Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

NGUYỄN THỊ MỸ HƢỜNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2016 – 2020

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Sinh viên thực hiện
: NGUYỄN THỊ MỸ HƢỜNG
MSSV
: 1653801013071
Giảng viên hướng dẫn : Thạc sĩ TRẦN QUỐC MINH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Ngun tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của
người dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu
do cá nhân tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Trần Quốc Minh.


Trong q trình nghiên cứu, khóa luận cũng có sự kế thừa quan điểm, ý kiến khoa
học của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện các đề tài có liên quan. Những
quan điểm, ý kiến này, cũng như những thông tin mà khóa luận có tham khảo, khi
được sử dụng đều được thể hiện một cách trung thực và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc thực tế, cũng như vốn kiến thức còn
hạn hẹp, nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, tác giả
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ Q thầy cơ và bạn đọc, để có thể rút
kinh nghiệm tốt hơn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 6 năm 2020
Sinh viên

Nguyễn Thị Mỹ Hường


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện khóa luận “Ngun tắc bảo đảm giữ bí mật cá
nhân của người dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, tác giả đã
nhận được sự hướng dẫn tận tình của Th.S Trần Quốc Minh. Do đó, tác giả xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến Thầy đã hỗ trợ, định hướng cho tác giả trong suốt quá
trình nghiên cứu. Sự tận tâm của thầy là động lực rất lớn để tác giả hồn thiện tốt
hơn khóa luận này.
Đồng thời, tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Quý thầy, cô khoa Luật Hình
sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý
báu cho tác giả trong suốt quá trình học tập tại trường, để có thể vận dụng những
kiến thức đó vào khóa luận này.

Sinh viên

Nguyễn Thị Mỹ Hƣờng



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng


LHQ

Liên hợp quốc

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM GIỮ BÍ
MẬT CÁ NHÂN CỦA NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI ...................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá
nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi .................................................................................8
1.1.1. Một số khái niệm ........................................................................................8
1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18
tuổi ......................................................................................................................18
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18
tuổi ......................................................................................................................23
1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của
ngƣời dƣới 18 tuổi ................................................................................................27
1.2.1. Cơ sở lý luận.............................................................................................27
1.2.2. Cơ sở pháp lý ............................................................................................28
1.2.3. Cơ sở thực tiễn .........................................................................................33
1.3. Nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi theo
pháp luật một số nƣớc trên thế giới ...................................................................35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................39
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM GIỮ BÍ MẬT CÁ NHÂN CỦA NGƢỜI
DƢỚI 18 TUỔI, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............40
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm giữ bí
mật cá nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi...................................................................40


2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo đảm giữ bí mật cá nhân của ngƣời
dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình sự và nguyên nhân .........................................51
2.2.1. Thực tiễn áp dụng .....................................................................................51
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ................................................59
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm giữ bí
mật cá nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi...................................................................64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người luôn là một chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngồi nước quan tâm, nó đóng vai trị quan trọng và được coi là một phần không thể
thiếu để xây dựng một nhà nước vững mạnh, tiến bộ, một xã hội dân chủ, văn minh.
Quyền con người không chỉ là vấn đề nội bộ quốc gia, mà còn là vấn đề mang tính
nhân loại. Chính vì vậy, nó được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý, chính trị
trong nước và cả những văn bản quốc tế. Một trong những quyền con người cơ bản
là quyền được bảo đảm giữ bí mật cá nhân.
Quyền được bảo đảm giữ bí mật cá nhân là một quyền dân sự quan trọng,
nhưng suốt một thời gian dài trước đây, quyền này không được đánh giá đúng mức
và không được quan tâm nhiều. Tuy nhiên trong những năm gần đây, quyền được

bảo đảm về bí mật cá nhân đã nhận được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng và
được quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau như Hiến pháp năm 2013, Bộ
luật Dân sự (sau đây viết tắt là “BLDS”) năm 2015, Luật Báo chí năm 2016,… Việc
ghi nhận, hồn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật cá nhân cũng là một phần của quá
trình nội luật hóa các Cơng ước quốc tế về quyền con người. Đồng thời, một thực
trạng nhức nhối trong xã hội ngày nay là việc những thơng tin bí mật của các cá
nhân rất dễ bị xâm phạm và bị xâm phạm một cách q mức. Vì vậy, u cầu bảo
vệ thơng tin cá nhân càng trở nên cấp thiết. Bảo vệ bí mật cá nhân cũng chính là góp
phần bảo vệ đời sống của công dân, đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi, nó là bảo
vệ tương lai và sự phát triển bình thường nhất cho họ.
Người dưới 18 tuổi là những cá nhân chưa phát triển toàn diện về mặt thể
chất và tinh thần nên luôn cần được bảo vệ và quan tâm hơn hết. Đồng thời, người
dưới 18 tuổi là nhân tố đóng vai trị quan trọng, chủ chốt góp phần xây dựng, phát
triển và bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc bảo vệ,
ni dưỡng cả về thể chất và tâm lý cho người dưới 18 tuổi là trách nhiệm khơng
chỉ của mỗi gia đình, nhà trường mà cịn là của cả xã hội. Nhận thức được tầm quan


2

trọng của công tác giáo dục, bảo vệ người dưới 18 tuổi và thấm nhầm lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
để bảo vệ nhóm đối tượng này. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, cùng với xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, là tình hình tội phạm ngày
càng gia tăng, bao gồm cả những tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và
những vụ án có bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi.
Bộ luật Tố tụng Hình sự (sau đây viết tắt là “BLTTHS”) ra đời là một trong
những văn bản pháp lý quan trọng nhất làm căn cứ để tiến hành xử lý cũng như bảo
vệ những đối tượng là người dưới 18 tuổi trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Vai trị này

được thể hiện thơng qua việc ghi nhận những nguyên tắc, thủ tục tố tụng, quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng, tiến hành tố tụng để vừa đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, xử lý đúng người đúng tội, vừa góp phần khơng nhỏ
vào cơng tác bảo vệ người dưới 18 tuổi theo tinh thần của các Công ước quốc tế.
Việc xây dựng và ban hành BLTTHS năm 2015 đã mang lại nhiều điểm tiến
bộ so với BLTTHS năm 2003 trong chế định bảo vệ bí mật cá nhân cho người dưới
18 tuổi. Quá trình triển khai, áp dụng pháp luật trên thực tế cũng đạt được nhiều kết
quả nổi bật. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 vẫn còn một số bất cập nhất định và
công tác thực thi pháp luật trên thực tiễn cũng còn bộc lộ một số hạn chế, dẫn đến
sự xâm phạm các bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong quá trình giải quyết
vụ án. Chính vì vậy, nhiệm vụ hồn thiện pháp luật về mặt lập pháp và cả thực tiễn
áp dụng pháp luật là cần thiết, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của các Công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Đồng thời, nhận thấy rằng công tác bảo vệ người dưới
18 tuổi cũng chính là bảo vệ tương lai của đất nước.
Xuất phát từ những tính cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên
tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự
Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn đóng góp nền tảng lý


3

luận, mang lại những giá trị khoa học và thực tiễn để có thể hồn thiện hơn pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả nhận thấy có một số
cơng trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài “Nguyên tắc bảo đảm giữ bí
mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, như:
Về luận văn, khóa luận tốt nghiệp có các đề tài:
-


Phan Thị Thanh Tâm (2009), Mở rộng và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo
chưa thành niên trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 trên cơ sở Việt
Nam gia nhập công ước quốc tế về quyền trẻ em, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;

-

Lê Thị Hậu (2016), Quyền riêng tư của cơng dân trong lĩnh vực báo chí,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;

-

Nguyễn Phương Thảo (2018), Thủ tục tố tụng hình sự đối với người bị buộc
tội dưới 18 tuổi: nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;

-

Hồng Thái Bảo (2019), Ngun tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội theo quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 - lý luận và thực tiễn, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;…
Về nghiên cứu khoa học có các đề tài:

-

Nguyễn Thị Bích Mai (2012), Bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên thơng qua phịng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí
Minh;


-

Trương Nhật Minh, Nguyễn Hoài Thương, Trần Thị Hường (2018), Bảo vệ
bị hại là người dưới 18 tuổi theo hướng dẫn của Liên hợp quốc và kinh


4

nghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường lần
thứ XXIII, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;
-

Phan Thị Thu Phương, Nguyễn Thị Phương Thảo (2018), Đảm bảo giữ bí
mật cá nhân của người dưới 18 tuổi bị buộc tội theo hướng dẫn của Liên hợp
quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
cấp trường lần thứ XXIII, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh;…
Ngồi ra, cịn có một số bài viết khoa học bình luận về các vấn đề có liên

quan như:
-

Lê Huỳnh Tấn Duy (2013), “Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của
người chưa thành niên bị buộc tội trong Luật quốc tế và Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2013;

-

Nguyễn Minh Đức, Nguyễn Ngọc Minh (2015), “Hoàn thiện các quy định về
bảo vệ người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên trong pháp
luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17/2015;


-

Lê Huỳnh Tấn Duy (2016), “Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới
18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 06/2016;

-

Lê Huỳnh Tấn Duy (2020), “Pháp luật một số quốc gia về người bị buộc tội
là người chưa thành niên và bài học đối với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 01/2020,…
Nhìn chung, các cơng trình khoa học này chỉ mới đề cập tới vấn đề về quyền

riêng tư, bí mật cá nhân của con người, của công dân, hoặc là vấn đề về nguyên tắc,
thủ tục xử lý, bảo vệ người dưới 18 tuổi, mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào ở
cấp độ luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu cụ thể về nguyên tắc bảo
đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Trong đó, có cơng trình nghiên cứu khoa học của nhóm tác giả Phan Thị Thu
Phương, Nguyễn Thị Phương Thảo (2018), Đảm bảo giữ bí mật cá nhân của người
dưới 18 tuổi bị buộc tội theo hướng dẫn của Liên hợp quốc và kinh nghiệm cho Việt


5

Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường lần thứ XXIII, Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh là có liên quan mật thiết đến đề tài khóa luận của
tác giả. Tuy nhiên, cơng trình này đi theo hướng phân tích quy định, hướng dẫn của
Liên hợp quốc và quy định của một số quốc gia trên thế giới để từ đó hồn thiện
pháp luật Việt Nam về giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội. Bên

cạnh đó, cịn có bài viết của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, “Quyền được bảo vệ về
thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong Luật quốc tế và Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2013. Bài viết này đã
phân tích, làm sáng tỏ quy định của luật quốc tế và luật tố tụng hình sự trong nước,
cũng như thực trạng để đưa ra kiến nghị bảo vệ thông tin cá nhân cho người bị buộc
tội là người chưa thành niên.
Kế thừa những quan điểm của các tác giả trong các cơng trình nghiên cứu
nêu trên và đi sâu vào nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người
dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam - vấn đề chưa được nghiên cứu cụ
thể và chuyên biệt bởi những cơng trình trước đó, đề tài khóa luận của tác giả đã tập
trung nghiên cứu những quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng. Từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện hơn pháp luật tố
tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân
của người dưới 18 tuổi, không chỉ là người bị buộc tội trong quá trình tiến hành các
thủ tục tố tụng hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài: Đề tài mong muốn đóng góp nền tảng lý luận chung
cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người
dưới 18 tuổi, phân tích cụ thể các quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam về
ngun tắc này, để thơng qua đó đánh giá và chỉ ra được những điểm hạn chế, bất
cập. Từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Nhiệm vụ của đề tài: Trên cơ sở mục đích đề ra, đề tài tiến hành thực hiện
ba nhiệm vụ chính:


6

Thứ nhất, làm rõ khái niệm bí mật cá nhân nói chung và khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của bảo đảm giữ bí mật cá nhân người dưới 18 tuổi nói riêng. Đồng
thời, xây dựng cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của

người dưới 18 tuổi. Ngồi ra, tác giả cịn tìm hiểu pháp luật của một số quốc gia để
có thể cung cấp thêm kiến thức và đưa ra cái nhìn khái quát hơn về nguyên tắc này.
Thứ hai, phân tích nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18
tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, cũng như phân tích thực tiễn áp dụng để chỉ
ra những điểm hạn chế và tìm ra nguyên nhân của vấn đề.
Thứ ba, kết hợp giữa nền tảng lý luận chung, nền tảng pháp lý và thực trạng
để đưa ra một số giải pháp, kiến nghị.
4. Đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài có đối tượng nghiên cứu là nguyên tắc bảo
đảm giữ bí mật cá nhân ở cả quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng. Nguyên tắc
này được nghiên cứu để bảo vệ cho nhóm đối tượng là người dưới 18 tuổi trong quá
trình thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu theo luật Tố tụng hình sự
Việt Nam (cụ thể là BLTTHS năm 2015), đồng thời tham khảo một số văn bản pháp
lý có liên quan để củng cố cho nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người
dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trên
phạm vi cả nước thông qua các số liệu thống kê và các vụ án, chỉ ra hạn chế và
nguyên nhân, làm cơ sở để từ đó đưa ra một số kiến nghị.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nêu trên, đề tài
dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng chủ yếu các phương pháp
phân tích, tổng hợp, để đưa ra những lập luận, từ đó làm cơ sở cho việc bảo đảm giữ
bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi. Phương pháp phân tích cịn được dùng để
làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá số liệu và phân tích thực


7

tiễn, nguyên nhân để đưa ra kiến nghị. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương
pháp khác như so sánh, liệt kê, lịch sử khi nghiên cứu quy định pháp luật tố tụng

hình sự về nguyên tắc này.
5. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Đề tài đã đưa ra cái nhìn tồn diện về ngun tắc bảo
đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi, xây dựng nền tảng lý luận và pháp
lý thông qua việc làm rõ các khái niệm, thuật ngữ và phân tích pháp luật hiện hành,
mang lại giá trị tham khảo cho các cơng trình khoa học về sau khi nghiên cứu về
vấn đề có liên quan, cũng như góp phần hỗ trợ cho quá trình học tập, nghiên cứu
trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Bằng việc phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng, đề tài đã góp phần chỉ ra được những điểm cịn hạn chế trong q trình
thực thi ngun tắc này qua các vụ án thực tế, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải
pháp khắc phục. Từ đó góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật. Ngoài ra, đề tài cịn góp phần giúp những người làm
cơng tác thực thi pháp luật có thể tham khảo, cân nhắc trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ để quan tâm hơn đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
dưới 18 tuổi tham gia tố tụng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài danh mục từ viết tắt, mục lục, lời nói đầu, phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, về nội dung chính khóa luận có kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Lý luận chung về nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của
người dưới 18 tuổi
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc
bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi, thực tiễn áp dụng và một số
kiến nghị.


8

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM GIỮ BÍ
MẬT CÁ NHÂN CỦA NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá
nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi
1.1.1. Một số khái niệm
 Nguyên tắc của tố tụng hình sự
Nguyên tắc là một thuật ngữ được xuất hiện rất nhiều trong đời sống hằng
ngày và cả trong hoạt động học tập, nghiên cứu. Ngun tắc có vai trị rất quan
trọng, trong bất kỳ một lĩnh vực đời sống nào cũng cần thiết phải có nguyên tắc.
Chẳng hạn như trong giáo dục cũng cần tuân theo những nguyên tắc đào tạo về kiến
thức, kỹ năng và cả cách giáo dục làm người, trong giao tiếp cũng phải có những
nguyên tắc ứng xử nhất định,… Qua đây thấy rằng thuật ngữ nguyên tắc thường
được con người chúng ta nhắc đến thường xuyên, vậy nguyên tắc là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm
1996, nguyên tắc (principle) được hiểu là “điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân
theo trong một loạt việc làm”1. Ngồi ra, ngun tắc cịn được định nghĩa là “hệ
thống các quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hoặc một giai đoạn nhất định đòi
hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo”2
Nguyên tắc không chỉ là cái cần phải có trong đời sống sinh hoạt hằng ngày
mà ngay cả trong lĩnh vực pháp lý, nguyên tắc vẫn giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng, nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Về khái niệm, tố tụng hình sự là quy
trình thực hiện những hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm giải quyết

1

Phạm Thị Thanh Nhã (2013), Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.7
2
“Nguyên tắc”, truy cập ngày 28/02/2020



9

đúng đắn vụ án hình sự theo quy định của pháp luật3. Quá trình giải quyết vụ án
hình sự rất phức tạp do đặc thù của ngành luật này là giải quyết hậu quả các vấn đề
liên quan đến của hành vi phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự và có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức. Chính vì vậy mà ngun tắc là một
chế định khơng thể thiếu trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, khi nói đến khái niệm nguyên tắc tố tụng hình sự thì vẫn cịn tồn
tại nhiều định nghĩa khác nhau. Theo tác giả Lại Văn Trình, “Nguyên tắc của tố
tụng hình sự là tư tưởng chỉ đạo được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự cần
được tuân thủ trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”4.
Cịn theo tác giả Đào Trí Úc, ngun tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng và
quan điểm chủ đạo được thể chế hóa bằng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với
việc xác định và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự và các quan hệ tố tụng
hình sự, đối với các hình thức và phương pháp thực hiện những hoạt động và quan
hệ đó5. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh thì ngun tắc của Luật Tố tụng hình sự là “những tư tưởng, quan
điểm, phương châm và định hướng chi phối hoạt động xây dựng và áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự”6.
Các khái niệm được các tác giả đưa ra về nguyên tắc của tố tụng hình sự,
nhìn chung đều có sự nhìn nhận nguyên tắc tố tụng hình sự là “những tư tưởng”,
“chỉ đạo” cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Tuy nhiên,
nguyên tắc của tố tụng hình sự khơng chỉ là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, nền
tảng mà những tư tưởng đó cịn phải mang tính khách quan và thời đại, tức là phải
phù hợp với điều kiện khách quan và phải giúp cho hoạt động tố tụng hình sự đạt

3

Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi,
bổ sung), Chủ biên Võ Thị Kim Oanh, Nxb Hồng Đức, tr.19

4
Lại Văn Trình (2011), Đảm bảo quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.46
5
Đào Trí Úc, “Tổng quan về mơ hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện”,
truy cập ngày 28/02/2020
6
Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi,
bổ sung), Chủ biên Võ Thị Kim Oanh, Nxb Hồng Đức, tr.55


10

được nhiệm vụ, mục đích của mình7. Từ góc tiếp cận này, tác giả đưa ra khái niệm
nguyên tắc của tố tụng hình sự như sau:
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng, quan điểm mang tính chỉ
đạo, nền tảng, định hướng cho hoạt động xây dựng, giải thích và áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự, qua đó góp phần hồn thành nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự.
 Bí mật cá nhân
Quyền được bảo vệ bí mật cá nhân là quyền dân sự quan trọng, vì vậy, pháp
luật Việt Nam đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ cho các thông tin cá nhân khỏi sự
xâm phạm, không chỉ trong các quan hệ xã hội hằng ngày mà cịn trong q trình
giải quyết vụ án. Mặc dù đóng vai trị quan trọng nhưng khi nói về bí mật cá nhân là
gì thì hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào đưa ra khái niệm cụ thể, chỉ có một số
bài viết có đề cập đến khái niệm này. Theo tác giả Phùng Trung Tập, “bí mật cá
nhân là những thơng tin về vụ việc, tài liệu liên quan đến các quan hệ giữa các
thành viên của gia đình với nhau có mối quan hệ hữu cơ đến truyền thống nhiều đời
hay một đời về huyết thống, về bệnh lý, năng lực trí tuệ của các thành viên có tính
hệ thống, nếu bị bộc lộ sẽ gây ra sự bất lợi cho cá nhân trong các quan hệ xã hội và
quan hệ pháp luật khác thuộc nhiều lĩnh vực”8. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 38

BLDS năm 2015, ta có thể hiểu khái quát về bí mật đời tư - một thuật ngữ có nội
hàm rộng hơn bí mật cá nhân như sau: “Bí mật đời tư của một cá nhân là các thơng
tin, tài liệu nói về những điều thầm kín riêng tư của cá nhân mà người đó khơng
muốn tiết lộ cho người khác biết”9.
Khi nhắc tới bí mật cá nhân, chúng ta sẽ thường bắt gặp một thuật ngữ nữa
khiến người đọc dễ bị nhầm lẫn, đó là đời sống riêng tư của cá nhân. Đời sống riêng
tư của cá nhân là tập hợp các yếu tố tạo thành nét riêng đặc thù, độc lập, không thể
7

Xem thêm Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản
có sửa đổi, bổ sung), Chủ biên Võ Thị Kim Oanh, Nxb Hồng Đức, tr.55
8
Phùng Trung Tập (2019), “Bí mật cá nhân và nhu cầu bảo vệ thơng tin bí mật của cá nhân”, Tạp chí Kiểm
sát, số 12/2019, tr.26
9
Xem thêm Đồn Thị Ngọc Hải, “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong pháp
luật dân sự”, truy cập ngày
06/3/2020


11

trộn lẫn và mang dấu ấn của riêng cá nhân, không thể trộn lẫn với người khác. Đời
sống riêng tư của cá nhân có đặc điểm riêng biệt của cá nhân trong quá trình sống,
thời gian sống, sự trải nghiệm trong các quan hệ xã hội mà hình thành và mang dấu
ấn riêng của cá nhân. Đời sống riêng tư là một quan hệ phản ánh đời sống của một
cá nhân có tính độc lập và với tư cách chủ thể trong các quan hệ xã hội ổn định hoặc
không ổn định trong không gian và thời gian xác định được.10 Cịn bí mật cá nhân là
tổng thể các quan hệ quá khứ, các thông tin liên quan đến cá nhân mang tính chất
chi phối các quan hệ cụ thể của cá nhân mà bị bộc lộ sẽ gây cho cá nhân những bất

lợi hoặc dễ gây ra sự hiểu lầm ở các chủ thể khác, mà bản chất của yếu tố bí mật cá
nhân khơng gây ra bất kỳ một thiệt hại nào cho chủ thể khác. Đời sống riêng tư và
bí mật cá nhân là hai thành tố hợp thành bí mật đời tư của cá nhân, là quyền nhân
thân gắn với cá nhân được pháp luật bảo hộ.11
Qua đây thấy rằng đời sống riêng tư và bí mật cá nhân đều là những quyền
nhân thân, thuộc về mỗi cá nhân mà họ khơng muốn có sự can thiệp, xâm phạm từ
chủ thể khác, đây cũng là quyền vừa có tính pháp lý, vừa có tính xã hội và được
pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản giữa đời sống riêng tư và bí
mật cá nhân là đời sống riêng tư của một cá nhân là một sự lựa chọn từ nhận thức,
nhu cầu và sự mong muốn của cá nhân, tự mình tạo ra môi trường sống, không gian
sống để đáp ứng nhu cầu đó, đời sống riêng tư cũng được hiểu là những sự việc liên
quan đến cá nhân, được cá nhân giữ cho riêng mình, nó có thể có điểm chung với
đời sống của cá nhân khác nhưng khơng có sự trộn lẫn12. Cịn bí mật cá nhân là
những thơng tin mà cá nhân không muốn bộc lộ công khai, thông tin này còn chịu
sự phụ thuộc vào các quan hệ xã hội khác của cá nhân đó13. Khi xác định thơng tin

10

Phùng Trung Tập (2018), “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”, Tạp chí Kiểm sát,
số 02/2018, tr.24 - 25
11
Phùng Trung Tập (2018), “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”, Tạp chí Kiểm sát,
số 02/2018, tr.25
12
Xem thêm Phùng Trung Tập (2019), “Bí mật cá nhân và nhu cầu bảo vệ thơng tin bí mật của cá nhân”, Tạp
chí Kiểm sát, số 12/2019, tr.26 - 27
13
Xem thêm Phùng Trung Tập (2019), “Bí mật cá nhân và nhu cầu bảo vệ thơng tin bí mật của cá nhân”, Tạp
chí Kiểm sát, số 12/2019, tr.26



12

bí mật của cá nhân, cần thiết phải đặt trong mối liên hệ với đời sống riêng tư của cá
nhân, bởi chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.14
Bí mật cá nhân là thuật ngữ được ghép bởi “bí mật” và “cá nhân”. Theo cuốn
đại từ điển tiếng việt thì bí mật được giải thích là “giữ kín, khơng để lộ ra, khơng
cơng khai”15. Một cách giải thích khác cho rằng: “bí mật” là thơng tin cần che giấu,
chỉ để một số nhất định những người có liên quan được biết. Những thơng tin được
xác định là bí mật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Dưới góc độ này hay với một bên thì
nó có thể cần phải che đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác, nó
có thể khơng cần che giấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thơng
tin đó có liên quan đến một điều gì đó mà nếu để người khơng có nhiệm vụ biết thì
có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu. Như vậy theo cách
giải thích này, bí mật được xác định bởi các yếu tố:16
Thứ nhất, bí mật là những thông tin. Theo nghĩa thông thường, thông tin
được hiểu là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu
biết của con người. Trên quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên
và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngơn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v... hay nói rộng hơn
bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người.17 Các thông tin
cá nhân này là yếu tố thuộc về nhân thân của mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
sang cho cá nhân khác (có tính phân biệt), thơng tin của cá nhân vừa mang tính
riêng biệt (gắn với cá nhân cụ thể) vừa mang tính trùng lặp (có thể xảy ra trường
hợp thông tin trùng khớp giữa hai hay nhiều cá nhân). Trong số các thơng tin đó, có
thơng tin được nhà nước ghi nhận là quyền dân sự, được lưu trữ và chứng nhận, bên
cạnh đó cũng có thơng tin chưa được thừa nhận là quyền và chưa được xác nhận,
lưu trữ. Đồng thời, cũng có những thơng tin đã được xác nhận từ khi cá nhân được
14

Xem thêm Phùng Trung Tập (2019), “Bí mật cá nhân và nhu cầu bảo vệ thơng tin bí mật của cá nhân”, Tạp

chí Kiểm sát, số 12/2019, tr.28
15
Theo Cuốn Đại từ điển tiếng việt, chủ biên Nguyễn Như Ý, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, 2008.
16
Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 47 - 48
17
Đoàn Phan Tân (2001), “Khái niệm thơng tin và các thuộc tính làm nên giá trị của thông tin”,
/>riCuaTT_BaiBao_%20%281%29.pdf, truy cập ngày 06/3/2020


13

sinh ra như giới tính, nơi sinh, cũng có những thông tin được xác nhận khi cha, mẹ
làm thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ như tên gọi,…18
Thứ hai, những thông tin này được che giấu bằng những biện pháp, cách
thức khác nhau.
Thứ ba, những thông tin được coi là bí mật này nếu người khác khơng có
nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu
thông tin.
Tuy nhiên, quan điểm này cũng cho rằng thông tin được coi là bí mật cũng
chỉ mang tính tương đối. Bởi lẽ, có thể đối với một cá nhân, thơng tin đó là bí mật,
họ khơng muốn cơng khai, nhưng đối với cá nhân khác, thơng tin đó lại có thể dễ
dàng bộc lộ công khai và không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của họ. Chính vì vậy,
khi xác định tính bí mật của thơng tin, sự việc thì cần thiết phải đặt trong bối cảnh
nhất định, để đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của chủ thể.
Còn khái niệm cá nhân hiện nay cũng chưa được quy định phổ biến, thống
nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng. Dưới góc độ xã hội, cá nhân
được xem là một con người với tư cách là một cá thể trong xã hội. Xã hội vừa là
tổng thể những điều kiện phát triển của cá nhân, vừa là kết quả phát triển tổng hòa

của tất cả các cá nhân và các tập thể.19 Dưới góc độ pháp lý, cá nhân được xem là
một chủ thể của quan hệ pháp luật. Qua đó, khái niệm cá nhân có thể được định
nghĩa là con người cụ thể và là một thực thể sống được đánh dấu bằng sự kiện sinh
ra (đăng ký khai sinh) và kết thúc bằng sự kiện chết đi (đăng ký khai tử), tồn tại
trong một tập thể hoặc trong một cộng đồng xã hội.20 Trong Nghị định của Chính
phủ về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành

18

Lê Thị Giang (2018), “Quyền riêng tư đối với thông tin cá nhân”, Tạp chí Kiểm sát, số 17/2018, tr.16 - 17
Xem
thêm
Từ
điển
Bách
khoa
tồn
thư
Việt
Nam,
/>%20nh%C3%A2n&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=29595, truy cập ngày 06/3/2020
20
Cá nhân là gì? Hiểu thế nào về khái niệm cá nhân theo quy định pháp luật, truy cập ngày 06/3/2020
19


14

chính, có đưa ra khái niệm cá nhân là “cơng dân Việt Nam, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, người nước ngồi có phản ánh, kiến nghị”21.

Mặc dù việc được bảo đảm giữ bí mật cá nhân là quyền gắn liền với mỗi cá
nhân và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên, đây không phải là quyền tuyệt đối, mà
vẫn có hạn chế nhất định. Tại khoản 2 Điều 38 BLDS năm 2015 quy định: “Việc thu
thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai
thơng tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý,
trừ trường hợp luật có quy định khác”. Điều này có nghĩa là bí mật cá nhân vẫn có
thể được cơng khai nếu như (i) có sự đồng ý của cá nhân; (ii) pháp luật có quy định
được phép cơng khai thơng tin cá nhân đó. Ngồi ra, Khoản 4 Điều 38 BLDS năm
2015 cũng ghi nhận thêm trường hợp có thể được cơng khai bí mật cá nhân trong
quan hệ hợp đồng như sau: “Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thơng tin về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được
trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Bằng việc kế thừa một số khái niệm được đưa ra từ các tác giả trước đây về
bí mật cá nhân và các khái niệm khác có liên quan, có thể đưa ra khái niệm về bí
mật cá nhân như sau:
Bí mật cá nhân là những thông tin hợp pháp gắn liền với nhân thân của cá
nhân, mà cá nhân không muốn bộc lộ công khai hoặc việc bộc lộ công khai sẽ gây
bất lợi cho họ.
 Ngƣời dƣới 18 tuổi
Ý thức bảo vệ, chăm sóc đối với trẻ em đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử
nhân loại, bởi họ là những đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm lý.
Từ thế kỷ XIV, XV, ở Châu Âu đã xuất hiện những dự án công cộng dành cho trẻ
em, chẳng hạn như bệnh viện Spedale Degli Innocenti ở Florent (Italia),… Ở Châu
21

Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 của Chính Phủ quy định về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến
nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính



15

Á, trong thời kỳ này, Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) do vua Lê Thánh
Tông của Việt Nam ban hành đã quy định trách nhiệm của các quan lại địa phương
phải giúp đỡ những người có hồn cảnh khó khăn, éo le, trong đó có trẻ em tàn tật
hoặc nghèo khổ, mồ côi không nơi nương tựa;… Bộ luật này cũng có rất nhiều quy
định nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm hại như quy định trừng trị tội gian dâm với trẻ
em gái, tội buôn bán phụ nữ, trẻ em;…22
Đến nay, trong hàng loạt các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật của
các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có khơng ít những quy
định nhằm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho nhóm đối tượng là trẻ em. Chẳng hạn như
theo BLDS năm 2015 thì hầu hết các quan hệ pháp luật dân sự, các giao dịch dân sự
của người chưa thành niên phải thông qua người đại diện hoặc người giám hộ.
Trong bối cảnh tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp thì
pháp luật tố tụng hình sự đóng vai trị rất quan trọng để bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm
hại và có hướng xử lý phù hợp đối với những trẻ em phạm tội. Để thực hiện được
nhiệm vụ đó, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định quan trọng và dành hẳn một
chương riêng để ghi nhận thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt đối với người dưới 18
tuổi.
Qua đây, thấy được sự xuất hiện của các thuật ngữ “trẻ em”, “người chưa
thành niên” và “người dưới 18 tuổi”. Vậy khái niệm người dưới 18 tuổi có gì khác
biệt so với hai khái niệm cịn lại?
Theo từ điển Anh ngữ Oxford, người chưa thành niên (Juvenile) dùng để ám
chỉ thanh thiếu niên (young person) hoặc thanh niên (youth). Trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, Điều 2.2 (a) Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về hoạt động tư pháp
đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc kinh23) định nghĩa: “Người chưa thành
niên là trẻ em (child) hay thanh thiếu niên (young person) mà tùy theo từng hệ
22

Ngô Đức Mạnh (2003), Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.15 - 16
23
Quy tắc Bắc Kinh có tên gọi đầy đủ là Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về hoạt động tư pháp đối
với người chưa thành niên, được thông qua theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại Hội đồng Liên
Hợp Quốc


16

thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người
lớn (adult)”.24 Người chưa thành niên theo định nghĩa của Quy tắc Bắc kinh bao
gồm trẻ em và thanh thiếu niên và họ được pháp luật quốc gia áp dụng một số quy
định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đặc thù khác với người đã thanh niên
trong quá trình xử lý tội phạm25.
Trước đây, một số tổ chức quốc tế thuộc Liên hợp quốc (sau đây viết tắt là
“LHQ”) như Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ (UNESCO), Tổ chức
lao động quốc tế (ILO), Quỹ dân số LHQ (UNFPA),… thường thống kê coi trẻ em
là người dưới 15 tuổi26. Tuy nhiên, hiện nay, các tổ chức này và các tổ chức quốc tế
khác nhau đều thống nhất theo cách định nghĩa về trẻ em của Công ước LHQ về
quyền trẻ em, coi trẻ em là người dưới 18 tuổi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được
áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1 Công ước của
LHQ về quyền trẻ em năm 1989). Tuy nhiên, khái niệm trẻ em được Công ước đưa
ra là một khái niệm mở, tùy vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng,… của
mỗi quốc gia mà trẻ em có thể là những đối tượng có độ tuổi thấp hơn mức tuổi mà
LHQ đưa ra. Khác với khái niệm trẻ em, khái niệm thanh thiếu niên khơng được tìm
thấy trong khung pháp lý của LHQ. Tuy nhiên, trong một số tài liệu phục vụ cho
mục đích thống kê, LHQ thường dùng từ thanh thiếu niên để chỉ nhóm người từ 1524 tuổi với nhận thức rằng khái niệm này có thể khơng giống nhau ở các quốc gia.27
Về sau, theo quy tắc 11 (a) Quy tắc Havana28 định nghĩa một cách đơn giản hơn về


24

Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên
cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, tr.2
25
Xem thêm Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới
18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, tr.2
26
Trần Văn Nhiên (2010), Bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ
người bị hại, thực trạng và giải pháp hồn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí
Minh, tr.1
27
Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên
cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, tr.2 - 3
28
Quy tắc Havana có tên gọi đầy đủ là Các quy tắc của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do,
được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990


17

thuật ngữ người chưa thành niên: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.29
Uỷ ban quyền con người nhấn mạnh rằng trong Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị, giới hạn độ tuổi người chưa thành niên được xác định bởi từng quốc
gia thành viên phụ thuộc vào các yếu tố xã hội, văn hóa và những điều kiện khác
nhưng theo quan điểm của cơ quan này thì tất cả những người dưới 18 tuổi nên
được đối xử như người chưa thành niên ít nhất trong các vấn đề liên quan đến tư
pháp hình sự. Uỷ ban quyền trẻ em trong các bản Bình luận chung (General
Comments) của mình, đặc biệt là Bình luận chung số 10 về Quyền trẻ em trong tư
pháp người chưa thành niên, cũng thường sử dụng thuật ngữ trẻ em (children) để

chỉ người dưới 18 tuổi cho tương đồng với Công ước về quyền trẻ em.30
Ở Việt Nam, trẻ em là người dưới 16 tuổi (Điều 1 Luật trẻ em năm 2016).
Song song với khái niệm trẻ em, khoa học pháp lý Việt Nam còn sử dụng thuật ngữ
“người chưa thành niên” trong một số văn bản quy phạm pháp luật. Theo BLDS
năm 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi (Khoản 1 Điều 21).
Trong Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là “BLHS”) và BLTTHS thì dùng độ tuổi để
thay thế, chứ khơng sử dụng thuật ngữ người chưa thành niên, để đảm bảo sự đồng
bộ, thống nhất và rõ ràng về mặt ngữ nghĩa.
Mặc dù hiện nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia có sự khác nhau
trong quy định về độ tuổi người chưa thành niên hay trẻ em, vì nó phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội - dân trí - phong tục - tập quán của từng
quốc gia, nhưng dưới góc độ khoa học và thực tiễn, các quốc gia trên thế giới và
Việt Nam đều có quan điểm chung thống nhất về việc xem xét, đánh giá con người
theo qui luật phát triển từ thấp cho đến cao, từ người ít tuổi đến người cao tuổi, từ
người chưa thành niên đến người đã thành niên,…31 Và cho dù là “trẻ em”, “người
29

Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên
cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, tr.4
30
Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên
cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, tr.4
31
Xem thêm Phan Thị Thanh Tâm (2009), Mở rộng và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo chưa thành niên
trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 trên cơ sở Việt Nam gia nhập công ước quốc tế về quyền trẻ
em, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr 6


18


chưa thành niên” hay “người dưới 18 tuổi” thì họ đều là những đối tượng dễ bị tổn
thương, chưa có sự hoàn thiện về tâm sinh lý nên cần rất cần được quan tâm và bảo
vệ hơn hết.
 Giữ bí mật cá nhân của ngƣời dƣới 18 tuổi
Giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi hiện nay đã trở thành một nguyên
tắc quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tư tưởng nền tảng, chi
phối hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với người bị buộc tội, người bị
hại và người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Mặc dù BLTTHS năm 2015 có sự
ghi nhận nguyên tắc “bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi” nhưng
lại không đưa ra một khái niệm nào về giữ bí mật cá nhân người dưới 18 tuổi, chính
vì vậy mà sẽ gây ra những hạn chế nhất định trong q trình giải thích và áp dụng
pháp luật.
Bằng những phân tích về nguyên tắc, bí mật cá nhân và cách hiểu về người
dưới 18 tuổi, có thể đưa ra khái niệm về giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi
trong tố tụng hình sự như sau:
Giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi là việc cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan, đảm
bảo thông tin hợp pháp gắn liền với nhân thân của người dưới 18 tuổi sẽ không bị
bộc lộ cơng khai nhằm xác định danh tính của họ.
1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của ngƣời
dƣới 18 tuổi
Mặc dù đóng vai trị rất quan trọng trong việc đảm bảo tốt nhất cho lợi ích
của người dưới 18 tuổi, nhưng hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào
đưa ra khái niệm cụ thể về giữ bí mật cá nhân người dưới 18 tuổi. Để nhận thức đầy
đủ hơn về nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi, có thể
đưa ra một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể được bảo đảm giữ bí mật cá nhân là người dưới 18 tuổi



×