Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----------***------------

NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
MSSV: 1155030144

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2011 - 2015
GVHD: ThS. ĐINH VĂN ĐỒN

TP.HỒ CHÍ MINH - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Kháng nghị giám đơc thẩm trong Tố tụng
hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi tự thực hiện. Kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trình bất kỳ cơng trình
khoa học nào.
Tác giả

Nguyễn Thị Quỳnh Như


MỤC LỤC
CHƯƠNG I ........................................................................................................................ 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC


THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................................... 1
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt
Nam ..................................................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm .......................................................... 1
1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm.......................................................... 5
1.1.3. Cơ sở của việc quy định kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự9
1.1.4. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự .................... 12
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc thẩm ......... 14
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của chế định kháng nghị giám đốc thẩm
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. ................................................................. 14
1.2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về kháng nghị giám đốc thẩm 21
1.2.2.1 Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự .................................. 21
1.2.2.2 Đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ............................. 29
1.2.2.3 Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ........ 31
1.2.2.4 Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự .............................. 33
1.2.2.5 Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự................................. 39
CHƯƠNG II ...................................................................................................................... 42
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM 2003 VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM .... 42
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị giám
đốc thẩm ............................................................................................................................. 43
2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng
hình sự ................................................................................................................................ 54

 
 


2.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về

kháng nghị giám đốc thẩm .............................................................................................. 54
2.2.2. Một số giải pháp khác ............................................................................................ 61

 
 


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tố tụng hình sự của nước ta thực hiện theo nguyên tắc “hai cấp xét xử” để đảm
bảo cho người dân thực hiện quyền kháng cáo của mình, nhằm phát hiện chính xác và
xử lý nghiêm minh tội phạm, với phương châm “không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Và để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử đồng thời bảo vệ tối đa quyền
lợi người dân cũng như sự cơng bằng trong pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đối với những bản án có hiệu lực nhưng có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng người dân khơng có quyền kháng cáo nhưng có quyền đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm để khắc phục những vi phạm ấy.
Kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở, là cơ chế duy nhất làm phát sinh thủ tục giám
đốc thẩm để Tịa án có thẩm quyền kiểm tra, khắc phục kịp thời các vi phạm pháp luật
nghiêm trọng của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Kháng nghị giám
đốc thẩm là một chế định vơ cùng quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự của nước
ta, góp phần thực hiện cơng tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tịa án cấp
dưới và cơng tác thực hành quyền cơng tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Với những quy định chặt chẽ trong Bộ luật Tố
tụng hình sự, chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm ngày càng được hoàn thiện, hạn
chế tình trạng kháng nghị giám đốc thẩm tràn lan. Tuy nhiên, theo báo cáo của ngành
Tòa án từ năm 2009 – 2013 số lượng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm ngày càng
tăng dẫn đến tình trạng tồn đọng đơn, bên cạnh đó, số lượng đơn đề nghị được chấp
nhận kháng nghị giám đốc thẩm còn quá ít, không đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân. Thực trạng này xuất phát từ việc quy định về phát hiện các vi phạm pháp luật

nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực cịn hạn chế, thiếu sót. Ngồi ra,
các quy định của chế định kháng nghị giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự


2003 về thời hạn kháng nghị, thẩm quyền kháng nghị còn nhiều bất cập, đặc biệt là quy
định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm còn khá chung chung…
Theo định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, trong đó Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra yêu cầu phải hoàn
thiện những quy định về chế định kháng nghị giám đốc thẩm cũng như thủ tục giám
đốc thẩm. Nghị quyết số 08-NQ/TW nhấn mạnh: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp…” và
“Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ, khách quan…” và Nghị quyết số 49- NQ/TW đã nêu rõ: “Từng
bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những
căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án
hoặc quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị
tràn lan, thiếu căn cứ…”. Như vậy, định hướng hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm nói
chung và kháng nghi giám đốc thẩm nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của cải cách tư pháp.
Xuất phát từ những yêu cầu trên cho thấy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về chế định kháng nghị giám đốc thẩm, làm
rõ những hạn chế trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng. Từ đó, đề xuất các
giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật Tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của kháng nghị giám đốc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ công lý, đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế là một u cầu có tính cấp thiết. Với những lý do trên, tác giả
đã chọn đề tài “Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp Đại học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu


Trong khoa học pháp lý TTHS, qua khảo sát cho thấy có các cơng trình nghiên cứu
tiêu biểu có liên quan đến quyền của NBC trong TTHS đã được công bố như:
-

Luận án Tiến sĩ: Phan Thị Thanh Mai, “Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự

Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, năm 2006.
-

Luận văn thạc sĩ gồm có các cơng trình nghiên cứu như sau: Đinh Văn Đồn,

“Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sĩ, Tp. Hồ Chí
Minh, 2014; Đồn Ngọc xn, “Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự, những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Tp. Hồ Chí Minh, 2000.
- Trên các tạp chí chun ngành luật có nhiều bài viết nghiên cứu về quyền của
kháng nghị giám đốc thẩm hoặc một số nội dung liên quan đến kháng nghị giám đốc
thẩm trong các bài viết như: Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về
“dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9, tháng 5 năm 2005;
Phan Thị Thanh Mai, “Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều 278 Bộ luật Tố
tụng hình sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11, năm 2006; Nguyễn Văn Trượng,
“Bàn về việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về người có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí Kiểm sát, số 20 năm 2007;…
- Sách chun khảo: Phạm Hồng Hải, “Mơ hình lí luận Bộ luật Tố tung hình sự ở
Việt Nam”, Nhà xuất bản tư pháp, 2003…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đã cung cấp nhiều vấn đề về lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng
hình sự Việt Nam, nhưng hoặc là nghiên cứu khái quát hoặc là chỉ nghiên cứu về từng

vấn đề riêng lẻ có liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm mà chưa có hệ thống, riêng
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Đinh Văn Đồn về “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố
tụng hình sự” là cơng trình nghiên cứu rất đầy đủ về những vấn đề liên quan đến kháng
nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự, tuy nhiên vẫn cịn một số thiếu sót như
khơng đề cập đến hình thức của kháng nghị giám đốc thẩm cũng như một số kiến nghị
cịn chưa đầy đủ. Do đó, tác giả mong muốn tập trung nghiên cứu một cách chi tiết về


kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, cũng như thực trạng áp
dụng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự và đề ra các định
hướng nhằm hoàn thiện chế định này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Thực hiện cơng trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hồn
thiện một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam; hồn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 về kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm và thực tiễn áp dụng nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện
nay.
Nhiệm vụ của đề tài
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, tác giả đi vào phân tích làm sáng tỏ những vấn
đề sau:
-

Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm;

-

Phân tích các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kháng

nghị giám đốc thẩm;

Tham khảo pháp luật Tố tụng hình sự một số nước trên thế giới về kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm;
Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật Tố tụng hình sự về kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định Bộ
luật Tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, cũng như kiến nghị
một số giải pháp khác nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả của hoạt động kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm trong hoạt động tố tụng để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu


Để đảm bảo tính khoa học, khóa luận này có những giới hạn về phạm vi nghiên
cứu sau đây:
- Về khơng gian: Khóa luận nghiên cứu về hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm
trong phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu số liệu về hoạt động kháng nghị giám đốc
thẩm trong các vụ án hình sự của Tòa án và Viện kiểm sát từ năm 2009 – 2014.
- Về nội dung:
o Về quy định của BLTTHS Việt Nam: Trong phạm vi pháp luật Việt Nam tác giả
chỉ tập trung phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt
động kháng nghị giám đốc thẩm.
o Về pháp luật một số nước trên thế giới: Khóa luận chỉ tham chiếu khái quát quy
định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS một số quốc gia
trên thế giới như: Liên Bang Nga, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Mỹ, Anh, Tây Ban
Nha vì đây là những quốc gia có nền khoa học pháp lý và trình độ lập pháp khá phát
triển. Do đó, việc tham khảo quy định pháp luật của các nước này để hoàn thiện quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam là rất cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm cả Đảng và Nhà
nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về cải cách tư pháp.
Đồng thời, khóa luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực
luật học, cụ thể:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, sự hình thành và phát
triển các quy định pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc thẩm, từ đó định
hướng việc hồn thiện pháp luật.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để nhận thức một cách khái quát
và chi tiết, cụ thể về các vấn đề được nghiên cứu trong khóa luận.


- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm khác biệt về hoạt
động kháng nghị giám đốc thẩm với kháng nghị tái thẩm và kháng nghị phúc thẩm. Sự
khác nhau trong quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau.
- Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các số liệu trong các báo cáo của
ngành Tòa án, Viện kiểm sát về số lượng các đơn yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm,
các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, các kháng nghị được chấp nhận, không
được chấp nhận, từ đó đánh giá thực tiễn áp dụng.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.
Cơng trình này nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về kháng nghị giám đốc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Cơng trình góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm. Trên cơ sở
đó đưa ra những kiến nghị mang tính khoa học góp phần hồn thiện chế định kháng
nghị giám đốc thẩm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân.
6. Bố cục của khóa luận.
Bố cục của khóa luận, ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm hai chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
2003 về kháng nghị giám đốc thẩm và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của kháng
nghị giám đốc thẩm.


1

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình
sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm
Việc giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, bao gồm: Khởi tố
vụ án; điều tra; truy tố; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm. Giai đoạn trước là tiền đề
cho giai đoạn sau, là điều kiện cần để giai đoạn sau phát sinh. Và ở mỗi giai đoạn đều
có các cơ chế phát hiện và khắc phục những sai lầm, vi phạm của cơ quan có thẩm
quyền để bảo vệ quyền con người, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Ở giai
đoạn khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền khắc phục quyết định khởi tố khơng có căn
cứ và không hợp pháp là Viện kiểm sát (thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét
xử và Tòa án (thực hiện giám đốc xét xử vụ án). (Khoản 2, 3 Điều 109 Bộ luật Tố
tụng hình sự). Trong giai đoạn điều tra vụ án, người tham gia tố tụng có quyền khiếu
nại quyết định kết quả giải quyết của cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát (Điều 122
Bộ luật Tố tụng hình sự). Nếu quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra khơng
có căn cứ thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra
phục hồi điều tra hoặc đủ căn cứ để truy tố thì Viện kiểm sát ra quyết định truy tố.
Trong giai đoạn truy tố, trong giai đoạn này Viện kiểm sát có quyền ra quyết định đình
chỉ vụ án, tuy nhiên nếu quyết định đình chỉ vụ án khơng có căn cứ và trái pháp luật thì

Viện kiểm sát cấp trên có quyền hủy bỏ quyết định đó. (Khoản 4 Điều 169 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003). Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, bản án, quyết định của Hội đồng
xét xử khơng có hiệu lực ngay mà cịn được kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm, bản án quyết định có hiệu lực pháp luật ngay khi được
tuyên. Những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật vẫn tồn tại cơ chế bảo đảm
quyền và lợi ích cho người dân đó là những bản án, quyết định này có thể được xem

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


2

xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu đáp ứng các căn cứ của pháp luật và
người dân có thể thực hiện quyền của mình trong giai đoạn này bằng cách đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự là thủ tục Tịa án có thẩm quyền xét lại
những bản án hoặc quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật bị người có thẩm
quyền kháng nghị bằng văn bản vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn và
thống nhất”. [38-tr.35]
Với khái niệm trên ta có thể thấy giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt mà để có
thể phát sinh được thì phải có hoạt động quan trọng nhất - kháng nghị giám đốc thẩm,
khơng có kháng nghị thì cũng khơng có giám đốc thẩm

[41-tr.75]

. Kháng nghị giám đốc

thẩm thể hiện sự khơng đồng tình của các chủ thể có thẩm quyền đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và là cơ sở làm phát sinh thủ tục giám đốc

thẩm nhưng khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm chưa được quy định trong Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam

[29-tr.8]

. Do đó, hiện nay có khá nhiều cách hiểu khác nhau về

kháng nghị cũng như kháng nghị giám đốc thẩm.
Dưới đây là một số quan điểm khác nhau về kháng nghị giám đốc thẩm
Theo Từ điển Tiếng Việt thì kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối điều đã quyết
nghị thường bằng văn bản

[47-456]

. Đây là từ điển thông dụng, áp dụng cho tất cả các

lĩnh vực nên cách định nghĩa kháng nghị còn chưa đi sâu vào vấn đề kháng nghị giám
đốc thẩm. Tuy nhiên, phần nào cũng cho ta thấy được rằng bản chất cơ bản của kháng
nghị giám đốc thẩm chính là việc chống lại hoặc bày tỏ ý kiến chống lại những điều đã
được đưa ra, những điều đã được quyết định, đây chính là bản chất có thể hiểu được
theo cách đơn giản nhất của kháng nghị giám đốc thẩm.
Theo Từ điển Luật học

[46-tr.249]

thì kháng nghị là việc người có thẩm quyền, bằng

văn bản của mình gửi đến tịa án cấp có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết
của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc


Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


3

thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng
pháp luật. Giám đốc thẩm là hoạt động xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lí vụ án
[46-tr.172]

. Khái niệm về kháng nghị trong Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển

Bách khoa Hà Nội – 1999 đã được xây dựng trên cơ sở chủ thể có thẩm quyền kháng
nghị, hình thức của kháng nghị, mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm. Vì vậy, có
thể sử dụng khái niệm này như một chuẩn mực để hiểu được bản chất của kháng nghị
giám đốc thẩm. Tuy nhiên, khái niệm này chưa phân biệt được giữa kháng nghị giám
đốc thẩm với kháng nghị tái thẩm, kháng nghị phúc thẩm. Ngoài ra, khái niệm đã dùng
từ “xét xử” cho cả ba thủ tục đó là xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm là
chưa phù hợp vì giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt chứ không phải là một cấp
xét xử.
Các nhà khoa học pháp lý cũng có những quan điểm khác nhau về khái niệm
kháng nghị giám đốc thẩm như sau:
Theo quan điểm của tác giả Lê Tiến Châu thì “kháng nghị giám đốc thẩm là quyết
định của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc tồn bộ bản án hay quyết định
của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đang
có hiệu lực pháp luật để tịa án có thẩm quyền xem xét lại thủ tục giám đốc thẩm” [28tr.404]

.

Kháng nghị giám đốc thẩm theo quan điểm tác giả Đinh Văn Quế lại có nghĩa là

“quyết định của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc tồn bộ bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để tịa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm”[40-tr.8].
Cịn đối với tác giả Đinh Văn Đồn thì “kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng
hình sự là việc người có thẩm quyền u cầu Tịa án có thẩm quyền xét lại một phần
hoặc tồn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án” [29-tr.11].

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


4

Qua các quan điểm của các tác giả về khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm, có thể
nhận thấy cả ba tác giả đều có điểm chung là dựa vào đặc điểm của hoạt động kháng
nghị giám đốc thẩm để xây dựng khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm. Các quan điểm
này đã nêu bật được các đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, đó là: Căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm, đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm, thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm. Có thể thấy được rằng, các quan điểm này đều cho ta cách nhìn nhận
về kháng nghị giám đốc thẩm rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn còn
tồn tại một số hạn chế như sau:
Tác giả Lê Tiến Châu đã xác định rằng việc xét lại bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật là một thủ tục đặc biệt, nhưng chưa làm cho người đọc có thể nhìn nhận được
sự khác biệt giữa kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm cũng như chưa nêu
được căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, cụ thể là chỉ dùng từ “một phần hoặc toàn bộ
bản án hay quyết định đang có hiệu lực pháp luật để tịa án có thẩm quyền xem xét
lại”. Ngồi ra, tác giả cũng khơng đề cập đến hình thức của thủ tục này.
Tác giả Đinh Văn Quế khi đưa ra khái niệm này tập trung vào hình thức của kháng
nghị giám đốc thẩm là một quyết định dẫn đến cho người tìm hiểu khi đọc vào khái
niệm này mơ hồ và nhầm lẫn và có thể hiểu rằng kháng nghị giám đốc thẩm thực chất
chỉ là một quyết định chứ không phải một hoạt động tố tụng. Ngoài ra, tác giả Đinh

Văn Quế đã sử dụng cụm từ “để tịa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” vơ hình
chung cho rằng giám đốc thẩm là một cấp xét xử thứ ba sau cấp xét xử sơ thẩm và cấp
xét xử phúc thẩm, như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự
2003. Việc đưa ra hai khái niệm trên có thể dẫn đến việc hiểu chưa đầy đủ và đúng đắn
về bản chất của kháng nghị giám đốc thẩm nói riêng và thủ tục giám đốc thẩm nói
chung.
Qua sự học hỏi và rút kinh nghiệm từ các thiếu sót của các tác giả trước, tác giả
Đinh Văn Đoàn đã tiếp cận vấn đề một cách khái quát dựa trên các căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm, đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền kháng nghị giám

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


5

đốc thẩm và đã đưa ra được khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình
sự. Có thể xem đây là khái niệm đầy đủ nhất, rõ ràng nhất về kháng nghị giám đốc
thẩm so với hai tác giả trước. Tuy nhiên tác giả Đinh Văn Đoàn lại khơng đề cập đến
hình thức và mục tiêu của kháng nghị giám đốc thẩm.
Từ những nhận định trên, tác giả xây dựng khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm
như sau:
Kháng nghị giám đốc thẩm là hoạt động mà người có thẩm quyền, bằng văn bản
của mình gửi đến Tịa án có thẩm quyền yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong q trình
xử lí vụ án nhằm bảo đảm tính hợp pháp của bản án, quyết định.
Theo đó, kháng nghị giám đốc thẩm phải là hoạt động của người có thẩm quyền,
dựa vào các căn cứ luật định mà đánh giá rằng bản án, quyết định đã có hiệu lực ấy có
sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng và thực hiện thủ tục yêu cầu xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực để đảm bảo áp dụng thống nhất và đúng đắn pháp luật cũng
như kiểm tra được tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định.

1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm
Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự có các đặc điểm sau:
- Hình thức của kháng nghị giám đốc thẩm là bằng văn bản. Việc kháng nghị phụ
thuộc tuyệt đối vào ý chí của người có thẩm quyền, họ thực hiện quyền kháng nghị dựa
trên kết quả của cơng tác giám đốc xét xử của Tịa án cấp trên đối với Tịa án cấp dưới,
cơng tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp của Viện kiểm
sát mà không phụ thuộc vào ý chí của người bị kết án, cơng dân, tổ chức có đơn khiếu
nại, đề nghị hay khơng

[35-tr.20]

. Kháng nghị giám đốc thẩm là một hoạt động đặc biệt

của Tòa án, Viện kiểm sát nhằm đảm bảo tính hợp pháp của bản án, quyết định, là một
thủ tục mang tính chất cơng quyền, mang tính chất bắt buộc cho những chủ thể thực
hiện và những chủ thể chịu sự điều chỉnh của quyết định này. Do đó, kháng nghị giám

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


6

đốc thẩm phải được thể hiện bằng một quyết định và dưới hình thức một văn bản chứ
khơng thể chỉ nói bằng miệng.
- Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc xử lý vụ án. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những địi hỏi
cơ bản có tính ngun tắc do luật Tố tụng hình sự quy định, buộc người có quyền
kháng nghị phải tuân theo khi ra quyết định kháng nghị một bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực của Tịa án


[40-tr.76]

. Việc “vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý

vụ án” này khác hẳn với một “hành vi vi phạm pháp luật” thông thường. Một hành vi
hành động hoặc không hành động của một chủ thể bất kỳ được xem là vi phạm pháp
luật là hành vi mà xâm phạm đến các quan hệ xã hội đang được pháp luật bảo vệ, còn
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án là hành vi của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những chủ thể có thẩm quyền khác trong
q trình điều tra, truy tố, xét xử đã có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật dẫn đến việc đưa ra bản án, quyết định sai lầm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của những người tham gia tố tụng và ảnh hưởng đến chính uy tín của cơ quan tư
pháp. Các nhà làm luật khi sử dụng cụm từ “có sự vi phạm nghiêm trọng” là để nâng
cao tầm quan trọng của căn cứ kháng nghị, bởi lẽ việc xác định được ranh giới giữa
“nghiêm trọng” với “không nghiêm trọng” rất mong manh, vì trong rất nhiều trường
hợp, cùng một căn cứ nhưng người kháng nghị giám đốc thẩm cho là nghiêm trọng còn
Hội đồng giám đốc thẩm cho là không nghiêm trọng, nên bác đơn kháng nghị. Bên
cạnh đó, đây cũng chính là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt kháng nghị giám đốc
thẩm với kháng nghị tái thẩm. Kháng nghị tái thẩm dựa vào căn cứ bản án, quyết định
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng lại có những tình tiết mới được phát hiện có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tịa án khơng biết khi
ra bản án hoặc quyết định đó (Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Những tình
tiết mới này phải là những tình tiết làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Ví dụ: Bị cáo bị kết tội theo lời khai của

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


7


người làm chứng, nay xác định được là người làm chứng đã cố tình khai sai sự thật; bị
cáo bị xử phạt quá nhẹ, nay phát hiện là người giám định đã cố tình kết luận sai sự
thật về thương tật của người bị hại; lời dịch của người phiên dịch đã sai những điểm
quan trọng dẫn đến việc kết án oan sai đối với người bị kết án, mà sau khi bản án có
hiệu lực pháp luật mới phát hiện được,…

[40-tr.28]

. Còn đối với cấp phúc thẩm, Bộ luật

Tố tụng hình sự hiện nay khơng quy định căn cứ để kháng nghị phúc thẩm, điều này
hoàn toàn dựa vào ý chí chủ quan của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, để thực hiện
tốt chức năng kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã ban hành các Quy chế để hướng dẫn thực hiện các công tác thuộc
nhiệm vụ của mình và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự có
liên quan đến phạm vi của ngành. Và đối với việc kháng nghị phúc thẩm, theo Điều 28
Quy chế công tác thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hình sự thì Kiểm sát viên khi
phát hiện có vi phạm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực thì báo cáo
ngay với lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình để thực hiện kháng nghị; và để hướng dẫn
cụ thể và rõ ràng hơn về căn cứ kháng nghị phúc thẩm thì cũng trong Quy chế này tại
Điều 33 quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm là: Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà
sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự
sơ thẩm khơng phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm trong việc
áp dụng Bộ luật Hình sự; Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm khơng đúng luật định
hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. (Điều 28, Điều 33 Quy chế
công tác thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hình sự đƣợc ban hành kèm theo
Quyết định 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17 tháng 09 năm 20007).
- Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đối tượng
kháng nghị giám đốc thẩm là những bản án, quyết định có hiệu lực thi hành tuy nhiên,

những bản án này không phải được xem xét lại ở phần nội dung vụ án, nội dung phán
quyết mà là được xem xét ở khía cạnh “có bất kỳ sự vi phạm nào về việc áp dụng pháp

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


8

luật trong q trình xử lý hay khơng” mặc dù hệ quả pháp lý từ giám đốc thẩm có thể
thay đổi được phán quyết, nội dung vụ án.
Và đây cũng là một cơ sở quan trọng để phân biệt kháng nghị giám đốc thẩm với
kháng nghị tái thẩm và kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Như đã phân tích ở trên, đối
tượng của kháng nghị giám đốc thẩm chính là những bản án, quyết định có hiệu lực
nhưng vi phạm pháp luật còn đối tượng của kháng nghị tái thẩm cũng là những bản
án, quyết định có hiệu lực nhưng bị kháng nghị vì phát hiện tình tiết mới. Và tình tiết
này là một cơ sở vơ cùng quan trọng, có thể khiến phán quyết của Tịa án thay đổi. Cịn
đối với kháng nghị phúc thẩm thì đối tượng kháng cáo, kháng nghị là những bản án,
quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật. Những bản án, quyết định của cấp xét xử sơ
thẩm sẽ khơng có hiệu lực ngay mà sẽ có một thời gian luật định để quyền kháng cáo,
kháng nghị được thực hiện nhằm đảm bảo nguyên tắc xét hai cấp xét xử.
- Chỉ có những người có thẩm quyền do pháp luật Tố tụng hình sự mới được
quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Việc kháng nghị phụ thuộc tuyệt đối vào ý chí của
người có thẩm quyền, họ thực hiện quyền kháng nghị dựa trên kết quả của cơng tác
giám đốc xét xử của Tịa án cấp trên đối với Tịa án cấp dưới, cơng tác kiểm soát việc
tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát mà không phụ thuộc
vào ý chí của người bị kết án, cơng dân, tổ chức có đơn khiếu nại, đề nghị hay khơng
[35-tr.20]

. Điều này rất phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay. Với


một nền kinh tế đang đi lên, tuy nhiên, mức sống người dân còn thấp và trình độ dân trí
của nước ta chưa cao thì việc thực hiện quyền kháng cáo giám đốc thẩm như quyền
kháng cáo phúc thẩm sẽ gây rắc rối và rườm rà vè thủ tục tố tụng. Bởi lẽ, tâm lý người
dân của nước ta khi được cho quyền kháng cáo giám đốc thẩm thì sẽ khơng cần để tâm
đến những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là như thế nào mà sẽ thực hiện quyền này
khi cảm thấy bản án, quyết định của Tịa án khơng phải là tốt nhất cho những gì mà họ
mong muốn. Hơn nữa, nếu cho phép kháng cáo giám đốc thẩm thì nguyên tắc hai cấp
xét xử của tố tụng nước ta sẽ không được đảm bảo, vì bản án, quyết định của Tịa phúc

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


9

thẩm lúc này sẽ khơng có hiệu lực pháp luật thi hành ngay nữa mà sẽ cũng chỉ như bản
án, quyết định sơ thẩm. Điều này thực sự gây rườm rà, gây mệt mỏi cho các bên tham
gia tố tụng. Do đó, kháng nghị giám đốc thẩm chỉ được phép thực hiện bởi những
người có thẩm quyền là một quy định vô cùng hợp lý. Tương tự như vậy, kháng nghị
tái thẩm cũng chỉ được thực hiện bởi những người có thẩm quyền, tuy nhiên, chỉ có
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh trở lên (và tương đương đối với Tòa án quân sự)
mới được quyền kháng nghị tái thẩm vì để xem xét bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật được đúng đắn cần phải điều tra xác minh và thẩm định các tình tiết mới, phải điều
tra lại vụ án gần như từ đầu.
- Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm là nhằm bảo đảm tính hợp pháp của
bản án, quyết định. Những hoạt động của cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân,
đồng thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước và đấu tranh phịng chống tội phạm. Một trong
những nguyên tắc về tố tụng hình sự được Hiến định chính là bản án, quyết định có
hiệu lực thì phải được thi hành để đảm bảo tính kịp thời nhanh chóng. Tuy nhiên, hoạt
động xét xử suy cho cùng cũng được thực hiện bởi con người nên không thể tránh khỏi

những lúc phạm sai lầm của Hội đồng xét xử khi đưa ra phán quyết cuối cùng hoặc của
những cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố. Những bản án, quyết
định có hiệu lực nhưng lại vi phạm nghiêm trọng pháp luật thì khi được thi hành sẽ gây
ra tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và ảnh hưởng đến pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Và thủ tục giám đốc thẩm sẽ giúp Tịa án có thẩm quyền kiểm tra, khắc
phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng đảm bảo cho việc xử lý vụ án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật

[29-tr.11]

. Do đó, khi thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm, cơ

quan có thẩm quyền sẽ đảm bảo được tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật.
1.1.3. Cơ sở của việc quy định kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng
hình sự

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


10

- Kháng nghị giám đốc thẩm ra đời trên cơ sở nhân đạo, tôn trọng quyền con
người, quyền công dân. Trong xu thế tồn cầu hóa, sự giao thoa giữa các hệ thống pháp
luật ngày càng tăng thì những khác biệt giữa các quốc gia ngày càng giảm thiểu. Tuy
nhiên, điều này khơng có nghĩa sẽ định hình “một thế giới phẳng”, một xu thế đồng
nhất về pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng. Pháp luật tố tụng
hình sự chịu tác động rất lớn của các yếu tố chính trị - chủ quyền quốc gia, yếu tố lịch
sử - truyền thống, yếu tố văn hóa – xã hội…[43-tr.66]. Quyền con người là một vấn đề
ln được cả thế giới coi trọng. Vì vậy, tơn trọng quyền con người, tính nhân đạo trong

hoạt động tư pháp luôn là một yêu cầu hàng đầu và luôn được pháp luật nước ta quy
định và bảo đảm thực hiện. Trong tư pháp hình sự nói chung và tố tụng hình sự nói
riêng, những người tham gia tố tụng được quyền tự mình bảo vệ quyền lợi của mình,
thực hiện quyền kháng cáo đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật,
bất kể khơng có bất cứ căn cứ nào, khơng có lý do gì, những người tham gia tố tụng
vẫn được quyền kháng cáo để vụ án được xét xử một lần nữa. Còn các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật những người tham gia tố tụng không được phép thực hiện
kháng cáo nhưng được phép thông báo, đề nghị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị để
đảm bảo một cách tối đa quyền lợi của người dân, đối với các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật mà vi phạm nghiêm trọng thì khơng chỉ người tham gia tố tụng mà
cả các cá nhân, tổ chức khác cũng có thể đề nghị để cơ quan có thẩm quyền xem xét và
thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét lại vụ án, và chính từ cơ sở này kháng
nghị giám đốc thẩm được ra đời. Trên cơ sở đó, quyền con người được đảm bảo, tính
nhân đạo, nhân văn của pháp luật cũng được tôn trọng. Những bản án, quyết định có
hiệu lực có vi phạm pháp luật nghiêm trọng sẽ xâm phạm đến quyền con người, quyền
cơng dân. Vì vậy, kháng nghị giám đốc thẩm ra đời làm phát sinh thủ tục giám đốc
thẩm góp phần khắc phục những sai lầm, vi phạm, bảo đảm quyền con người.
- Kháng nghị giám đốc thẩm được quy định trên cơ sở nguyên tắc giám đốc xét
xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa cấp dưới. Giám đốc xét xử là sự kiểm tra hoạt động

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


11

của xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, nhằm đảm bảo cho Tòa án các
cấp áp dụng đúng đắn và thống nhất pháp luật. Giám đốc xét xử bao gồm các hoạt
động như: Kiểm tra, phát hiện những thiếu sót, sai lầm; Giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân về các vụ án mà bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật; Tổng kết kinh nghiệm xét xử; Hướng dẫn Tòa án các cấp

áp dụng thống nhất pháp luật; Kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Như vậy, kháng nghị giám đốc thẩm là một trong
những hoạt động của hoạt động giám đốc xét xử góp phần khắc phục oan sai, hạn chế
bỏ lọt tội phạm và xét xử đúng người đúng tội.
- Kháng nghị giám đốc thẩm ra đời dựa vào tính cấp thiết của thực tiễn. Xã
hội càng ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng đi lên cả về vật chất lẫn
tinh thần, thì tình trạng tha hóa về mặt nhân cách và tình hình tội phạm cũng tăng lên tỷ
lệ thuận với sự phát triển, tội phạm được thực hiện bằng các thủ đoạn tinh vi. Do đó,
pháp luật ngày càng phải được hồn thiện để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội thay
đổi một cách chóng mặt bởi pháp luật phải dựa vào cuộc sống và tiên liệu được những
gì có thể xảy ra, những diễn biến tình hình tội phạm mới. Và trong hệ thống pháp luật
của nước ta, hoạt động tố tụng là hoạt động vô cùng quan trọng, đặc biệt là tố tụng hình
sự vì nó nắm giữ cán cân công lý, và ảnh hưởng lớn đến quyền tự do đi lại, quyền tự do
làm việc, quyền hạnh phúc và quan trọng hơn là cả quyền sống. Vì vậy, Tịa án nhân
dân phải hết sức mình bảo vệ cán cân công lý này, bảo vệ được cuộc sống của nhân
dân, bảo vệ được niềm tin của nhân dân vào pháp luật, bảo vệ sự an toàn của hành lang
pháp lý, bảo vệ một xã hội đầy biến động, để làm được điều này, Tòa án và các cơ
quan tư pháp phải hoàn thành trọng trách và nhiệm vụ được giao, ln đặt lợi ích cơng
lên trên lợi ích cá nhân, cố gắng hết mình để có thể thực hiện được phương châm
“không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Do vậy, pháp luật quy định
trong hệ thống tố tụng tư pháp của nước ta tồn tại hai cấp xét xử để người dân có thể
thực hiện quyền kháng cáo của mình, tự bảo vệ mình. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, do

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


12

sự thiếu sót, sai lầm trong q trình điều tra truy tố và xét xử nên bản án, quyết định đã
có hiệu lực khơng đảm bảo được nguyện vọng của người dân, khơng thể hiện được tính

nghiêm minh và khách quan tư pháp hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật ở nước ta
nói chung. Kháng nghị giám đốc thẩm ra đời trên cơ sở như vậy, để đảm bảo cho công
tác xét xử của nước ta được đi đúng với nguyện vọng của người dân, mục đích của các
nhà làm luật. Bởi lẽ thực tế, có quá nhiều vụ oan sai đã xảy ra. Ví dụ như vụ án Vườn
điều, vụ án “giết người đốt nhà” ở thành phố Hồ Chí Minh, vụ án ơng Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang,… đều là các vụ án gây chấn động dư luận. Giả sử, các vụ án oan đã
có hiệu lực pháp luật mà khơng được xem xét lại thì làm sao có thể minh oan cho
người bị kết án, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết cũng được minh oan, lấy lại
danh dự cho họ.
Tóm lại, cơ sở quan trọng để chế định kháng nghị giám đốc thẩm ra đời là dựa
trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền cơng dân vì suy cho cùng, pháp luật
nước ta mặc dù có mục đích bảo vệ cho giai cấp cầm quyền nhưng bảo đảm cuộc sống
của người dân được hạnh phúc ấm no, xã hội lành mạnh là một nhiệm vụ thiết yếu.
Ngồi ra, tính cấp thiết của thực tiễn và địi hỏi của cơng tác giám đốc xét xử cũng là
những nhân tố thúc đẩy kháng nghị giám đốc thẩm ngày càng hoàn thiện.
1.1.4. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự
Kháng nghị giám đốc thẩm có những ý nghĩa quan trọng sau:
- Việc quyết định kháng nghị giám đốc thẩm góp phần đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ chính trị đặc biệt, là sự tồn tại về
một hệ thống pháp luật tồn vẹn và nghiêm chỉnh. Khi đó, mọi cá nhân, tổ chức tồn tại
trong xã hội đều phải tuân theo pháp luật. Nước ta là một nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhưng pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa không phải là phạm trù đồng nhất
ý nghĩa. Pháp luật tồn tại là cơ sở để pháp chế tồn tại, và hai phạm trù này khi bổ sung
cho nhau sẽ tạo ra được một xã hội ngày càng phát triển lớn mạnh, các quyền và lợi ích
cơng dân được đảm bảo. Kháng nghị giám đốc thẩm là tiền đề để thủ tục giám đốc

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


13


thẩm phát sinh. Và oan sai được hạn chế một cách tối đa nhất, hiệu quả nhất, đúng với
tinh thần “không bỏ lọt tội phạm không làm oan người vô tội”. Do đó, kháng nghị
giám đốc thẩm là một trong những phương tiện để đạt được điều đó, khắc phục vi
phạm pháp luật và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở quan trọng đảm bảo nguyên tắc xét xử
đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vơ tội địi hỏi
những người nắm cán cân cơng lý trong tay phải thực sự minh mẫn để có thể hồn
thành tốt được nhiệm vụ của mình. Thực tế hiện nay khi giải quyết các vụ án, các
Thẩm phán thường chỉ dựa vào các kết luận điều tra của cơ quan điều tra và sự xét hỏi
tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định cuối cùng. Bởi lẽ, theo quy định của pháp
luật hiện hành, quyền hạn của Thẩm phán còn chưa được rõ ràng, mất cân đối. Đặc
biệt, khơng có quy định cụ thể nào về sự phân biệt Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là như thế nào, mặc dù đã đặt ra nhiệm vụ,
quyền hạn cho họ [36-tr.45]. Như vậy, khi các Thẩm phán đưa ra các quyết định, bản án sẽ
khó tránh được sự sai lầm trong giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm. Khi một bản án, quyết
định đã có hiệu lực bị phát hiện ra các sai lầm mà không thể sửa chữa được thì sẽ
khơng thể nào thực hiện tốt được ngun tắc xét xử đúng người đúng tội không thể
phát huy, việc bỏ lọt tội phạm hoặc xảy ra oan sai sẽ gây ra gậu quả vơ cùng to lớn, nếu
tình trạng này xảy ra thường xun, kéo dài thì có thể ảnh hưởng đến uy tín của Nhà
nước. Do đó, sự tồn tại của thủ tục giám đốc thẩm mà cơ sở để phát sinh là có quyết
định kháng nghị từ các cơ quan có thẩm quyền là cơ sở vững chắc để có thể làm sáng
tỏ được các vụ án oan.
- Kháng nghị giám đốc thẩm góp phần đảm bảo các quyền cơ bản của con người,
quyền công dân. Một đất nước không thể chỉ tồn tại giai cấp cầm quyền, mà điều quan
trọng nhất chính là nhân dân, cuộc sống của nhân dân ấm no hạnh phúc thì xã hội mới
phát triển vững mạnh được. Vì vậy, quyền và lợi ích cơ bản của nhân dân phải ln
được đảm bảo bởi giai cấp cầm quyền. Nhân dân sẽ tuân thủ pháp luật khi cuộc sống

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam



14

của nhân dân được đảm bảo, và được bảo vệ bởi chính pháp luật ấy. Kháng nghị giám
đốc thẩm là cơ sở vững chắc để nhà nước thực hiện được điều ấy, bởi lẽ luật tố tụng
hình sự hiện hành cho phép người bị oan và những người có liên quan được đề nghị cơ
quan có thẩm quyền thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm nhằm phát sinh thủ tục giám
đốc thẩm. Một bản án, quyết định hình sự được tun bởi Tịa án, có ảnh hưởng rất lớn
đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của một cá nhân. Vì vậy, khi một bản án,
quyết định sai lầm có hiệu lực pháp luật sẽ tạo ra hệ lụy nghiêm trọng. Vì những lẽ đó,
kháng nghị giám đốc thẩm đã đóng góp vai trị rất quan trọng trong việc khôi phục lại
danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, của gia đình và có thể cứu được tính mạng
của một con người. Các quyền và lợi ích cơ bản của nhân dân sẽ được đảm bảo. Kháng
nghị giám đốc thẩm nhằm đảm bảo cho hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án nhân
dân, nhằm bảo đảm cho Tòa án áp dụng thống nhất và đúng đắn pháp luật. Khi bản án,
quyết định được áp dụng đúng đắn và thống nhất thì sẽ tạo được một cơ chế vận hành
trơn tru trong hệ thống cơ quan tư pháp, gầy dựng niềm tin nơi dân chúng, giữ vững
tính nghiêm minh trong Nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp luật sẽ
được áp dụng đúng đắn khi những bản án, quyết định sai lầm của Thẩm phán được các
cơ quan có thẩm quyền thực hiện kháng nghị để được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt,
thông qua công tác kiểm tra, giám sát. Pháp luật sẽ được áp dụng một cách thống nhất
thông qua công tác học hỏi kinh nghiệm xét xử trong các buổi hội thảo, các kiến nghị
lên cấp trên về những tình huống thực tế mà pháp luật chưa đề cập tới, những lần tổng
kết kinh nghiệm xét xử của các Thẩm phán

[29-tr.22]

. Như vậy, kháng nghị giám đốc


thẩm là cơ sở phát sinh giám đốc thẩm đảm bảo cho hoạt động giám đốc xét xử của
Tòa án nhân dân ngày càng hiệu quả và vững mạnh.
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc
thẩm
1.2.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của chế định kháng nghị giám đốc
thẩm trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


15

- Trong thời kỳ phong kiến[48-tr9-12]
Vào thời phong kiến, dưới ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo thì pháp luật khơng có
sự phân biệt các vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính, hình sự, dân sự như ngày nay. Các
bộ luật tố tụng hình sự ra đời vào thời đại ấy bảo vệ rất mạnh mẽ (hầu như hoàn toàn)
quyền lực, lợi ích của giai cấp thống trị. Các bộ luật ra đời vào thời gian ấy nổi bật là
Luật Hình thư, Quốc triều hình luật (cịn gọi là Luật Hồng Đức - thời Tiền Lê), Hồng
Việt luật lệ (cịn gọi là Luật Gia Long - thời nhà Nguyễn). Đặc điểm nổi bật của thời kỳ
phong kiến là tư pháp Tòa án được tổ chức qua nhiều cấp (ví dụ như ở thời Hậu Lê có
06 cấp bậc, trong đó bậc cao nhất là Tòa Tối cao; còn thời nhà Nguyễn thì có 03 cấp
bậc, bậc cao nhất là Tịa Phúc thẩm). Và mặc dù Nho giáo là một tư tưởng rất coi trọng
về mặt hình thức nhưng ở tố tụng tư pháp vào thời phong kiến, người dân có quyền
kháng cáo, kháng nghị nhưng Tịa án cấp có thẩm quyền chỉ xét xử lại nội dung của vụ
án chứ không xét đến phần hình thức, phần thủ tục tố tụng của vụ án, tuy nhiên đối với
các vụ án đã có hiệu lực pháp luật thì tuyệt đối khơng được kiện cáo, khơng được xét
xử lại, chỉ có ngoại lệ duy nhất là vua, vua có thể xem xét bất kỳ vụ nào mà vua muốn
và có thể ra bất kỳ quyết định nào mà khơng cần có lý do. Tóm lại, vào thời kỳ phong
kiến, thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
khơng được quy định trong các bộ luật, vì vậy, chế định kháng nghị giám đốc thẩm

chưa tồn tại trong thời kỳ này [29-tr.25].
-

Thời kỳ Pháp thuộc [48-tr.13-15]

Thời kỳ Pháp thuộc, đất nước bị chia thành 03 miền để cai trị. Vào năm 1968,
nước Việt Nam chỉ cịn lại Trung kỳ và Bắc kỳ. Bởi vì Nam kỳ đã bị cắt đứt thành
thuộc địa của Pháp theo Hiệp định 5-06-1982. Năm 1898, ba thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp do một chỉ dụ của vua Đồng
Khánh. Để phức tạp hóa nền tư pháp nước ta bằng cách tạo ra mỗi địa phương luật lệ
riêng biệt, với mục đích chia rẽ và làm suy nhược dân Việt, ở ba miền là ba hệ thống

Kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam


×