Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại trong luật hình sự hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN ĐỒN EM

BIỆN PHÁP TƯ PHÁP TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN ĐỒN EM

BIỆN PHÁP TƯ PHÁP TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình Sự
Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS Hồ Thế Hịe



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi; các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực; nếu các số liệu, kết quả, thông tin
trong luận văn được sử dụng từ các cơng trình đã được cơng bố hoặc sử dụng từ các
tác giả khác đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm về tính xác thực này./.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Đoàn Em


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BPTP

Biện pháp tư pháp

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BTTH

Bồi thường thiệt hại

TTDS

Tố tụng dân sự

TTHS

Tố tụng hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục chữ viết tắt

Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1.

................ 6

....................................................................................... 6
n ............................................................. 6
1.1.2.
...................................... 12

............................................................................. 15
985 ............ 15
. 17
Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LÝ CỦA

......... 20

.............................. 22
2.1.1.

........................................................... 22

2.1.2.
............................................................ 24
2.1.3.


................................................... 25


........................................................................................... 26
................................... 28
...................................................... 32

..................................................................................... 42
Chương

....................................... 49
................................ 50

định hướng hoàn thiện .................................................................. 50
....... 57

.................................................. 61
3.2.1.
.................................................. 61
3.2.2.
.................................................... 66
3.2.3.
hoàn thiện.................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài






2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài



nhân dân,

ễn Hồi Nam (2009), “quản lý nhà nước và cơ quan quản lý

nhà nước về bồi thường nhà nước”,

ứu lập pháp, số 4; Nguyễn

Thị Hoài Phương (2010) “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của nhà nước ở
Việt Nam - nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người”, Tạp chí khoa học pháp lý, số

hân dân,

ễn Thu

Quỳ và Trần Đại Thắng (2005) “Tìm hiểu về bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí kiểm sát, số 16; Hồ Sỹ


3


Sơn (2010), “Các giải pháp phòng chống oan sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc
độ cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí tịa án nhân dân, số 1…

t

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích: Làm rõ lí luận

3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những vấn đề
và giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
-

Lý luận: hệ thống làm rõ lý luận.

-

Pháp luật hiện hành: làm rõ quy định của pháp luật.

-

Làm rõ thực trạng.

-

Đưa ra các đánh giá và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả liên quan đến
biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại trong
luật hình sự hiện hành.



4

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Thời gian nghiên cứu: Người viết chọn thời gian nghiên cứu của đề tài từ năm
2013 đến nay.
Không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi lãnh thổ toàn
quốc.
5.
-

Chủ yếu là sử dụng phương pháp tiếp cận thông tin, tra cứu tài liệu dựa
trên những quy định của pháp luật, tham khảo những ý kiến của những nhà nghiên
cứu trước đó thông qua các phương tiện thông tin như sách, báo, tạp chí,
website…để xử lý, tổng hợp những thơng tin cần thiết nhằm phục vụ việc nghiên
cứu, từ đó phân tích, bình luận và đưa ra ý kiến của bản thân để giải quyết vấn đề
cần nghiên cứu,

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng đề tài
Việc nghiên cứu biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại trong luật hình sự hiện hành chủ yếu tập trung nghiên cứu lý luận và nội
dung pháp luật hiện hành quy định về biện pháp tư pháp này, bên cạnh đó cịn phân


5

tích thực trạng áp dụng biện pháp tư pháp này trên thực tiễn. Người viết tìm hiểu
những khó khăn và hạn chế trong thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; từ đó tìm hiểu ngun nhân của những khó
khăn, hạn chế và đề ra những giải pháp có liên quan nhằm khắc phục những khó

khăn đó.
7. Bố cục của luận văn

Chương 1.
trong luật hình sự
Chương 2. Nội dung pháp lý của biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại trong luật hình sự hiện hành
Chương 3. Những bất cập và giải pháp liên quan đến biện pháp tư pháp trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.


6

i là biện
pháp tư pháp rất quan trọng luật hình sự Việt Nam, nghiên cứu lý luận về biện pháp
này tạo
áp dụng biện pháp tư pháp này nhằ
bồi thường thiệt hạ

ứu nội dung pháp lý cũng như việc
ả lại tài sản, sửa chữa hoặc
ứu về lý luận, các vấn đề đặt ra

như: khái niệm tài sản, khái niệm bồi thường thiệt hại, khái niệm đặc điểm và ý
nghĩa của biện pháp tư pháp. Bên cạnh đó sơ lược tiến trình phát triển của biện pháp
tư pháp này trong lịch sử lập pháp của nước ta.

1.1.1.
Thuật ngữ “tài sản” (biens – property) có thể được hiểu theo hai cách:(1)
Thứ nhất, về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng.

Của cải là một khái niệm luôn ln biến đổi và hồn thiện cùng với sự phát triển
của quan niệm về giá trị vật chất. Ở xã hội La Mã cổ xưa, nhắc đến tài sản người ta
liên tưởng ngay đến những của cải trong gia đình như ruộng đất, nhà cửa, gia súc…
Còn trong xã hội hiện đại ngày nay, ngồi của cải trong gia dình, thì cịn có một số
loại tài sản đặc biệt như năng lượng mặt trời, thủy năng, phần mềm máy tính.
Thứ hai, trong ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tài sản là mơt vật cụ thể mà
có thể nhận biết bằng các giác quan và được con người sử dụng trong đời sống hang
ngày. Vì vậy, tài sản được nói đến ở đây chỉ là tài sản hữu hình mà thơi.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Dân sự năm
1995, tại Điều 172: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng
1. Nguyễn Ngọc Điện (2008), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 1), Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ,
tr. 99.


7

tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: „tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Khái niệm tài sản theo Bộ
luật Dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật Dân sự 1995 về những đối tượng nào
được coi là tài sản, mà theo đó, khơng chỉ những “vật có ở hiện tại” mới được gọi là
tài sản mà cả những vật hình thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản. Tuy
nhiên, cũng giống như Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 cũng đưa ra khái
niệm theo hình thức liệt kê. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ
tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản.
- Vật: Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người
có thể cảm giác được bằng giác quan của mình ví dự như xe, nhà, gia súc… Vật chỉ
có ý nghĩa khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật. Nếu bộ phận của thế
giới vật chất mà con người không thể kiểm sốt, chiếm hữu dược nó thì đồng nghĩa
với việc con người khơng thể tác động được vào nó. Do đó, khơng khơng khí, gió,
mưa thuộc về vật chất nhưng không thể coi là tài sản về mặt pháp lý. Hơn nữa, là

đối tượng trong quan hệ pháp luật, vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ
thể trong quan hệ. Như vậy, không phải mọi vật đều được xem là tài sản, muốn trở
thành tài sản thì vật phải thỏa mãn những điều kiện sau: là bộ phận của thế giới vật
chất; con người chiếm hữu được; mang lợi ích cho chủ thể; có thể đang tồn tại hoặc
hình thành trong tương lai.
- Tiền: Tiền theo kinh tế chính trị học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của
hàng hóa.(2) Tiền là vật ngang giá chung được dung làm thước đo giá trị của các loại
tài sản khác. Vì vậy, tiền được xem là loại tài sản đăc biệt. Ngồi ra, về mặt chính
trị, tiền còn là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia. Do đó, địi hỏi người có
tiền (chủ sở hữu) khơng thể có tồn quyền định đoạt loại tài đặc biệt này mà phải
tuân thủ những quy định nghiêm ngặt của Nhà nước. Theo quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 đã bỏ qua quy định tiền thanh toán phải là tiền Việt Nam như quy định
tại Bộ luật Dân sự 1995 nên về mặt pháp lý tiền có thể được hiểu là nội tệ và ngoại
2. Nguyễn Ngọc Điện (2008), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 1), Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ,
tr.99.


8

tệ. Tuy nhiên, ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông chứ không được lưu hành
rộng rãi như tiền Việt Nam. Do đó, tiền có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
- Giấy tờ có giá: giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân
sự hiện nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao
được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay được tồn tại dưới nhiều dạng
khác nhau như: séc, cổ phiều, công trái, hối phiếu, kỳ phiếu… Khác với tiền chỉ do
cơ quan duy nhất là ngân hàng Nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá có rất nhiều cơ
quan ban hành như: Chính phủ, ngân hàng, kho bạc và các công ty cổ phần. Việc
thực hiện quyền định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá cũng khơng bị

hạn chế như việt định đoạt tiền.
Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sử dung đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký ô tô, sổ tiết kiệm khơng phải là giấy tờ có giá. Nó
chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên vật đó.
- Quyền tài sản được định nghĩa tại Điều 181 Bộ luật Dân sự 2005 là quyền
trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở
hữu trí tuệ. Theo đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép
của chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan
của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền này phải trị giá được bằng
tiền hay nói cách khác phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất định.
Quyền tài sản thì có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thể trở thành
đối tượng trong các giao dịch dân sự thì mới coi là tài sản tại Điều 163 Bộ luật Dân
sự 2005. Hiện nay, pháp luật Dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản như
quyền sử dụng đất, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm,
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng, quyền đòi nợ.


9

Tóm lại, tài sản bao gồm của cải, vật chất và những gì mang lại lợi ích cho
con người, đồng thời phải trị giá được bằng tiền. Ngoài ra, của cải hay vật chỉ có thể
là tài sản nếu chúng thuộc sở hữu của một chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Quy định về tài sản trong BLDS 2005 cũng rất rõ, nhưng hiện nay có 1 số
trường hợp phát sinh trên thực tế mà theo người viết thì quy định này chưa đi kịp sự
phát triển của xã hội, gây ảnh hưởng không nhỏ cho việc áp dụng pháp luật nói
chung và áp dụng biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại trong luật hình sự nói riêng.
Trong thực tiễn hình thành và phát triển của xã hội, hành vi gây thiệt hại thì
phải bồi thường là chân lý cốt yếu nếu bên bị xâm phạm và bị thiệt hại là lợi ích

được cộng đồng, nhà nước bảo vệ. Do vậy, bồi thường thiệt hại là một trong những
chế định pháp lý xuất hiện sớm trong lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau, ở những quốc gia khác nhau thì việc bồi thường thiệt hại được
quy định khác nhau về chủ thể, điều kiện, mức, hình thức và phương thức bồi
thường(3).
Bồi thường thiệt hại có thể hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự phát sinh
khi có hành vi xâm phạm các lợi ích được pháp luật dân sự bảo vệ (tính mạng, sức
khoẻ, tài sản…) và gây thiệt hại. Theo đó, người gây thiệt hại phải bồi thường
những tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị xâm phạm lợi ích được pháp
luật dân sự bảo vệ. Bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự phát sinh do lỗi
cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì người gây thiệt hại phải
bồi thường cho người bị thiệt hại cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.(4)

3. />4. />

10

Bồi thường thiệt hại là trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có các điều kiện cần và đủ sau:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại;
- Có lỗi của người gây thiệt hại.
Có nhiều cách phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nhưng cách phân
loại phổ biến nhất được chia thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự
mà một bên trong quan hệ hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã quy định hợp
đồng như việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, gây ra thiệt

hại cho bên kia thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là một loại trách nhiệm
dân sự mà khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do
mình gây ra, ở đây khơng tồn tại mối quan hệ hợp đồng.
Cùng với hình phạt, các BPTP cũng là những biện pháp cưỡng chế hình sự
có vai trị quan trọng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng các biện
pháp tư pháp là cần thiết vì khi áp dụng chúng có khả năng tác động hỗ trợ hoặc
thay thế cho hình phạt. Vai trị của các BPTP rất quan trọng trong việc giải quyết
triệt để những vấn đề phát sinh trong một vụ án hình sự mà hình phạt chưa thể giải
quyết hết. Tuy nhiên cả BLHS 1985 trước đây lẫn BLHS hiện hành hiện nay nhà
làm luật nước ta đều không ghi nhận khái niệm pháp lý: “Biện pháp tư pháp” là gì?
Chính vì ngun nhân này mà dưới góc độ lý luận hiện nay cịn nhiều quan điểm
khơng thống nhất xung quanh khái niệm các biện pháp tư pháp.
Tác giả Trần Minh Hưởng trong những nghiên cứu của mình cho rằng: “Các
biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được các cơ quan


11

tiến hành tố tụng áp dụng đối với người phạm tội hoặc người có hành vi nguy hiểm
cho xã hội nhằm ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây ra nguy hiểm cho xã hội
và giáo dục họ trở thành những cơng dân có ích cho xã hội”(5). Quan điểm này theo
người viết là chưa nêu ra được vai trị và vị trí của của biện pháp tư pháp, cũng như
chưa đưa ra được biện pháp tư pháp là biện pháp hình sự mà chỉ nói chung là biện
pháp cưỡng chế Nhà nước. Tác giả Trần Minh Hưởng trong quan điểm của mình
chưa nói lên được biện pháp tư pháp được quy định ở luật nào, nhưng ưu điểm của
quan điểm này là nêu lên được đối tượng bị áp biện pháp này là người phạm tội
hoặc người có hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong từ điển pháp luật hình sự lại định nghĩa như sau: “Biện pháp tư pháp

là các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong BLHS do Tòa án áp
dụng bổ sung cho hệ thống hình phạt với mục đích thay thế hoặc hổ trợ cho hình
phạt.”(6). Về quan điểm này cũng có một số ưu điểm nhất định, nhưng theo người
viết là chưa đầy đủ, vì biện pháp bắt buộc chữa bệnh có thể do Viện kiểm sát áp
dụng, quan điểm này cho rằng biện pháp tư pháp do Tòa án áp dụng là chưa đầy đủ,
mà phải là cơ quan tư pháp áp dụng.
Ngoài ra, biện pháp tư pháp cũng được định nghĩa như sau: “Biện pháp tư
pháp là các biện pháp hình sự được quy định trong BLHS, do các cơ quan tư pháp
áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc
thay thế cho hình phạt”.(7)
Quan điểm của người viết cũng giống như quan điểm thứ ba, định nghĩa như
thế theo người viết là phù hợp. Quan điểm này ngắn gọn, dễ hiểu và thể hiện đầy đủ
nội hàm của một định nghĩa về biện pháp tư pháp từ bản chất nó là biện pháp hình
sự quy định trong BLHS cho đến đối tượng bị áp dụng là người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, chủ thể có thẩm quyền là cơ quan tư pháp, cũng như vai trị hổ trợ

5. Trần Minh Hưởng (2002), Tìm hiểu BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Phần chung), Nxb.
Lao động, tr. 198.
6 . Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb. Tư pháp.
7. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Tập 1), Nxb. Công an Nhân
dân, Hà Nội, tr. 249.


12

hoặc thay thế hình phạt và vị trí của các biện pháp tư pháp trong mối tương quan
với dạng thể hiện chính của trách nhiệm hình sự là hình phạt. Đây cũng là quan
điểm được thừa nhận rộng rãi nhất trong lý luận hình sự hiện nay.
1.1.2.


-

:

có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong BLHS.
BPTP này chỉ được áp dụng đối với những hành vi vi phạm pháp luật hình
sự, và cũng có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội (vì khơng có tội phạm thì cũng
khơng thể có BPTP với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự), những hành vi
vi phạm các quy định pháp luật chuyên ngành khác như hành chính, dân sự… thì
khơng thể bị áp dụng BPTP này.
Hơn nữa, với tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lí nghiêm
khắc nhất, việc áp dụng BPTP này cũng đem lại những hậu quả pháp lí bất lợi cho
người phạm tội (hoặc người bị kết án) về mặt tài sản, vì vậy để tránh việc áp dụng
tùy tiện gây ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng (người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc người bị kết án) BPTP này phải được quy
định trong BLHS để làm căn cứ pháp lí cho việc áp dụng và thi hành trên thực tế.
Thứ hai: Được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, hành vi đó cấu thành tội phạm.
Điều 42 BLHS hiện hành quy định: Người phạm tội phải trả lại tài sản đã
chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lí hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại vật chất đã xác định do hành vi phạm tội gây ra.
Trong trường hợp phạm tội gây ra thiệt hại về tinh thần; Tòa án buộc người
phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Điều 42 BLHS hiện hành quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người bị hại trong các vụ án hình sự như quyền sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm


13


phạm về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhâm phẩm của công dân đã được quy định
trong hiến pháp. Đồng thời khẳng định rõ thái độ của Nhà nước trong việc bảo vệ
tài sản thuộc các hình thức sở hữu khác nhau, không cho phép xâm phạm đến tài
sản của bất kì ai. Khi vụ án hình sự xảy ra thì bên cạnh việc phát sinh quan hệ pháp
luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội còn làm phát sinh mối quan hệ giữa
người phạm tội và những người có liên quan. Do đó q trình giải quyết vụ án cần
phải giải quyết cả vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự.
Như vậy, biện pháp tư pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành
vi đó cấu thành tội phạm và cũng chính là người phạm tội.
Thứ ba: Được áp dụng bởi cơ quan tư pháp hình sự
Với tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất,
mặc dù khơng giống như hình phạt, song việc áp dụng biện pháp tư pháp này cũng
đem lại hậu quả pháp lí bất lợi cho người phạm tội, do đó việc áp dụng biện pháp
này trên thực tế đòi hỏi phải hạn chế tối đa sự tùy tiện, chính vì thế BLHS hiện hành
giao thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp này cho cơ quan tư pháp hình sự.
Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là BPTP được BLHS quy
định do Tòa án áp dụng với người phạm tội gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần
cho người bị hại và những người có liên quan.
Thứ tư: Được áp dụng nhằm hổ trợ hình phạt.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta là huy động tối đa, đồng bộ các biện
pháp, các phương tiện để giải quyết hết những khía cạnh pháp lí nảy sinh trong vụ
án hình sự đặc biệt là những vấn đề mang tính chất dân sự, do vậy biện pháp tư
pháp này được áp dụng cùng với hình phạt trong việc giải quyết những vấn đề phát
sinh trong quá trình tố tụng, nhằm hỗ trợ cho hình phạt có thể đạt được mục đích và
hiệu quả tối đa là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở
thành những người có ích cho xã hội, có ý thức tn theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tuân thủ
pháp luật.



14

Được áp dụng với tư cách là biện pháp nhằm hỗ trợ cho hình phạt thì biện
pháp tư pháp này chỉ là biện pháp song song mang tính chất dân sự, giải quyết
những vấn đề còn lại trong vụ án hình sự mà khơng có chức năng giải quyết, chứ
khơng hồn tồn thuộc nội dung của Trách nhiệm hình sự.
ính chất dân
sự nhằm giải quyết triệt để những khía cạnh pháp lí nảy sinh trong vụ án hình sự mà
hình phạt khơng có chức năng giải quyết như vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra.
Có ý nghĩa đối với việc bảo đảm tôn trọng các quyền cơ bản của công dân.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì cơng dân được Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi gây thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và xâm hại tới tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, của cá nhân đều phải bồi thường và xử lý theo pháp luật.
B
được quy định trong BLHS hiện hành, đó là một phần quy định giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự có ý nghĩa đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính
xác, nhanh gọn, đỡ tốn kém về thời gian, công sức, bảo vệ quyền lợi cho người bị
hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan khi bị tội phạm xâm hại.
Nhiều chứng cứ trong vụ án hình sự có thể làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề dân
sự. Ngoài ra, những đặc điểm đặc trưng của tố tụng hình sự về các nguyên tắc, thủ
tục, thời hạn, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng so với những đặc điểm của
tố tụng dân sự cũng góp phần tăng tính khả thi trong việc thực hiện các quyết định
về dân sự trong vụ án hình sự.
Giáo dục ý thức tn thủ pháp luật, tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khác. Phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, thông qua việc áp
dụng trách nhiệm, các quy định của pháp luật giúp các chủ thể nhận thức được hậu



15

quả bất lợi mà mình sẽ phải gánh chịu khi có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, và
do đó có tác dụng phịng ngừa.

Trong lịch sử pháp luật Việt Nam thì mãi cho đến khi thực hiện pháp điển
hóa lần thứ nhất của Bộ luật hình sự Việt Nam (năm 1985) thì thuật ngữ: “Các biện
pháp tư pháp” mới lần đầu tiên được sử dung, tuy nhiên nói như vậy khơng có nghĩa
là các BPTP đã khơng được sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Pháp
luật hình sự Việt Nam ở khía cạnh nào cũng ln thể hiện tính kế thừa và sự tiếp thu
mang tính chọn lọc, nói như vậy có nghĩa là các quy định của Luật hình sự hiện
hành nói chung và BPTP nói riêng cũng ít nhiều mang tính chất kế thừa có tính
chọn lọc các quy định của các bộ luật trong lịch sử dân tộc.
Đầu tiên là trong thời kì phong kiến, với hơn 1000 năm tồn tại, các vương
triều phong kiến Việt Nam đã cho ra đời nhiều bộ luật khác nhau, một mặt vừa đáp
ứng nhu cầu quản lí hành chính Nhà nước và bảo vệ sự thống trị của vương triều,
một mặt vừa thể hiện được tính tự chủ dân tộc, có thể kể đến các bộ luật như: Hình
thư nhà Lí ban hành dưới triều vua Lí Thánh Tơng năm 1042, Quốc triều hình luật
ban hành năm 1483 và Hồng Đức thiện chính thư (không rõ năm ban hành) của
triều Lê dưới triều vua Lê Thánh Tơng, Hồng Triều luật lệ ban hành dưới triều
Nguyễn năm 1811… Tuy nhiên do những biến động của lịch sử, nhiều bộ luật
chúng ta khơng cịn lưu giữ được nữa, do đó ở đây tác giả muốn hướng sự quan tâm
đến bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) và bộ Hoàng việt luật lệ là hai bộ luật
còn được lưu giữ khá nguyên vẹn để làm rõ tính chất kế thừa của pháp luật hình sự
hiện hành rõ phần quy định về các BPTP.
Bộ luật Hồng Đức ban hành năm 1483 dưới triều Lê Thánh Tông là một
trong hai văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật hình sự chủ yếu của nhà Lê
(cùng với Hồng Đức thiện chính thư), cũng giống như những bộ luật phong kiến

khác mục đích chủ yếu là bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến, bảo vệ


16

trật tự phong kiến do đó các chế tài của bộ luật này mang nặng tính chất trừng trị
người phạm tội nên khơng chú trọng đến các biện pháp ngồi hình phạt, tuy nhiên
chúng ta vẫn có thể tìm thấy các biện pháp có tính chất tương tự như BPTP hiện
hành, chẳng hạn như ở Điều 16 bộ Quốc triều hình luật viết: “Nếu ăn tộm có tang
vật thì ai chứa chấp tang vật phải đền trả”. Điều 163 quy định: “Các tướng sối ở
phiên trấn của mình mà sách nhiễu tiền bạc của dân trong trấn, châu, huyện mình thì
bị biếm ba bực, phải bồi thường gấp đơi số tiền, trả lại cho dân”. Điều 179 quy
định: “Nếu phi tầng trong lăng miếu đã chết mà quan lệnh không đem phần thuế
nguyên cấp cho người ấy trả vào kho thì phạt 30 quan tiền. Nếu lấy nhập phần đó
vào tiền mình thì biếm hai tư, vào sổ ấy nhiều thì xử them tội phải đền gấp đơi sung
cơng”. Điều 347 quy định: “Nếu lấy tiền hoa lợi làm của mình thì phải bồi thường
gấp đơi, nộp vào cơng khố”. Điều 381: “Bán trộm ruộng đất của người ta thì xử
biếm, bán 10 mẩu trở lên thì xử tội đồ. Trả tiền cho người mua và phải trả them một
phần nữa để trả cho chủ đất ruộng và người mua mỗi người một phần. Ruộng đất thì
trả lại cho chủ. Nếu biết rõ sự việc mà cứ mua thì đánh 80 trượng, mất tiền mua”.(8)
Bộ luật Hoàng Triều luật lệ hay còn gọi là bộ luật Gia Long ban hành dưới
triều Nguyễn năm 1811, nó mang những đặc điểm chung của pháp luật hình sự
phong kiến – chủ yếu nhằm bảo vệ vương triều và trật tự phong kiến cho nên các
quy định về hình phạt rất được chú trọng, tuy vậy khơng phải là khơng có các biện
pháp mang tính chất giống hoặc tương tự BPTP được áp dụng, chẳng hạn như quy
định tại Điều 18: “Xử bắt đền lại, bồi phí hoặc bồi thường thiệt hại”. Tại Điều 86
quy định: “Khi nào người bị can cứu đúng 10 tuổi trở lên mà chưa đủ 16 tuổi, nếu
xét là khơng biết gì mà phạm tội thì quan tịa sẽ tha cho. Nhưng bắt đền lại hoặc bồi
tổn phí cho sự chủ bị thiệt hại”.
Đến giai đoạn từ sau cách mạng Tháng Tám đến trước lần pháp điển hóa Bộ

luật hình sự lần thứ nhất (1945 – 1985). Vì điều kiện chiến tranh mà trong thời gian
này chúng ta không có điều kiện để xây dựng cũng như ban hành các văn bản pháp
luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Các quy phạm hình sự chủ yếu được áp
8. Viện sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.


17

dụng là nằm trong các sắc lệnh do Chủ tịch nước hoặc Hội đồng nhà nước ban hành,
do đó cũng khơng có bất cứ một văn bản nào quy định về các BPTP, mà chỉ có
những sắc lệnh quy định những biện pháp có tính chat tương tự.
Trong sắc lệnh 150/SL ngày 12/4/1953 và 167/SL ngày 15/6/1956 xem bồi
thường thiệt hại là hình phạt bổ sung. Việc quy định này gây khó khăn trong việc áp
dụng trước giai đoạn xét xử. Đến khi Nhà nước ban hành hai pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản XHCN và trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của
công dân ngày 21/10/1970 thì biện pháp này trở thành BPTP chứ khơng cịn là hình
phạt. Điều 21 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21/10/1970
với tên gọi “Trả lại và bồi thường tài sản XHCN đã bị xâm phạm” quy định: “Kẻ
phạm tội xâm phạm tài sản XHCN phải trả lại tài sản đó cho Nhà nước hoặc cho tập
thể. Nếu tài sản bị xâm phạm khơng cịn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải
bồi thường.”. Và Điều 17 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân ngày 21/10/1970 với tên gọi: “Trả lại và bồi thường tài sản riêng của công
dân bị xâm phạm” quy định: “Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
phải trả lại tài sản cho người có tài sản đó. Nếu tài sản bị xâm phạm khơng cịn nữa
hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường.”(9)
Trong lần pháp điển hóa bộ luật hình sự lần thứ nhất năm 1985, lần đầu tiên
thuật ngữ “các biện pháp tư pháp” được sử dụng và Bộ luật hình sự 1985 dành hẳn
một chương riêng quy định về các biện pháp tư pháp. Chương V Bộ luật hình sự
1985 gồm năm biện pháp tư pháp áp dụng chung với người phạm tội đã thành niên
(từ Điều 33 đến Điều 36)(10):

Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai
xin lỗi quy định tại Điều 34. Điều 34 BLHS 1985 quy định về “Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.”.

9. Phạm Hồng Hải (2000), “Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999 và vấn đề hoàn thiện BLTTHS về
trình tự thủ tục áp dụng các biện pháp đó”, Tạp chí luật học, số 05, tr. 18.
10. Xem Điều 33-36 Bộ luật hình sự 1985.


18

Người phạm tội phải trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt cho người sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường các thiệt hại vật
chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
Trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tinh thần, Tồ án
có thể buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại.
BLHS 1985 đã quy định chính thức về việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hai, nhưng thiệt hại ở đây là thiệt hại về vật chất mà chưa quy định về
việc phải bồi thường vật chất trong trường hợp gậy thiệt hại về tinh thần.
Sau đó, trong lần pháp điển hóa lần thứ hai (1999), và kể cả lần sửa đổi bổ
sung gần nhất năm 2009, BLHS 1999 kế thừa hầu hết các quy định về các BPTP
của BLHS 1985.
Điều 42 BLHS Việt Nam hiện hành quy định: “Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi”
Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hửu hoặc người
quản lí hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại về vật chất đã được xác
định do hành vi phạm tội gây ra.
Trong trường hợp phạm tôi gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người
phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
BLHS 1999 hiện hành đã kế thừa quy định về Biện pháp tư pháp trả lại tài

sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, và có thêm quy định tiến bộ hơn đó là quy
định về trách nhiệm bồi thường về vật chất trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại
về tinh thần. Quy định này như một bước tiến mới thừa nhận rằng thiệt hại về tinh
thần cũng là thiệt hại mà có thể bồi thường được bằng vật chất.
Nội dung chương 1 chủ yếu tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan đến
tài sản,
. Bên cạnh đó, ta thấy được lược sử phát triển
ến trình lập pháp của nước ta,
cũng như

. Với vai trị hỗ trợ cho hình phạt, biện phá
ỉ là những


19

biện pháp mang tính chất dân sự nhằm giải quyết triệt để những khía cạnh pháp lí
nảy sinh trong vụ án hình sự, tính chất dân sự của điều luật được xuất phát từ trình
tự và mục đích áp dụng của điều luật.


×