhấn mạnh tư tưởng pháp
quyền) và vai trò của nhà nước, pháp luật trong việc tổ chức, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề quan hệ giữa luật pháp với đạo đức, văn hóa và vấn đề kết
hợp giữa giáo dục luật pháp với giáo dục đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa được các tác giả quan tâm đúng mức.
Thứ hai, những nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước kiểu mới- nhà nước pháp quyền dân chủ, của dân, do dân, vì dân. Theo
hướng nghiên cứu này có các cơng trình tiêu biểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân (Nguyễn Đình Lộc, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998); Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam (Phạm Ngọc Anh- Bùi Đình Phong, Nxb. Lao động, Hà Nội,
2003); Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Tơ Huy Rứa, Tạp
chí Cộng sản, số 1(122)- 2007); Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ (Phạm
Hồng Chương, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004); Phương pháp dân chủ
Hồ Chí Minh (Phạm Văn Bính, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); Xây
dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện Chính trị
Quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000); Tư tưởng Hồ Chí Minh về


5

xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam (Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên),
Nguyễn Xuân Tế- Bùi Ngọc Sơn, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, 2003);Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1998); Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh về
việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay (Phạm Ngọc
Quang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995); Tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam (Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên),
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2003); và những cơng trình khác.
Các cơng trình trên đã phân tích nhiều khía cạnh về tư tưởng và
phương pháp của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới- nhà nước
pháp quyền dân chủ của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Trong đó, nhiều
tác giả nhấn mạnh rằng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước kiểu mới là
nhà nước dựa trên nền dân chủ, là nhà nước do nhân dân lập ra và được
nhân dân ủy quyền; rằng, nhân dân lao động là người chủ của nhà nước và
thực hiện quyền làm chủ thơng qua hệ thống chính trị, hệ thống luật pháp…
Tuy nhiên, có vấn đề quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền kiểu mới chưa được các tác giả đề cập đầy đủ, sâu sắc và đúng
tầm quan trọng của nó.Đó là: (1) Hồ Chí Minh nhấn mạnh xây dựng “Nhà
nước kiểu mới” để phân biệt với “Nhà nước kiểu cũ” (nhà nước chủ nô, nhà
nước phong kiến, nhà nước tư sản là những nhà nước của một số ít người,
của giai cấp thống trị mà bản chất của chúng là thống trị, áp bức, bóc lột).
Cịn “Nhà nước kiểu mới” mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là nhà nước
của đa số người trong xã hội, của nhân dân lao động mà bản chất của nó là
dân chủ, vì dân; (2) Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đến xây dựng nhà nước
pháp quyền dân chủ để phân biệt với nhà nước quân chủ, với nhà nước
pháp quyền thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức… (3) Vấn đề kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật, giữa “đức trị” với “pháp trị” trong nhà nước


6

pháp quyền dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được phân tích kỹ hơn
trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới. Theo hướng nghiên cứu này, có nhiều cơng trình đáng chú ý: Xây

dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
(Nguyễn Văn Thảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006); Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền (Đỗ Nguyên Phương – Trần Ngọc
Đường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992); Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (Phạm Ngọc Quang- Ngơ Kim Ngân
đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007); Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân- Lý luận và thực
tiễn(Nguyễn Duy Quý – Nguyễn Tấn Viễn đồng chủ biên, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008); Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Trần Hậu
Thành, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Nguyễn Văn Yến –
Lê Hữu Nghĩađồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); Một số
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta (Trần
Thành, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009); Tìm hiểu đường lối đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội
XI) (Quý Long- Kim Thư, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2011); Quá trình đổi mới
tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay(Tô Huy Rứa, Hồng Chí Bảo,
Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tịng đồng chủ biên, Nxb. Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006); Đổi mới để phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam – Người lãnh
đạo cơng cuộc đổi mới (Nguyễn Đức Bình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,


7

2002); Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam (Nguyễn Văn Vinh chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007); Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong thời kỳ đổi
mới (Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt đồng chủ biên, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về
công cuộc đổi mới (Tơ Huy Rứa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006);
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (19862016) (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2015); Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứucác văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (Ban Tuyên giáo
Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016); Phê phán các quan
điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam (Hội đồng lý luận Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2015); và những cơng trình khác.
Trong các cơng trình trên, các tác giả đã phân tích cơ sở hình thành,
quá trình phát triển và nội dung quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị, đặc biệt là về pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyềnxã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, đưa ra các giải pháp để
hiện thực hóa quan điểm của Đảng trong cuộc sống.
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu hoặc nghiên cứu
chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về: Phương thức vừa lãnh đạo vừa cầm quyền của
Đảng; phương thức Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội; vấn đề cụ thể hóa và
vận dụng cơ chế “Đảng lãnh đạo- Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ”
trong xã hội; phương thức và biện pháp ngăn chặn lạm dụng quyền lực…
Như vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền và xây
dựng nhà nước pháp quyền dân chủ của dân, do dân, vì dân gắn trực tiếp với


8

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ đổi
mới đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, quản lý, lãnh đạo.
Những cơng trình đã công bố về lĩnh vực này là những tài liệu khoa học quý

giá giúp tác giả kế thừa, phát triển trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, phân tích làm rõ cơ sở hình thành và quá trình phát triển
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Thứ hai, phân tích làm sáng tỏ nội dung cơ bản của quan điểm Đảng
Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, luận chứng ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội
XII (2016) của Đảng.


9

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp

luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền dân chủ của dân, do dân, vì dân; các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích và tổng
hợp, lơgic và lịch sử, diễn dịch và quy nạp, hệ thống hóa và khái quát hóa
triết học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn trình bày hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Đó là tài liệu có ích phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy các môn
lý luận chính trị.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nội dung và kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp ủy, các cấp
chính quyền và người dân nâng cao được nhận thức về nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đó, có thể vận dụng, tham gia tích
cực vào cơng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương và 4 tiết.


10

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trước đổi mới, nền kinh tế Việt Nam được xây dựng theo mơ hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất. Chính mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (lạc hậu) và quan hệ sản
xuất (“tiên tiến” vượt qúa xa lực lượng sản xuất) đã đưa nền kinh tế lâm vào
cuộc khủng hoảng trầm trọng trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Rõ ràng là,
“Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một
thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, trang 23).
Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được thông qua tại Đại hội VI
của Đảng đã mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước. Trong lĩnh vực kinh
tế, chúng ta từ bỏ mơ hình kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, chuyển
hẳn sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là “Nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế


11

thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;

có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất” (Nguyễn Thế Nghĩa, 2018, trang 25)
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm
nêu trên không chỉ đặt ra yêu cầu mới về pháp quyền và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết (vật
chất và tinh thần) để nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, khái quát thành
những quan điểm về pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường ln có tính hai mặt; một mặt, kích thích lợi ích vật
chất, khơi dậy và lơi cuốn các nguồn lực (vật chất và tinh thần) cho phát
triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và do đó tạo ra nhiều hàng hóa có giá trị;
mặt khác, nó tác động, làm biến đổi các giai tầng xã hội, tạo ra thất nghiệp,
đói nghèo và phân hóa giàu nghèo, kích thích ham muốn vật chất, lối sống
tiêu dùng và có thể làm mai một giá trị đạo đức xã hội.
Để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường,
chúng ta phải tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết phải
“Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội. Giải quyết một phần quan trọng
việc làm cho người lao động và đảm bảo về cơ bản phân phối theo lao
động. Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta. Loại bỏ các nguồn thu nhập do làm ăn phi pháp mà có. Trong
sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, đặc biệt chú ý xây dựng quan hệ
xã hội và lối sống lành mạnh, khắc phục các hiện tượng tiêu cực; …Mở
rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của
nhân dân, củng cố kỷ cương xã hội; bảo đảm an ninh, trật tự công cộng,


12

thực hiện nguyên tắc: mọi người sống và làm việc theo pháp luật”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, trang 45).

Đáp ứng các yêu cầu nói trên, một mặt phải nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân, xiết chặt kỷ cương, kỷ luật xã hội; mặt khác, phải nghiên cứu
xây dựng quan điểm về nhà nước pháp quyền; đồng thời, từng bước thử
nghiệm chúng trong thực tiễn. Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, đáp ứng trực tiếp yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới về kinh tế - xã hội, chính trị.
Đổi mới kinh tế (xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa) tất yếu đi đến đổi mới chính trị.Bởi vì, kinh tế là cơ sở của
chính trị, cịn chính trị là phản ánh tập trung của kinh tế. Đổi mới chính
trị, trước hết phải dựa trên bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đặc điểm mới của
thực tiễn cách mạng để xây dựng hệ quan điểm về mô hình chủ nghĩa xã
hội, con đường và phương pháp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.Trong
đó, đặc biệt chú trọng quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Trong điều kiện đổi mới, bằng luật pháp và các
chính sách, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể huy động được
các nguồn lực to lớn để thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường, đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và
sớm đưa nước ta đạt tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Như vậy, “sự ra đời Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vừa là tất yếu kinh tế vừa là tất yếu chính trị, nó phản ánh tính
quy luật biện chứng của quá trình đổi mới ; đồng thời, thể hiện nhu
cầu phát triển toàn diện, đồng bộ của đất nước trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế” (Nguyễn Thế Nghĩa, 2018, trang 119)


13

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những quyết sách chiến

lược (như đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc) đã thúc đẩy chiến lược hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Đồng thời qúa trình hội nhập quốc tế lại trở thành điều kiện tất yếu, đặt
ra những yêu cầu mới và thúc đẩy không chỉ việc hình thành quan điểm về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà cịn đặt ra tính cấp bách phải thể
hiện quan điểm đó trong thực tiễn.
Trên thực tế, trong những năm qua việc “Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, trang
79)và “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia- dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2016, trang 153)đã thúc đẩy quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng
vào cộng đồng quốc tế. Việt Nam gia nhập vào các tổ chức, hiệp định, định
chế quốc tế (như Liên Hiệp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác
Á-Âu (ASEM), Diễn đàn kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…) đã và
đang đặt ra vấn đề lớn cho việc điều hành quản lý nhà nước đối với kinh tế xã hội và thích ứng với luật pháp quốc tế và điều này tất yếu “buộc” chúng ta
phải nhanh chóng hình thành nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước, nhất là đổi mới tư duy
chính trị; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà


14

bản sắc dân tộc và chủ động hội nhập quốc tế khơng chỉ tất yếu đưa chúng ta

đến hình thành quan điểm về nhà nước pháp quyền, mà còn tạo ra những
điều kiện hiện thực (vật chất, khoa học, pháp lý, chính trị, văn hóa…) làm cơ
sở cho việc nghiên cứu, hình thành quan điểm về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa; đồng thời, triển khai thực hiện nó trong thực tiễn.
1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa được hình thành không chỉ dựa trên cơ sở thực tiễn đổi mới và
hội nhập quốc tế, mà còn kế thừa những tinh hoa tư tưởng pháp quyền trong
lịch sử, nhất là tinh hoa tư tưởng pháp quyền mácxít và đặc biệt là kế thừa
trực tiếp tư tưởng về pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ
của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh.
*Những tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
- Tư tưởng pháp quyền ở phương Đông cổ đại:
Trong thời kỳ cổ đại, ở phương Đông đã sớm xuất hiện những tư
tưởng pháp quyền; trong đó nổi bật là tư tưởng “Pháp trị” của Pháp gia mà
đại biểu xuất sắc nhất là Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 TCN).
Theo Hàn Phi Tử, trong xã hội, nhất là xã hội có loạn lạc, để trị nước,
n dân thì dùng “Đức trị” sẽ khơng có hiệu quả mà phải dùng “Pháp trị”.
Bởi vì, (1) Con người vốn bản tình là “ác”, ln “tránh hại, cầu lợi” và hơn
nữa, tất cả các quan hệ xã hội đều hình thành, phát triển dựa trên lợi ích cá
nhân, do đó phải dùng pháp trị ( Hàn Phi Tử, Ngoại ngữ thuyết, Tả thượng);
(2) Luật pháp là khách quan, vừa mang tính phổ biến lại vừa mang tính cụ
thể, thiết thực, có thể giải quyết được những mâu thuẫn, xung đột; (3) Luật
pháp luôn nghiêm minh, phân định phải trái, đúng sai, thưởng phạt khách
quan và công bằng nên tránh được thiên vị, chủ quan.


15


“Pháp trị” của Hàn Phi Tử gồm ba yếu tố cơ bản: “Pháp - Thế- Thuật”.
“Pháp” là những nguyên tắc mang tính chuẩn mực của xã hội, quy định
những việc được làm và không được làm đối với vua chúa, quan lại và thần
dân; đồng thời quy định các tội danh và hình phạt tương ứng. Trong “Pháp”
Hàn Phi Tử thể hiện chủ trương “thưởng thật hậu và phạt thật nặng”, bởi lẽ “
Thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mau mắn mà làm; phạt
mà nặng thì điều mình ghét và cấm đốn, dân mới mau mắn mà tránh” (Hàn
Phi Tử, Lục phản).
“Thế” trước hết là địa vị, quyền uy của người đứng đầu chính thể (vua
chúa).Thế lực, địa vị, quyền uy này là “tôn quân quyền”, là thiêng liêng và
bất khả xâm phạm mà mọi người phải tn thủ.“Thế” có vai trị to lớn và sức
mạnh vơ biên, có thể thay thế được hiền nhân.“Chỉ có bậc hiền trí khơng đủ
trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trị của bậc hiền nhân vậy” (Hàn
Phi Tử, Nạn thế).“Thế” còn là thế lực, sức mạnh của dân, của nước và xu thế
phát triển của lịch sử (vận nước). Bởi lẽ, nếu khơng có “gió kích động” thì
làm sao có “cái nỏ yếu” lại đưa được mũi tên lên rất cao; và nếu không có
“sự trợ giúp của dân” thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ ( Hàn
Phi Tử, Nạn thế).
“Thuật” là cách thức, phương pháp, thủ đoạn và nghệ thuật dùng
người trong “phép trị nước”. Nội dung của“thuật” rất phong phú, tùy vào sự
vật, sự việc, con người và điều kiện cụ thể mà thuật có thể “thiên biến vạn
hóa”. Thuật dùng người, theo Hàn Phi Tử, phải “chính danh”, “theo danh mà
tránh thực” ( Hàn Phi Tử, Dương xác). “Bậc minh chủ không nên ỷ vào cái
lẽ bề tơi khơng phản mình, mà ỷ vào cái lẽ họ khơng thể gạt mình được”
(Hàn Phi Tử, Ngoại trừ tiết tả hạ).
Như vậy, trong “Pháp trị”, nếu “Pháp” là nội dung của trị nước, thì
“Thế” là cơng cụ, phương tiện đắc lực để thực hiện “Pháp”, còn “Thuật” trở


16


thành phương thức và nghệ thuật để thực hiện pháp một cách có hiệu quả.Vì
vậy, “Bậc minh chủ dùng luật như trời, dùng người như quỷ.Như trời thì
khơng trái, như quỷ thì khơng khốn.Lấy “Thế” mà hành giáo nghiêm ngặt thì
kẻ nghịch khơng dám làm trái…Sau đó “Pháp”mới thi hành nhất trí (Hàn Phi
Tử, Định Pháp).
- Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở Phương Tây thời kỳ cổ đại
Ở Phương Tây trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng về pháp quyền ra đời rất
sớm và luôn gắn với tư tưởng dân chủ.
“Nhà triết học Platôn (427-347 TCN) trong học thuyết “Nhànước lý
tưởng” đã phân chia trật tự xã hội thành 3 đẳng cấp: “(1) Những nhà
triết học chấp chính; (2) Vệ binh; (3) Nơng dân và thợ thủ
cơng.Trong đó đẳng cấp thứ nhất lãnh đạo, quản lý xã hội; đẳng cấp
thứ hai làm nhiệm vụ bảo vệ triều đình và đất nước; đẳng cấp thứ ba
chuyên sản xuất của cải vật chất” (M.Rô-Den-Tan và P.I-U-Din (chủ
biên), 1976, trang 697).
Và sự phân chia đẳng cấp này cần phải được luật hóa; bởi lẽ, ơng đã
“nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp
luật khơng có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó.Cịn ở nơi
nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền
chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tơi thấy có sự cứu thoát của nhà
nước” (Platon, 2005, trang 16)
Arittốt (384-322 TCN) là nhà triết học và “Nhà tư tưởng vĩ đại nhất
của thời cổ” (C.Mác) ln đề cao tính tối thượng của pháp luật trong một nhà
nước đúng nghĩa.Ông cho rằng, nhà nước có thực sự cơng bằng hay khơng là
vấn đề gắn với pháp luật; và trong xã hội có giai cấp, pháp luật là tiêu chuẩn
khách quan để điều chỉnh mọi quan hệ và giao tiếp trong xã hội.Vì vậy, nên
pháp luật cần được thượng tôn và ở trên tất cả.Trái lại, nếu pháp luật không



17

được thượng tơn thì hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước cũng khơng thể
tồn tại được. Arittốt cịn cho rằng, trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần ba
yếu tố: Nghị luận (cơ quan làm luật và trông coi việc nước), cơ quan thực thi
pháp luật và tòa án trông coi việc xét xử.
Như vậy, các nhà tư tưởng Hy lạp cổ đại không chỉ đưa ra tư tưởng về
pháp luật và xác lập vị trí, vai trị của pháp luật trong xã hội, mà còn đưa ra
tư tưởng về tổ chức nhà nước sao cho có thể thực thi pháp luật một cách có
hiệu quả; đồng thời, phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Đó
tuy mới chỉ là những mầm mống của tư tưởng nhà nước pháp quyền, song nó
lại là “nền tảng” quan trọng cho các tư tưởng và học thuyết về nhà nước
pháp quyền sau này ở Phương Tây.
- Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở Phương Tây thế kỷ XVII- XIX
Giơn Lốccơ (1632-1704) có nhiều cống hiến trong lĩnh vực chính trị
và pháp luật.Ơng được coi là nhà tư tưởng khơi nguồn của cách mạng tư sản.
Cả ba cuộc cách mạng lớn ở Phương Tây trong thế kỷ XVII-XVIII (cách
mạng tư sản Anh, cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ) đều chịu
ảnh hưởng từ tư tưởng về “pháp quyền tự nhiên” của Giôn Lốccơ. Đặc biệt
là trong tác phẩm “khảo luận thứ hai về chính quyền- chính quyền dân sự”,
ơng đã đưa ra mơ hình nhà nước với sự ngự trị của pháp luật và sự kiểm soát
lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Ông chỉ ra rằng, quyền lực
nhà nước không phải tự nhiên mà có, mà do nhân dân “chuyển nhượng” cho
nhà nước thông qua “khế ước xã hội”; rằng, quyền lực đó phải được phân
chia sao cho khơng để định chế chính trị nào được độc quyền, phải tạo nên
“sự kiềm chế và cơng bằng”, tức là cần có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
liên hiệp (Lốccơ không coi tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập, mà ông
đưa chức năng phán xử về cơ quan hành pháp). Như vậy, tư tưởng thượng



18

tơn pháp luật, kiểm sốt quyền lực bằng quyền lực và tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, được nhân dân ủy quyền cho nhà nước, nhà nước phải có nghĩa
vụ phục vụ nhân dân…đã đưa Giôn Lốccơ trở thành người khởi xướng lý
luận về nhà nước pháp quyền và xã hội công dân được phát triển ở giai đoạn
lịch sử tiếp theo.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” (1741), Môngtexkiơ (16891755) đã thể hiện tư tưởng pháp quyền và mong muốn xây dựng nhà nước
pháp quyền trên nguyên tắc “thượng tơn pháp luật”: (1) Trong xã hội có giai
cấp, quản lý xã hội bằng pháp luật là tất yếu và có hiệu quả; bởi lẽ, pháp luật
khơng phải do “ý chí tối thượng” nào quy định, mà nó xuất phát từ con
người, từ điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần dân tộc; (2)
Con người ta sinh ra vốn là tự do và bình đẳng, vì vậy mọi người đều có
quyền tham gia các công việc nhà nước và xã hội; (3) Thể chế chính trị cần
phải đảm bảo tính khách quan, cơng bằng, khơng vụ lợi và pháp luật phải thể
hiện ý chí chung của xã hội và không bị vi phạm; (4) Quyền lực chính trị của
đất nước được thể hiện tập trung ở ba quyền cơ bản: lập pháp, hành pháp, tư
pháp và ba quyền này tồn tại độc lập và bình đẳng với nhau, tương ứng với
ba quyền này có ba cơ quan độc lập và bình đẳng với nhau thực hiện.
Như vậy, trong khi thực hiện quyền lực, các cơ quan nhà nước dùng
quyền lực để đối trọng với quyền lực.Điều này làm cho tính khách quan và
tính tối thượng của pháp luật được tơn trọng, đồng thời có thể hạn chế được
tình trạng lạm dụng quyền lực (sử dụng quyền lực cơng để thỏa mãn lợi ích
cá nhân).
Trong tác phẩm “Khế ước xã hội” (1762), Rútxô (1712-1778) cho
rằng, con người ta sinh ra là bình đẳng; vì vậy, cần xây dựng nhà nước như
là một “liên minh chung” với “thỏa thuận chung” - “Khế ước xã hội”, trong
đó đảm bảo cho cả nhà nước và nhân dân đều thực hiện được lợi ích của



19

mình và quyền tự do, bình đẳng của con người. Bởi vì, theo Rútxơ, trong
một nước quyền lực tối thượng là quyền lực của nhân dân. Quyền lực này có
4 đặc tính là: bất khả phân, bất khả nhượng, bất khả sai lầm và tuyệt đối. Do
vậy, ý trí của nhân dân là tối thượng và được thể hiện ở hệ thống pháp luật.
Kantơ (1724-1804), người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, đã có
nhiều đóng góp trong phát triển học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản.
Ông cho rằng, nhà nước là tập hợp của nhiều người, là yếu tố đảm bảo cho
thắng lợi của pháp luật; rằng ở đâu có phân quyền thì ở đó có nhà nước pháp
quyền; và rằng, nhà nước pháp quyền không phải là hiện tượng kinh nghiệm,
mà là “mơ hình lý luận” cần phải tuân thủ. Theo ông, quyền lập pháp có mục
đích tạo ra tự do, cịn quyền hành pháp khơng có mục đích pháp lý chung mà
chỉ tác động đến cơng dân. Vì vậy, khơng thể dùng các biện pháp cưỡng chế
để đạt được các mục tiêu không phải pháp lý (đây là chủ nghĩa“không
tưởng” của Kantơ mà C.Mác đã phê phán).
Hêghen (1770-1830) - Người phát triển triết học cổ điển Đức lên đỉnh
cao của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đã có cơng lớn trong phát triển học
thuyết về nhà nước pháp quyền. Theo Hêghen, nhà nước thể hiện sự thống
nhất quyền lực trên cơ sở phân hóa và khác biệt giữa ba loại quyền lực: (1)
Quyền của cái phổ quát ( đại diện cho ý trí của mọi tầng lớp xã hội), nói cách
khác, đó là quyền lập pháp với thiết chế tương ứng là Nghị viện (Thượng nghị
viện và Hạ nghị viện); (2) Quyền của cái đặc thù (giải quyết các vấn đề đặc
thù, liên quan đến mỗi tầng lớp xã hội, mỗi trường hợp cụ thể dựa trên cơ sở
của các luật lệ phổ quát do Nghị viện ban hành), nói cách khác, đó là quyền
hành pháp với thiết chế là chính phủ; (3) Quyền của cái đơn nhất – đó là
quyền của nguyên thủ quốc gia – người ký ban hành các quyết định của nhà
nước và có quyền phủ quyết một số vấn đề của Nghị viện. Theo Hêghen,
trong nhà nước pháp quyền, quyền lực của cái đơn nhất (quyền của nguyên



20

thủ quốc gia) không phải là thứ quyền lực tùy tiện, lỏng lẻo như ở các kiểu
nhà nước có trước nhà nước pháp quyền, mà là quyền lực chặt chẽ và nhất
quán dựa trên cơ sở hợp lý nhất định (các quyết định, văn bản để nguyên thủ
quốc gia ký đều do các cơ quan chức năng chuyên nghiệp chuẩn bị kỹ lưỡng).
Hêghen cho rằng, nhà nước pháp quyền trước hết phải là nhà nước
hợp lý, nó chỉ được hình thành trong xã hội hiện đại gắn với xã hội cơng dân;
rằng, nhà nước hợp lý là nhà nước có sự thống nhất giữa ý trí của cá nhân
với quy luật phát triển tất yếu của xã hội; và rằng, nhà nước pháp quyền
chính là nhà nước chính trị, mà trong đó sự thống nhất quyền lực dựa trên cơ
sở phân hóa và đối lập hợp lý của ba thiết chế quyền lực: (1) Nghị viện (cơ
quan lập pháp, đại diện cho ý chí của nhân dân); (2) Chính phủ (cơ quan
hành pháp, giải quyết công việc hàng ngày của đất nước trên cơ sở quy định
của pháp luật); (3) Nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu nhà nước, giữ
quyền quyết định cuối cùng đối với các công việc của đất nước). Với quan
điểm như trên, nhà nước pháp quyền thực sự, theo Hêghen, chỉ có thể được
hình thành trên cơ sở xã hội công dân; trong nhà nước pháp quyền, nhân
quyền thể hiện quyền tự do của con người đối với tồn tại bên ngoài, trước hết
là sản phẩm lao động do chính con người làm ra (con người có quyền sở
hữu, ký kết các hợp đồng kinh tế, thành lập và tham gia các hội, hiệp hội…).
Như vậy, nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của Hêghen, là nhà
nước hiện thân của tự do, nhưng là tự do trong khn khổ của pháp luật.
- Quan điểm mác xít về nhà nước và pháp luật
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng
và phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử phát triển xã hội lồi
người.Trong nhiều tác phẩm, các ơng đã luận chứng về nguồn gốc, bản chất,
chức năng của nhà nước, về vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, và về

nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin kế thừa, phát triển quan điểm của


×