Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

DÂN SỰ 2- BUỔI THẢO LUẬN DÂN SỰ - THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.94 KB, 13 trang )

BÀI TẬP THẢO LUẬN LẦN THỨ NHẤT
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ UỶ QUYỀN
Câu 1: Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền?
Trả lời:
Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện
cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.
Cơ sở pháp lý: Điều 574 BLDS 2015.
Câu 2: Vì sao thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ
dân sự?
Trả lời:
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế, được pháp luật
dân sự dự liệu làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự. Mà thực hiện công việc khơng có ủy
quyền nên đây là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự.
-

Thứ nhất: thực hiện công việc khơng có ủy quyền là những sự kiện xảy ra trong thực tế:
anh A tự ý lấy quần áo của nhà anh B vào trong lúc trời mưa mà anh B khơng có nhà.
Được pháp luật dân sự dự liệu: từ Điều 574 đến Điều 578 BLDS 2015.
Làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự: khi một người thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền thì sẽ phát sinh nghĩa vụ thanh tốn của người có cơng việc được thực hiện và
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền.
Câu 3: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền”
theo BLDS 2005? Phân tích từng điều kiện?
Trả lời:
Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” theo BLDS
2005 là:
Thứ nhất, việc thực hiện cơng việc hồn tồn không phải là nghĩa vụ do các bên thoả
thuận hoặc do pháp luật quy định đối với người thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền. Ví
dụ: Thu dọc lúa, rơm của nhà hàng xóm khi hàng xóm đi vắng nhà mà cơn mưa đang kéo
đến.


Thứ hai, việc thực hiện cơng việc đó hồn tồn khơng vì lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện, chứ khơng phải vì lợi ích của người thực hiện cơng việc hoặc lợi ích của
người thứ ba.


Thứ ba, người có cơng việc được thực hiện khơng biết việc có người khác đang thực hiện
cơng việc cho mình hoặc biết nhưng khơng phản đối việc thực hiện cơng việc đó.
Thứ tư, nếu cơng việc đó mà khơng được thực hiện ngay thì chắc chắn thiệt hại sẽ xảy ra
cho người có cơng việc cần được thực hiện.
Câu 4: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
cơng việc khơng có uỷ quyền”.
Trả lời:


Điểm mới thứ nhất, tại khái niệm Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền Điều 574
BLDS 2015: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa
vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có
cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.” so với
khái niệm Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền Điều 594 BLDS 2005: “Thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện công việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”. Điều 574 BLDS
2015 đã bỏ hai từ “hồn tồn” của Điều 594 BLDS 2005.

• Điểm mới thứ hai, tại Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 và Khoản 4 Điều 595 BLDS 2005
về Nghĩa vụ thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền. Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 thêm
một chủ thể nữa là “pháp nhân” so với Khoản 4 Điều 595 thì hồn tồn khơng có quy
định về chủ thể được thực hiện công việc không có ủy quyền là một pháp nhân.
• Điểm mới thứ ba, do có sự thay đổi (thêm) chủ thể có công việc được thực hiện là pháp
nhân, tại Khoản 4 Điều 578 BLDS 2015 cũng đã quy định thêm để điều chỉnh mối quan

hệ đó trong khi Khoản 4 Điều 598 BLDS 2005 khơng hề có quy định.
Câu 5: Trong tình huống trên, nhà thầu C có quyền u cầu chủ đầu tư A thực hiện
những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc khơng có
uỷ quyền” trong BLDS 2015 khơng? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong tình huống trên, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ
trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc khơng có ủy quyền” trong
BLDS 2015.
Điều 594 BLDS định nghĩa: “thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là việc một người
khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó, hồn
tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết
mà không phản đối”.
Như vậy:


*Để thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự với
quy định trên thì phải có một người “thực hiện cơng việc” của người khác và “khi người
này không biết hoặc biết mà khơng phản đối”. Trong tình huống nêu trên, ban quản lý dự
án B mới chỉ ký hợp đồng với nhà thầu C, không nêu rõ C đã tiến hành xây dựng chưa.
+Trường hợp C chưa làm gì thì khơng thể yêu cầu A thực hiện những nghĩa vụ trên
cơ sở các quy định của chế định thực hiện công việc khơng có ủy quyền.
+ Trường hợp C đang xây dựng mà A biết và phản đối mà C vẫn làm thì C cũng
khơng thể u cầu A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền được.
+Trường hợp C đã xây dựng xong mà A không biết hoặc biết mà khơng phản đối thì
lúc này điều kiện có một chủ thể thực hiện cơng việc của người khác và người này không
biết hoặc biết mà không phản đối đã được thỏa mãn. Chúng ta xét đến những điều kiện
khác.
*Với quy định tại Điều 594, người thực hiện cơng việc là “người khơng có nghĩa vụ
thực hiện cơng việc” đó. Trong tình huống đã nêu, nhà thầu C thực hiện công việc là do đã

ký hợp đồng với ban quản lý dự án B. Đối chiếu với người có cơng việc được thực hiện
(chủ đầu tư A), nhà thầu C khơng có nghĩa vụ nào (giữa họ khơng có hợp đồng và khơng
có quy định nào buộc C làm việc cho A) nhưng thực chất công việc mà C tiến hành là theo
thỏa thuận với chủ thể khác (ban quản lý dự án B). Theo thực tiễn xét xử, điều kiện “khơng
có nghĩa vụ thực hiện cơng việc” dường như chỉ được xem xét trong quan hệ giữa người
thực hiện cơng việc và người có cơng việc được thực hiện; nếu công việc này được thực
hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay theo thỏa thuận với người thứ ba thì vẫn có thể vận
dụng chế định thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền. (Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS
ngày 29-7-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Như vậy điều kiện
người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó đã thỏa mãn.
*Theo định nghĩa tại Điều 594 thì chúng ta chỉ áp dụng chế định thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền khi người thực hiện công việc tiến hành công việc này “hồn tồn vì
lợi ích của người có cơng việc được thực hiện” tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng
người tiến hành cơng viêc cũng có lợi ích từ việc thực hiện vì nhà thầu C làm việc để thu
lợi nhuận. (Trường hợp tương tự trong Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS ngày 29-7-2003).
Như vậy điều kiện này cũng được đảm bảo.
Như vậy, khi nhà thầu C đã hồn thành cơng việc thì có thể u cầu Chủ đầu tư A thực
hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền”.

VẤN ĐỀ 2: CHIẾM HỮU TÀI SẢN KHƠNG CĨ CĂN CỨ PHÁP LUẬT


Câu 1: Vì sao Tồ án giảm đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn? Anh/
chị có suy nghĩ gì về hướng xác định này của Toà giám đốc thẩm?
Trả lời:
*Toà giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ơng Hơn vì trong q trình giải
quyết, ơng Hơn đã chứng minh được cặp trâu thuộc quyền sở hữu của mình bằng cách trả
lời được đặc điểm của hai con trâu và nguồn gốc của chúng. Khi được đối chiếu với các
chứng cứ khác và kết quả giám định là có căn cứ. Trong khi đó ơng Phong khơng trả lời

được và trả lời các câu có mâu thuẫn với nhau: khơng chịu thả trâu theo tập quán, tự ý tổ
chức vợ con đến dắt trâu và nghé đang tranh chấp về nhà, các lời khai mâu thuẫn như anh
khai con trâu mẹ của anh khoảng 8 tuổi trong khi con trâu này được xác nhận là được
khoảng 11 năm tuổi, đồng thời ông khai con trâu mẹ và con trâu nghé đực không phải là
mẹ con mà là trâu ghép mẹ trong khi xác định được các đặc điểm nhận dạng của chúng lại
có rất nhiều điểm giống nhau như được di truyền từ mẹ sang con. Từ đó có thể thấy ơng
Phong không trung thực trong lúc xét xử. Từ những yếu tố trên, Toà giám đốc thẩm đã xác
định cặp trâu mẹ con là của ơng Hơn. Trong bản án có đoạn Tồ án đã xác định: “Ơng
Đồng X n Hơn là người mất cặp trâu mẹ con trong khoảng thời gian từ 15 đến
20/02/2008 âm lịch; đến ngày 13/09/2008 (dương lịch) thì tìm thấy cặp trâu này được
ni tại lán của ơng Hồng Văn Học do ơng Nguyễn Văn Phong gửi ni. Trong q trình
giải quyết, ơng Địng Văn Hơn chứng minh tài sản nêu trên thuộc quyền sở hữu của mình,
đối chiếu với các chứng cứ khác và kết quả giám định là có căn cứ.”
*Cả nhóm đồng ý với quyết định của Tòa giám đốc thẩm. Theo lẽ, ông Hơn đã trả
lời một cách trung thực và sau những kiểm chứng của giám định, xác định đặc điểm của
cặp trâu mẹ con là đúng như những gì ơng Hơn đã khai báo, từ đó cho thấy quyết định của
Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Câu 2: Thế nào là chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật? Ai trong vụ án trên
là người chiếm hữu trâu và nghé của ơng Hơn khơng có căn cứ pháp luật và vì sao?
Trả lời:
Chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu của một người đối với
một tài sản mà không dựa trên những căn cứ pháp luật quy định (hay nói cách khác là
chiếm hữu không phù hợp với quy định của pháp luật). Là những trường hợp mà người
chiếm hữu một tài sản nhưng không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những
căn cứ do BLDS quy định tại Khoản 1 Điều 165 BLDS 2015. Cơ sở pháp lý: Khoản 2
Điều 165 BLDS 2015.
Ông Phong trong vụ án trên là người là người chiếm hữu trâu và nghé của ơng Hơn
khơng có căn cứ pháp luật. Vì: ơng Phong là người đang nắm giữ chi phối một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp tài sản không phù hợp với quy định của pháp luật. Toà án xác định con
trâu và con nghé là của ơng Hơn, trong khi đó ơng Phong lại chiếm hữu chúng khi khơng

có sự đồng ý, cho phép, uỷ quyền chiếm hữu từ ông Hơn.


Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Toà giám đốc thẩm buộc ông Phong trả
cho ông Hơn trâu và nghé có tranh chấp? Anh/ chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết
này của Tồ giám đốc thẩm?
Trả lời:
Đoạn cho thấy Tồ giám đốc thẩm buộc ơng Phong trả cho ơng Hơn trâu và nghé là:
“Tồ án cấp cấp phúc thẩm đã xử công nhận con trâu cái và con nghé đực đang tranh
chấp hiện ông Phong đang quản lý là trâu của ông Hơn đồng thời buộc ông Phong phải
trả cho ông Phạm Đình Trọng 3.240.000đ tiền cơng coi và chăm sóc trâu là có căn cứ.
Song Tồ án cấp phúc thẩm khơng tun buộc ơng Phong phải trả lại 2 con trâu nêu trên
là sai sót nghiêm trọng dẫn đến bản án khơng thi hành được.”
Tồ giám đốc thẩm đưa ra hướng giải quyết như vậy là hợp lý theo quy định tại
Điều 599 BLDS 2005. Vì Tồ đã xác định 2 con trâu là của ông Hơn, ông Phong chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật, khơng ngay tình nên việc buộc ơng Phong là người đang
quản lý trâu trả lại trâu cho Hơn là hợp tình hợp lý. Và khi ơng Phong khơng tìm lại được 2
con trâu đã thả vào rừng thì phải đền bù bằng tiền mặt lại giá trị của 2 con trâu cho ơng
Hơn.
Câu 4: Có quy định nào buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền công trông coi và
chăm sóc trâu có tranh chấp khơng? Anh/ chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết vừa
nêu của Tồ phúc thẩm và Tồ giám đốc thẩm?
Trả lời:
Khơng có quy định nào buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền cơng trong coi và
chăm sóc trâu có tranh chấp.
Hướng giải quyết trên của Tòa phúc thẩm và Tòa giám đốc thẩm thì rất linh hoạt và
sáng tạo. Vì theo bản án có ghi “cả hai bên thỏa thuận đề nghị công an xã giao cả hai con
trâu cho ông Trọng cơng an xã chăn dắt 60.000đ/ngày/02con chờ Tịa giải quyết.” Đây là
một loại hợp đồng gửi giữ tài sản trong đó bên gửi là ơng Phong và ơng Hơn là người có
nghĩa vụ trả cho ơng Trọng tiền cơng coi và chăm sóc trâu. Theo Điều 559 BLDS 2005:

“Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản
của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng,
còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ khơng phải trả tiền
cơng”. Vì ơng Phong thua kiện nên phải trả tiền công trông coi trâu có tranh chấp cho ơng
Trọng theo thỏa thuận trước đó, theo quy định về nghĩa vụ của bên gửi giữ tài sản tại
Khoản 2 Điều 560: “Phải trả đủ tiền công, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thoả
thuận.”


Trước đó hai bên đã có thỏa thuận “Ai thắng kiện được lấy trâu và khơng phải chịu
chi phí chăn dắt trâu”. Vì vậy theo thỏa thuận này ơng Phong phải trả chi phí chăn dắt trâu
cho ơng Trọng do ông là người đã thua kiện. Nếu ông Phong cho người khác th trâu có
tranh chấp từ tháng 02/2003 thì khoản tiền thuê mà ông Phong nhận được từ việc cho th
phải hồn trả lại cho ơng Hơn.
Câu 5: Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì
khoản tiền th mà ơng Phong nhận được từ việc cho thuê được giải quyết như thế
nào? Ai sẽ được hưởng khoản tiền này? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì khoản tiền
mà ơng Phong nhận được thì phải hồn trả khoản tiền ấy và ông Hơn là người được hưởng
khoản tiền này vì đây là trường hợp được lợi về tài sản mà khơng có căn cứ pháp luật
khơng ngay tình.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 581 BLDS 2015.

Vấn đề 3: Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền)
Câu 1: Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Trả lời:
Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiên phải thanh tốn như sau:
“1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền lương,

tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tồ án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh tốn và chịu án phí theo số
tiền đó....
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy
ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng
nhưng ở mức dưới 20%, thì Tồ án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa
vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngồi khoản


tiền nói trên cịn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân
hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác....
2- Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử tồ án chỉ quyết định
mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3- Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản
tiền đó đã được bảo đảm thơng qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định,
cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều khơng phải quy đổi các khoản tiền đó
ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã
vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong,
theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
4- Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại khơng có kỳ hạn) ở ngồi tổ
chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được bảo đảm thơng

qua việc chịu lãi của bên vay tài sản, cho nên trong mọi trường hợp tồ án đều khơng phải
quy đổi số tiền đó ra gạo, mà chỉ buộc người vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng với
số tiền lãi chưa trả.
Trong việc tính tiền lãi cần phân biệt các trường hợp như sau:
- Đối với các hợp đồng vay tài sản giao kết trước ngày 1-7-1996 thì chỉ tính số tiền lãi
chưa trả theo quy định của Bộ luật dân sự; đối với khoản tiền lãi đã trả thì khơng phải
giải quyết lại.
- Đối với các hợp đồng vay tài sản giao kết từ ngày 1-7-1996 trở đi thì việc tính lãi phải
tn theo các quy định của Bộ luật dân sự, số tiền lãi đã trả cũng phải được giải quyết lại,
nếu mức lãi suất mà các bên thoả thuận cao hơn mức lãi suất được quy định tại khoản 1
Điều 473 Bộ luật dân sự.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì lãi suất được tính như sau:
a) Về nguyên tắc, tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.
Ngồi ngun tắc tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, các bên có thể thoả thuận về việc
nhận lãi vào nợ gốc để tính lãi của thời hạn vay tiếp theo. Tuy nhiên, để tránh tình trạng
bên cho vay có thể lợi dụng thoả thuận này để thu lợi trái pháp luật, thì tồ án chỉ chấp
nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với loại vay có kỳ hạn giữa các bên ở ngồi tổ
chức Ngân hàng, tín dụng tại thời điểm đến hạn trả nợ mà người vay khơng thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ của mình. Các trường hợp khác đều phải tính theo lãi suất nợ quá
hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự.


b) Nếu mức lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân
hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì tồ án áp dụng
khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng 150% mức lãi suất cao
nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng.
c) Nếu mức lãi suất không vượt quá 50% mức lãi suất cao nhất của loại vay tương ứng do
Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm vay, thì toà án buộc bên vay phải trả lãi theo
đúng mức lãi suất mà hai bên đã thoả thuận tại thời điểm này.

d) Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất, thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn do
Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 473 Bộ luật dân sự.
5- Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lai suất chỉ được chấp
nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các
trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà
nước quy định.”
Như vậy, qua trung gian là gạo.
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Đối với tình huống thứ nhất, ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 3285000
đồng. Cơ sở pháp lý: điểm a Khoản 1 Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 và Điều 280
BLDS 2015.
Câu 3: Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong tình huống thứ hai khơng? Vì sao?
Trả lời:
Thơng tư trên khơng điều chỉnh việc thanh tốn trong trường hợp hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản. Vì trong Thơng tư 01/ TTLT trên thì chỉ quy định về nghĩa vụ tài sản
đối với các khoản tiền, và và nghĩa vụ tài sản là hiện vật, không quy định về chuyển
nhượng bất động sản.
Câu 4: Đối với tình huống thứ hai, thực tế ông Tấn sẽ phải trả cho ông Minh, bà
Oanh khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Đối với tình huống thứ hai, ơng Tấn sẽ phải trả cho ông Minh, bà Oanh khoản tiền cụ thể
là 800 triệu đồng. Vì hợp đồng này đã được tịa cơng nhận nên các bên phải tiếp tục thực
hiện, ơng Tấn phải thanh tốn tiền cịn thiếu. Số tiền ông Tấn chưa trả khi hợp đồng được



cơng nhận thì phải xác định tỷ lệ tương ứng diện tích đất chưa trả tiền để tính theo giá thị
trường. Nên ơng Tấn phải thanh tốn cho ơng Minh, bà Oanh phần chênh lệch giữa số tiền
mà ông Tấn chưa trả so với diện tích đất thực tế mà ông Tấn đã nhận tại thời điểm giao kết
hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất. Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hai bên có thoả thuận thì ơng Tấn đã trả 1/3 số tiền, tức là 100 triệu đồng và còn nghĩa
vụ trả lại 2/3 số tiền còn lại. Mà căn cứ theo giá cả mảnh đất hiện tại ông Tấn phải trả 2/3
giá trị mảnh đất hiện tại là 800 triệu đồng.

Vấn đề 4: Chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận
Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thoả thuận?
Trả lời:
Giống

Khác

Chuyển giao quyền yêu cầu
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự
- Hai hành vi đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong
quan hệ nghĩa vụ theo đó chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển
giao, xác lập tư cách chủ thể cho người nhận chuyển giao. Khi đó, người
có quyền trước/người có nghĩa vụ trước sẽ chấm dứt mối quan hệ với
người có nghĩa vụ/người có quyền mà khơng phải chịu trách nhiệm về
khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ (đối với việc chuyển
giao quyền yêu cầu) hay của người thế nghĩa vụ (đối với hành vi chuyển
giao nghĩa vụ dân sự).
- Về hình thức chuyển giao, thì việc chuyển giao quyền yêu cầu hay
chuyển giao nghĩa vụ đều được thể hiện bằng văn bản hay lời nói.
- Khơng chuyển giao quyền, nghĩa vụ gắn với nhân thân.
- Việc chuyển giao quyền u

cầu khơng cần có sự đồng ý
của người có nghĩa vụ và chỉ
cần thơng báo với người có
nghĩa vụ bằng văn bản.
- Hiệu lực: nếu chuyển giao
quyền yêu cầu mà quyền yêu
cầu có biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ kèm theo
thì biện pháp bảo đảm được
chuyển giao sang người thế
quyền.
- Người chuyển giao quyền
yêu cầu không phải chịu
trách nhiệm về khả năng thực

- Người có nghĩa vụ bắt buộc
phải có sự đồng ý của người
có quyền.
- Nếu nghĩa vụ thực hiện có
biện pháp được bảo đảm được
chuyển giao thì biện pháp bảo
đảm đó đương nhiên chấm dứt
đối với người chuyển giao
nghĩa vụ (trừ trường hợp các
bên khơng có thỏa thuận
khác).
- Người có nghĩa vụ khơng
phải chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nghĩa vụ của người
nhận chuyển giao nghĩa vụ.



hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ;
Câu 2: Thơng tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn cho bà
Tú?
Trả lời:
Thơng tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn cho bà Tú:
- Thứ nhất, trong lời khai của bà Tú:
“Bà Tú trình bày từ đầu năm 2003, bà cho bà Phượng vay tổng số tiền 555.000.000
đ, việc giao nhận tiền chia làm 5 đợt, có làm biên nhận, lãi suất 1,8%/ tháng. Theo thoả
thuận, bà Phượng có trách nhiệm phải trả lãi hàng tháng và hoàn vốn sau 12 tháng vì tiền
vay do bà Tú vay của Ngân hàng để cho bà Phượng vay lại. Đến tháng 4 năm 2004, đến
hạn trả nợ, bà Phượng vay bên ngoài giao tiền cho bà Tú trả cho Ngân hàng và vay tiếp.
Ngày 27/04/2004, bà Tú tiếp tục vay tiền Ngân hàng và cho bà Phượng vay lại với
số tiền 615.000.000đ, có làmbiên nhận. Đến tháng 04/2005, bà Phượng khơng có tiền trả
nên nhờ bà Tú vay nóng bên ngồi đẻ trả cho Ngân hàng khi đến hạn bà Phượng đồng ý
trả khoản tiền lãi 2,5% trên vốn vay 615.000.000đ đồng thời Phượng xin giảm lãi xuống
cịn 1,3%/ tháng. Sau đó đến thangs5/2005, bà Phượng ngưng trả lãi.”
- Thứ hai, trong Quyết định của Toà án: “Theo biên nhận tiền do bà Tú cung cấp thì
chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền
555.000.000đ và theo biên nhận ngày 27/04/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê
Thị Nhan số tiền 615.000.000đ. Phía bà Phượng khơng cung cấp được chứng cứ xác định
bà Ngọc thoả thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì
vào tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ơng Thạnh và bà Ngọc khơng có tiền trả cho bà
Tú để trả vốn vay Ngân hàng nên bà đã cũng bà Tú vay nóng bên ngồi đẻ có tiền trả cho
Ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.” và đoạn
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ
thanh tốn nợ vay, khơng trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm
thực hiện.”

Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Trả lời:
Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao cho bà
Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh là:
“ Tại phiên Tồ hồ giải ngày 06/9/2007, bà Tú bà Phượng và bà Ngọc cùng thống nhất
xác định bà Ngọc còn nợ vốn vay: 465.000.000đ; tiền lãi theo thoả thuận 1.3%/tháng từ


ngày 12/5/2005 đến ngày hoà giải là: 169.260.000đ; tiền lĩ do phát sinh do vay nóng bên
ngồi tính trên vốn vay465.000.000đ trong hai năm (2005 và 2006) là:14.900.000đ. tổng
số tiền bà Ngọc nợ là: 649.170.000đ bà tú không yêu cầu bà Phượng liên đới trả nợ.
Trên cơ sở thoả thuận của các đương sự. Toà án đã lập biên bản hồ giải thành với nội
dung như sau:
Bà Phùng Thị Bích Ngọc có trách nhiệm trả nợ cho bà Trần Thị Cẩm Tú số tiền:
649.170.000đ.
Phương thức: Trả một lần bằng tiền mặt
Thời hạn trả: ngày 31 tháng 10 năm 2007.
Nếu đến hạn trả nợ bà Ngọc chưa thi hành, bà Tú có đơn u cầu thi hành án, bà Ngọc
cịn phải chịu lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương
ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Bà Phùng Thị Bích Phượng khơng có trách nhiệm cùng bà Ngọc thanh tốn nợ cho bà
Tú.
Bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng chứng minh hải quan số 43622 mang tên Phùng Thị
Bích Phượng vào ngày 14/9/2007.”
Và trong đoạn: “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc
vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ
vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt...”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/ chị về đánh giá trên của Tồ án?
Trả lời:
Theo nhóm em, đánh giá trên của Tịa án là hồn tồn hợp lý. Tòa án xác định nghĩa vụ
trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao sang cho bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh là có
căn cứ. Bởi lẽ, theo Điều 315 Bộ luật dân sự 2005 thì bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao
nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý và người thế nghĩa
vụ sẽ trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp này, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú
đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Điều đó thể hiện người có quyền là
bà Tú đã đồng ý với việc chuyển giao này. Khi đã chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận,
người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng sẽ được giải phóng hồn tồn, khơng phải chịu
trách nhiệm liên đới. Thay vào đó bà Ngọc, bà Loan và ơng Thanh sẽ trở thành người thay
thế nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số nợ còn thiếu cho bà Tú.


Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm đối với
người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách
nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của tác giả mà anh/ chị biết.
Trả lời:
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tồ án có theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?
Trả lời:
Đoạn cho thấy Tồ án có theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm
đối với người có quyền là:
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ

thanh tốn nợ vay, khơng trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm
thực hiện. Tuy nhiên phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phuongj chuyể giao nghĩa vụ trả nợ
cho bà Ngọc , bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan ông Thạnh vay số tiền
150.000.000đ ngày 12/5/2005. Như vậy kể từ thời điểm bà Tú xác nhận hợp đồng vay với
bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm
dứt.”
“Việc của bà Tú giữ chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà
Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng giấy
chứng minh Hải quan”.
Câu 8: Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có quyền?
Trả lời:
Câu 9: Suy nghĩ của anh chị về về hướng giải quyết trên của Tồ án?
Trả lời:
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, phù hợp với tinh thần của Bộ
luật dân sự 2005. Theo đó Khoản 2, Điều 315 quy định: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ
thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban
đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta sẽ không thấy sự khác nhau
giữa chuyển giao nghĩa vụ được quy định tại Điều 315, 316, 317 với Điều 293 về “thực
hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”, theo đó “khi được bên có quyền đồng ý,


bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ dân sự
nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”. Do vậy để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định
độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba cần xác định rõ chuyển
giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có thỏa thuận khác. Ở đây,
người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng khơng cịn nghĩa vụ khi chuyển giao nghĩa vụ có
giá trị pháp lý.

Câu 10: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.



×