Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHAN NGÂN GIANG

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Phan Ngân Giang
Lớp: Cao học Luật, Khóa 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp
với bất cứ một cơng trình nào khác. Các số liệu, thơng tin sử dụng để phân tích,
tổng hợp, thống kê trong đề tài được thu thập từ các cơ quan chức năng có thẩm
quyền, từ các nguồn tài liệu tham khảo đáng tin cậy và chính xác./.
Ngƣời cam đoan

PHAN NGÂN GIANG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Hội đồng xét xử
Hiệu lực pháp luật
Tịa án nhân dân
Tịa án nhân dân tối cao
Tổ tụng hình sự
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Xã hội chủ nghĩa

BLHS
BLTTHS
HĐXX
HLPL
TAND
TANDTC
TTHS
VKS

VKSNDTC
XHCN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC
THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự .....................6
1.1.2. Đặc điểm kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ....................12
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ................17
1.2. Kinh nghiệm lập pháp Việt Nam và kinh nghiệm nƣớc ngoài về kháng
nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự ........................................................ 20
1.2.1. Kinh nghiệm lịch sử lập pháp Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm ..20
1.2.2. Kinh nghiệm pháp luật tố tụng hình sự Trung Hoa và Liên Bang Nga về
kháng nghị giám đốc thẩm .................................................................................27
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................33
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM ...................................................36
2.1. Căn cứ và phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm ......................................... 36
2.1.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm...........................................................36
2.1.2. Phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm .........................................................48
2.2. Thẩm quyền và thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm .................................. 50
2.2.1. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm...................................................50
2.2.2. Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm ..........................................................54
Kết Luận Chƣơng 2 ................................................................................................62
CHƢƠNG 3. THỰC TIỆN KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP ...................................................64

3.1. Thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm ở 23 tỉnh phía nam ........................ 64
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định
của bộ luật tố tụng hình sự 2015......................................................................... 73


3.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc
thẩm ....................................................................................................................73
3.2.2. Các giải pháp khác để nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm 78
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................80
KẾT LUẬN ..............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quy định tại Điều 370 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Giám
đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án”.
Tại khoản 1 điều 372 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị
kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong
bản án, quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật và thơng báo cho người có
thẩm quyền kháng nghị”.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì giám đốc thẩm chỉ được
tiến hành khi có kháng nghị của những người có thẩm quyền (Chánh án Tòa án
hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát từ cấp cao hoặc cấp quân sự trung ương trở lên) đối
với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy,
kháng nghị giám đốc thẩm bản án hình sự đóng một vai trị rất quan trọng trong việc
thực thi pháp luật, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội của

pháp luật Việt Nam. Kháng nghị giám đốc thẩm là kháng nghị lại các bản án hoặc
các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên chỉ khi nào bản án hoặc
quyết đinh ấy có vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng thì mới bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 372 BLTTHS 2015 thì việc phát
hiện bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật có những vi phạm
pháp luật là của bất kỳ các cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào. Người phát hiện ra
các vi phạm của các bản án, quyết định của Tịa án có thể là cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội, đồn thể hoặc quần chúng hay đơn cử có thể là chính người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người bào chữa… Ngoài ra, các bài báo trên các trang thông tin báo đài hoặc
trên phương tiện thông tin đại chúng phát hiện ra các bản án vi phạm pháp luật cũng
là một trong những nguồn tin quan trọng để VKS hoặc Tòa án để kiểm tra lại các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.
Điều này đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đảm bảo hơn nữa
tính nghiêm minh, khách quan của việc áp dụng pháp luật. Tạo niềm tin cho nhân
dân, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc bảo đảm quyền lợi của người dân là


2
nhiệm vụ hàng đầu của các cơ quan thực thi pháp luật, từ đó mới có chế định về
kháng nghị giám đốc thẩm để bảo đảm quyền, nghĩa vụ hợp pháp của người dân.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng, kháng nghị giám đốc thẩm là một
chế định pháp luật đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc giải quyết các vi phạm
pháp luật của tòa án khi ban hành bản án, quyết định. Từ đó, tạo ra một cơ chế xét
lại, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho những người đã bị kết án.
Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Kháng nghị giám đốc thẩm theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định kháng nghị giám đốc thẩm hình sự chưa được nhiều học giả, luật

gia nổi tiếng, các Thẩm phán, Kiểm sát viên giàu kinh nghiệm chọn làm đề tài khoa
học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Hiện chưa có nhiều bài viết,
tài liệu phân tích về chế định kháng nghị giám đốc thẩm hình sự đăng trên các tạp
chí luật học, tạp chí Kiểm sát, nhiều bài viết đăng tải trên mạng Internet.
Hiện nay, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu chun sâu về thủ tục
giám đốc thẩm và đã được công nhận là đề tài cấp Bộ, luận án, luận văn, bình luận
khoa học, sách chun khảo. Có thể kể đến như Giáo trình Luật tố tụng hình sự của
Trường ĐH Luật Hà Nội (2008), NXB Cơng an nhân dân; Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam của Khoa Luật ĐH Quốc gia Hà Nội (2013), NXB ĐH Quốc gia
Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015 do PGS. TS Nguyễn Văn
Huyên, TS Lê Lan Chi chủ biên, NXB Lao Động, Hà Nội (2016).
- Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án
hình sự”, Tạp chí TAND, số 9 năm 2005;
- Vũ Gia Lâm, “Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS
năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 10 năm 2006;
- Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí TAND,
số 14 năm 2006;
- Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí
TAND, số 7 năm 2009;
- Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm
vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hồn thiện”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011;
- Trần Thảo, “Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sựnhững vấn đề lý luận và thực tiễn”, Bình luận những điểm mới của BLTTHS 2015,
TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên.


3
- Trần Văn Độ, “Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án đã có hiệu lực pháp luật”,

Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, PGS. TS. Nguyễn
Hịa Bình chủ biên

Ngồi ra cịn có một số bài đăng trên các trang thông tin điện tử về chế định
kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự được cơng bố trên các tạp chí chun
ngành như:
- Hồn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm
theo đáp ứng tinh thần cải cách tư pháp được đăng trên trang web của trường ĐH
Kiểm sát Hà Nội: />- />-nghi-giam-doc-tham-vu-an-hinh-su-theo-huong-khong-co-loi-cho-193319
Tuy nhiên, các cơng trình khoa học đã cơng bố cũng chỉ tiếp cận những góc độ
khác nhau về kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự. Các tác giả cũng đã có
những nhìn nhận về những vấn đề cơ bản của giám đốc thẩm và kiến nghị các giải
pháp. Một số vấn đề liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm chưa được làm rõ. Vì vậy, để
hiểu hơn về chế định kháng nghị giám đốc thẩm vẫn còn nhiều vướng mắc, cần có
cơng trình nghiên cứu chun sâu hơn để tìm hiểu, giải quyết được các vấn đề cần thiết
của chế định kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong
giai đoạn hiện nay khi BLTTHS 2015 mới được ban hành và có hiệu lực thi hành vào
ngày 01/01/2018, Luật tổ chức TAND năm 2014, Luật tổ chức VKSND năm 2014 có
hiệu lực thi hành. Với sự kế thừa những giá trị lý luận của các cơng trình đã cơng bố,
Luận văn tiếp tục nghiên cứu những quy định của BLTTHS 2015 về kháng nghị giám
đốc thẩm các vụ án hình sự với những điểm mới so với BLTTHS trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: là nhằm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hình sự trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đảm bảo mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài
phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng
hình sự;
+ Phân tích các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam;



4
+ Đánh giá thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam trong thời gian qua.
+ Kiến nghị một số biện pháp nhằm hoàn nâng cao hiệu quả kháng nghị giám
đốc thẩm trong tố tụng hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là các vấn đề pháp lý và thực tiễn về
kháng nghị giám đốc thẩm.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về nội dung của
kháng nghị giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn nghiên cứu
thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự của 23 tỉnh khu vực phía
Nam từ năm 2015 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tư pháp.
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, phương pháp nghiên cứu được
sử dụng, bao gồm:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 và Chương 2
của luận văn nhằm phân tích những nội dung trong quy định của kháng nghị giám
đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích các căn cứ, phạm vi, thủ tục
kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS 2015.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng chủ yếu ở mục 1.2 của Chương 1 luận
văn, nhằm đánh giá, so sánh các điểm tương đồng, điểm khác biệt giữa quy định của
BLTTHS năm 2015 về kháng nghị giám đốc thẩm với kinh nghiệm của các nước
trong kháng nghị giám đốc thẩm.
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng chủ yếu ở các Kết luận nhằm khái
quát lại những nội dung chính trong các Chương của luận văn, và tập trung trong
Chương 3 của luận văn với để đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các
quy định của TTHS liên quan tới kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS 2015.
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng chủ yếu ở trong Chương 3 của luận

văn để thống kê các số liệu kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự để chứng
minh cho tình hình kháng nghị của nước ta trong thời gian qua.
- Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình: Được sử dụng chủ yếu ở trong
Chương 2 và Chương 3 của luận văn nhằm mục đích chứng minh cho các khái
niệm, các căn cứ và số liệu cho kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHS.


5
6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài mong muốn làm sáng tỏ các quy định về thủ tục,
cách thức, quy trình kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS 2015, từ đó đánh giá
và định hướng việc hoàn thiện hơn các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm khi
triển khai thi hành tại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần nâng cao hiệu quả trong việc vận dụng các
quy định của pháp luật vào việc kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án, tránh việc
gây oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm.
Kết quả nghiên cứu còn hỗ trợ các cơ quan, những người công tác tại ngành
kiểm sát nhân dân, nhất là những cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên công tác trực
tiếp tại các Viên kiểm sát nhân dân cấp cao có thêm những kiến thực lý luận và có
cái nhìn tổng qn về thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự.
Kết quả của luận văn bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong khoa học pháp
lý, có thể được dùng là tài liệu phục vụ cho cán bộ, kiểm sát viên của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động thực tiễn, là tài liệu tham khảo học tập cho các sinh viên,
học viên các trường đào tạo Luật.
7. Bố cục luận văn
Bên cạnh Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 03 chương sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong luật tố
tụng hình sự.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị

giám đốc thẩm.
Chƣơng 3. Thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam và giải pháp.


6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu khái niệm thế nào là kháng nghị? Theo Từ
điển tiếng Việt thì “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính
thức”1, hoặc là “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối một việc gì”2. Khi ta tìm hiểu
“kháng nghị” dưới góc độ của từ điển Luật học thì “Kháng nghị là việc người có
thẩm quyền, bằng văn bản của mình gửi đến Tịa án có thẩm quyền làm ngừng hiệu
lực phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp
luật”3. Qua định nghĩa được nêu của từ điển Luật học thì có thể hiểu kháng nghị là
hình thức phản đối bằng văn bản đối với một vấn đề đã được định đoạt, khi đối
chiếu vào pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thì đó sự là phản đối lại bản án, quyết
định của Tịa án.
Đồng thời, thơng qua các quy định của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành, chúng ta có thể hiểu “Kháng nghị” theo một
cách cơ bản nhất - là sự chống đối về mặt nhà nước đối với quyết định do các cơ
quan có thẩm quyền ban hành. Sự chống đối này được thể hiện bằng một văn bản
mang tính chất áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được
những người có thẩm quyền của cơ quan đó ban hành thơng qua việc áp dụng pháp
luật đối với các hành vi pháp lý (mang tính chất khơng hợp pháp hay hợp pháp) của

cơ quan, tập thể, cá nhân bị kháng nghị. Việc ban hành kháng nghị được thực hiện
khi chủ thể ban hành kháng nghị cho rằng (giả thiết, giả định hoặc khả năng) có vi
phạm nghiêm trọng và yêu cầu chủ thể ban hành văn bản hoặc thực hiện hành vi đó
phải chấm dứt vi phạm, yêu cầu trực tiếp khắc phục vi phạm hoặc yêu cầu tập thể,
cơ quan có thẩm quyền giải quyết kháng nghị thực hiện các biện pháp, trình tự và
thủ tục theo quy định của pháp luật để khắc phục sai lầm, vi phạm đó. Việc kháng
nghị và giải quyết kháng nghị đều phải tuân theo đúng các quy định về trình tự, thủ
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đã Nẵng, Đà Nẵng, tr 492.
Nguyễn Văn Xô (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, tr 345.
3
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1999), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 249.
1
2


7
tục luật định. Bên cạnh đó cũng có khái niệm cho rằng “Kháng nghị trong tố tụng
hình sự là việc Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên mà cụ thể là Viện
trưởng hoặc người được Viện trưởng ủy quyền của cơ quan đó trực tiếp yêu cầu
Tòa án xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục phúc thẩm, xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm”4. Nhìn chung, kháng nghị chính là quyền đề nghị Tịa án cấp
trên trực tiếp xem xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án
cấp phúc thẩm chưa có hoặc đã có HLPL nhưng trong q trình điều tra truy tố, xét
xử có dấu hiệu vi phạm pháp luật, sai lầm hoặc phát sinh những tình tiết mới có thể
làm thay đổi cơ bản hoặc một phần quan trọng nội dung của vụ án. Kháng nghị do
chủ thể là những người thực thi pháp luật (Tịa án, VKS) ban hành nhằm mục đích
đảm bảo cho việc xét xử được chính xác, cơng bằng đồng thời khắc phục, sửa chữa
những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án.
Đối với thuật ngữ “Kháng nghị giám đốc thẩm”. Trên thực tiễn, đa số quan

điểm của người tiến hành tố tụng đều cho rằng, kháng nghị giám đốc thẩm là hành vi
tố tụng của chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng yêu cầu Tòa
án xem xét lại những bản án, quyết định đã có HLPL khi có căn cứ cho rằng có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong q trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, khác với
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là hình thức phản đối bằng văn bản của người có
thẩm quyền đối với bản án, quyết định của Tịa án chưa có hiệu lực pháp luật và
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là hình thức phản đối bằng văn bản của người có
thẩm quyền đối với bản án, quyết định đã có HLPL của Tịa án nhưng phát hiện có
tình tiết mới phát sinh có thể làm thay đổi một phần hay toàn bộ nội dung của bản án,
quyết định đó, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hình thức phản đối bằng văn
bản của người có thẩm quyền đối với bản án, quyết định của Tịa án đã có HLPL
nhưng phát hiện bản án, quyết định đó có sai phạm pháp luật nghiêm trọng. Chủ thể
có thẩm quyền ban hành kháng nghị giám đốc thẩm được pháp luật giới hạn trong
phạm vi nhất định. Có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc
biệt, nhằm xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết
vụ án. Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao có quyền kháng
nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao và của
4

Theo />

8
Tòa án khác khi xét thấy cần thiết (trừ Quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND
Tối cao). Căn cứ để kháng nghị gồm: Kết luận trong bản án, quyết định của tịa án
khơng phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng
trong thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án. Nói cách khác, tính chất thủ tục giám đốc thẩm là xem xét
lại bản án, quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện có sai sót
nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng”5. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm được quy

định cụ thể tại Điều 371 BLTTHS 2015. Chúng tôi thấy quan điểm trên hợp lý vì đã
xem đây là hành vi tố tụng của chủ thể có thẩm quyền can thiệp trực tiếp vào bản án,
quyết định đã có HLPL và u cầu Tịa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định
đó vì cho rằng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Kháng nghị giám đốc thẩm là một quyền năng đặc biệt mà các cơ quan tư
pháp (VKS, Tòa án) được Nhà nước trao quyền để thực hiện chức năng kháng nghị
các bản án, quyết định đã có HLPL nhưng phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong
q trình giải quyết vụ án. Cụ thể ở đây là kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của VKS và Tòa án mà cụ thể là Chánh án Tòa án, Viện
trưởng VKSND từ cấp cao trở lên và từ cấp quân khu trở lên theo quy định tại Điều
373 BLTTHS 2015. Chủ thể ban hành các kháng nghị từ kháng nghị phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm đều phải là các cơ quan thực thi pháp luật được Nhà nước
trao quyền, không phải bất kỳ các tổ chức, cá nhân, cơ quan Nhà nước nào cũng có
thẩm quyền ban hành kháng nghị nói chung, kháng nghị giám đốc thẩm nói riêng.
Từ phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm: Kháng nghị giám đốc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam là việc người có thẩm quyền ban hành một
văn bản tố tụng can thiệp trực tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng do phát hiện có những sai lầm nghiêm
trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị giám đốc thẩm làm phát sinh việc xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực
pháp luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định đã bị kháng nghị. Kháng
nghị giám đốc thẩm phải được thực hiện bởi những người có thẩm quyền theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngồi ra, chúng ta cịn tìm hiểu về định nghĩa về thuật ngữ “Giám đốc thẩm”.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ này, nhất là đối với những
Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm trên báo được đăng vào ngày 3/12/2018.
5


9

người tiến hành hoạt động tố tụng. Tác giả xin nêu ra một số quan điểm sau đây:
“Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt được áp dụng khi bản án, quyết định của tịa
án đã có HLPL nhưng bị phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc giải quyết vụ án”6, hay là “giám đốc thẩm là những thủ tục tố tụng hình sự quan
trọng mà Tịa án có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm
quyền theo các căn cứ luật định nhằm khắc phục những sai lầm nghiêm trọng trong
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án”.7 Thủ tục này là hình thức
mà các cơ quan thực thi pháp luật dùng để bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tố tụng. Cũng có quan điểm cho rằng, giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt nhằm
xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án…
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc xử lý vụ án”8. Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn thì “Giám đốc thẩm là
một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình nhằm xác định và khắc phục những vi phạm,
sai lầm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án
dựa trên những căn cứ kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị theo qui
định của pháp luật”9. Các quan điểm nêu trên đều có tính hợp lý. Tịa án đã sử dụng
những căn cứ dựa vào đó để kết luận vụ việc khơng đúng với bản chất sự việc đó.
Chúng tơi thấy quan điểm này chưa thể hiện đúng nội hàm của vấn đề vì chỉ đề cập
đến vi phạm về luật nội dung của bản án, quyết định là chưa đủ. Tuy nhiên, vì cho
rằng các mệnh đề trên chưa thể hiện được thuộc tính của thuật ngữ này, nên tác giả
luận văn cho rằng: Giám đốc thẩm- là một thủ tục đặc biệt được dùng để phát hiện và
khắc phục bản án, quyết định giải quyết vụ án của tòa án đã có HLPL nhưng có sai
lầm nghiêm trọng về việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết. Giám đốc
thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án đã có HLPL nhưng có sai
lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Qua nghiên cứu khái niệm
giám đốc thẩm, tác giả chia thủ tục giám đốc thẩm làm hai giai đoạn cơ bản là giai
đoạn kháng nghị giám đốc thẩm và giai đoạn xét xử giám đốc thẩm. Giai đoạn kháng
6


Theo />Trần Văn Độ (2015), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, NXB Chính trị Quốc
gia, tr 334.
8
Đinh Văn Quế (1999), Thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Đà nẵng.
9
Nguyễn Văn Tuấn (2017), Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
7


10
nghị giám đốc bắt đầu khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi
phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án và kết thúc khi người có thẩm quyền
kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Giai đoạn này phải tuân
theo những quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, người có thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm…
Về đối tượng bị kháng nghị giám đốc thẩm. Chúng ta cần có nhận thức đúng
về đối tượng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm. Đối tượng bị kháng nghị giám
đốc thẩm chỉ là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm có
thể là bất kỳ bản án nào của Tòa án cấp dưới, “đối tượng của giám đốc thẩm là bản
án, quyết định của Tòa án cấp dưới về vụ án chứ khơng phải chính vụ án”10. Bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bao gồm: Bản án, quyết định có HLPL của
Tịa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật;
bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
của TAND cấp cao. Theo GS. TS Nguyễn Ngọc Anh và luật sư. TS. Phan Trung
Hồi thì: “Đối tượng của giám đốc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, bao gồm: Nếu bản án, quyết định có vi

phạm nghiêm trọng pháp luật về tố tụng thì đối tượng giám đốc thẩm là toàn bộ bản
án, quyết định bị kháng nghị. Nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về nội dung
thì đối tượng giám đốc thẩm chỉ là phần của bản án, quyết định bị kháng nghị, còn
phán quyết của Tịa án về các phần khác khơng bị kháng nghị vẫn có hiệu lực thi
hành.”11. Tuy nhiên, một vụ án có thể kéo dài khơng có điểm dừng do cấp phúc
thẩm hủy án của cấp sơ thẩm hoặc HĐXX giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định
của Tòa án cấp dưới đã có HLPL và cứ như vậy bị lặp đi lặp lại. Do vậy, các nhà
làm luật cần phải có một phán quyết của Tịa án có thẩm quyền cao nhất để khép lại
vụ án, chấm dứt vòng lặp lại nêu trên. Chính vì vậy, các quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC khơng bị kháng nghị, vì đây là cơ quan xét xử cao nhất nên
phán quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cuối cùng, đánh dấu
sự kết thúc của một vụ án. Bên cạnh đó, nếu quyết định của Tịa án có thẩm quyền
có hiệu lực pháp luật nhưng không phải là quyết định xử lý vụ án, mà là quyết định
tố tụng khác (như: quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
Nguyễn Văn Huyên (2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 470.
Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hồi, Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội, tr. 731.
10
11


11
sung, quyết định trưng cầu giám định, quyết định khởi tố vụ án hình sự của
HĐXX...) thì đều khơng phải là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Đối với
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì được quy định tại khoản 3 Điều 168 và
điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử,
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện
khơng đúng, khơng đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nên đã xâm
hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm
ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.

Như chúng ta đã biết, Việt Nam tồn tại chế độ xét xử: xét xử sơ thẩm và xét
xử phúc thẩm. Tòa án nhân danh nước CHXHXN Việt Nam ra các bản án, quyết
định nếu khơng bị kháng cáo, kháng nghị sẽ có HLPL để thi hành. Các bản án ấy có
thể tước đoạt, hạn chế quyền con người, quyền công dân của người bị kết án. Tuy
nhiên, không phải lúc nào hoạt động ra bản án, quyết định của Tòa án cũng là chính
xác, đúng người, đúng tội. Bên cạnh những bản án thể hiện được tính nghiêm minh
của pháp luật thì vẫn cịn những bản án, quyết định vì một lí do nào đó khơng thật
sự đúng pháp luật mà lại xuất hiện vi phạm nghiêm trọng trong quá trình điều tra,
giải quyết vụ án. Chính vì những lý do nêu trên, xuất phát từ trách nhiệm của Nhà
nước, của các cơ quan thực thi pháp luật, từ sự tôn trọng chân lý và công lý, sự thật,
lẽ công bằng trong tố tụng hình sự, cũng như để những người tham gia tố tụng thực
hiện trọn vẹn và đầy đủ các nghĩa vụ của mình, cho nên pháp luật tố tụng quy định
về việc phát hiện sai lầm của bản án, quyết định và trách nhiệm kháng nghị giám
đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai
lầm nghiêm trọng. Điều đó khác với việc những người tham gia tố tụng làm đơn
kháng cáo hoặc VKS kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án. Kháng
nghị giám đốc thẩm các vụ án hình sự ra đời như là hình thức để các cơ quan thực
thi pháp luật khắc phục và sửa chữa những sai lầm mà mình phạm phải trong quá
trình điều tra và giải quyết vụ án. “Khác với cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm là hai
cấp xét xử, giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục tố tụng
đặc biệt. Do đó, khi chưa thi hành bản án, quyết định đã có HLPL thì giám đốc
thẩm cũng khơng phải là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, mà chỉ xuất
hiện khi có kháng nghị của người có thẩm quyền12”
12

Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài, tlđd (11), tr. 731.


12

Nội dung kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm việc can thiệp một phần hay
tồn bộ bản án đã có HLPL nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật. Chính vì vậy, việc xác định được chính xác nội dung cơ bản của
kháng nghị giám đốc thẩm là hết sức quan trọng vì nó có thể chỉ ra được từng căn
cứ pháp lý cụ thể của bản án, quyết định đã có HLPL đó có vi phạm như thế nào và
nó đã gây hệ lụy xấu trong hoạt động áp dụng pháp luật và có thể gây ra mâu thuẫn
của xã hội. Nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm có ý nghĩa trong việc hướng
dẫn xét xử và phòng ngừa những sai lầm trong hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cả người tham gia tố tụng.
Mặc dù có những quy định như trên nhưng về nhận thức và thực tiễn thì
chúng ta cần hiểu rằng, bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị kháng nghị ở
đây- là toàn bộ hoặc một phần của bản án đó, nhưng sự vi phạm pháp luật đó đã
hoặc tất yếu sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước trong hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành và
các văn bản hướng dẫn thi hành khác hoặc xâm phạm đến những quyền và lợi ích
hợp pháp của những người tham gia tố tụng, gồm: người bị kết án, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
1.1.2. Đặc điểm kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Từ khái niệm kháng nghị đã phân tích ở trên, kháng nghị giám đốc thẩm có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đó là hoạt động phát hiện và xác định sai lầm nghiêm trọng của
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
Như đã tìm hiểu về các khái niệm, có thể nhận thấy được: Giám đốc thẩm là
việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL nhưng phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong quá trình áp dụng pháp luật. Người ra kháng nghị
giám đốc thẩm có nghĩa vụ phải chỉ ra cụ thể và chính xác trong kháng nghị về các
căn cứ pháp lý đối với các sai lầm nghiêm trọng của đối tượng bị kháng nghị là
phần nào trong bản án, quyết định xử lý vụ án đó để dẫn đến bị kháng nghị và chỉ ra
cụ thể căn cứ pháp lý để cấp giám đốc thẩm khắc phục được những vi phạm đó.
Đây là vấn đề quan trọng nhất của kháng nghị, rất cần thiết vì kháng nghị giám đốc

thẩm có sự khác biệt lớn so với kháng nghị phúc thẩm và kháng nghị tái thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm là hình thức phản đối bằng văn bản đối với các bản án, quyết
định của Tịa án chưa có HLPL, tức là trong thời hạn 15 ngày đối với Viện kiểm sát
cùng cấp và 30 ngày đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị


13
phúc thẩm nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc vi phạm về nội dung giải quyết
vụ án. Kháng nghị tái thẩm là hình thức phản đối bằng văn bản đối với các bản án,
quyết định đã có HLPL nhưng phát hiện có tình tiết mới có thể làm thay đổi nội
dung của bản án, quyết định mà tại thời điểm ra bản án Tịa án khơng biết về việc có
tình tiết mới này. Kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hình sự là hình thức phản đối
bằng văn bản đối với bản án, quyết định đã có HLPL của Tịa án mà phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ hai, quyền kháng nghị giám đốc thẩm thuộc về người có thẩm quyền
của Viện kiểm sát và Tòa án
Như chúng ta đã phân tích ở trên, giám đốc thẩm khơng phải là một cấp xét xử
độc lập trong hệ thống tố tụng nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam mà nó chỉ là một thủ
tục tố tụng đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Tịa án. Người
có thẩm quyền khi phát hiện hoặc thơng qua các nguồn thông tin mà phát hiện bản án,
quyết định xử lý vụ án có sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật mà
đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước hay chủ thể khác, thì phải kịp thời ra kháng nghị nhằm khôi phục lại trật tự pháp
luật nếu có đủ các căn cứ pháp lý để kháng nghị giám đốc thẩm. Đây không chỉ là
quyền mà còn là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể ra kháng nghị. Theo quy định của pháp
luật nước CHXNCN Việt Nam thì chủ thể có thẩm quyền ban hành kháng nghị gồm:
“Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị đối với bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao và của Tòa án khác khi xét
thấy cần thiết (trừ Quyết định của HĐTPTANDTC.- Chánh án tòa án quân sự trung
ương, Viện trưởng VKS quân sự trung ương có quyền kháng nghị đối với bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự cấp quân khu và khu vực.
Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, cấp huyện trong
phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.”13. Chỉ riêng đối với kháng nghị giám đốc thẩm
thì thẩm quyền ban hành kháng nghị có thêm Chánh án Tịa án cịn đối với kháng
nghị phúc thẩm và kháng nghị tái thẩm thẩm quyền ban hành kháng nghị chỉ là của
VKS. Đối với kháng nghị phúc thẩm, chủ thể có quyền ban hành kháng nghị là Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc là Viện kiểm sát cùng cấp theo quy định tại khoản 1
Điều 336 BLTTHS 2015. Đối với kháng nghị tái thẩm, chủ thể có quyền ban hành
13

Theo />

14
kháng nghị đó là Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung
ương và Viện trưởng VKSND Cấp cao theo quy định tại Điều 400 BLTTHS 2015.
Trước hết ta xét về chức năng của VKSND là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp14 cịn chức năng của Tòa án là cơ quan xét xử của nhà nước
CHXHCN Việt Nam, cơ quan thực hiện quyền tư pháp15. Qua quy định trên có thể
nhận thấy chức năng cơ bản của VKSND ngồi thực hành quyền cơng tố thì cịn chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp nên thẩm quyền kiểm sát các bản án, quyết định của
Tịa án là để bảo đảm các bản án đó đúng pháp luật nên VKS được quy định về quyền
hạn kháng nghị đối với các bản án là việc đương nhiên, còn đối với Tòa án là cơ quan
xét xử, thực hiện quyền tư pháp nên BLTTHS không quy định về quyền kháng nghị.
Tuy nhiên, xuất phát từ việc kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết
định đã có HLPL của Tịa án nhưng phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong quá
trình giải quyết vụ án (ở đây có thể là vi phạm về hình thức và nội dung). Việc chỉ có
kháng nghị giám đốc thẩm mới có Tịa án tham gia vào việc có thẩm quyền ban hành
kháng nghị nhằm mục đích là việc nhà làm luật cho Tòa án cấp trên việc phát hiện ra
các vi phạm nghiêm trọng của Tòa cấp dưới để tự mình xét lại bản án và khắc phục,

sửa chữa các sai phạm nghiêm trọng đó. Kháng nghị tái thẩm khi phát hiện một tình
tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án mà việc xác minh tình tiết mới đó lại
thuộc trách nhiệm của VKS.
Thứ ba, trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định của
pháp luật
Vì kháng nghị giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt của người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật khi trực tiếp can thiệp vào bản án hoặc quyết
định xử lý vụ án của Tòa án nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã có HLPL nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng, cho
nên hoạt động này bản thân nó chứa đựng những ý nghĩa về chính trị - văn hóa - tư
tưởng - pháp lý và những giá trị khác khi chúng ta so sánh về lợi ích mà người có
thẩm quyền cần phải kháng nghị. Hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm là tác động
trực tiếp vào các bản án, quyết định đã có HLPL nên việc quy định cụ thể về các
trình tự thủ tục ban hành kháng nghị là hết sức cần thiết vì nó khơng chỉ phản ánh
được sự sai phạm nghiêm trọng của các bản án, quyết định mà còn là hình thức sửa
chữa sai lầm cho các bản án, quyết định có sai phạm đó. Trình tự, thủ tục của việc
14
15

Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, khoản 1 Điều 2.
Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, khoản 1 Điều 2.


15
ban hành kháng nghị giám đốc thẩm được quy định đầy đủ trong BLTTHS 2015 từ
Điều 374 đến Điều 381 BLTTHS 2015. Việc cụ thể hóa các trình tự thủ tục kháng
nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS 2015 cho thấy được tính cấp thiết của việc
kháng nghị cũng như việc phải tuân theo pháp luật của người ra kháng nghị đó.
Chính vì kháng nghị giám đốc thẩm là hoạt động mang tính định hướng của chủ thể
có thẩm quyền khi tham gia tố tụng và thể hiện sự văn minh, công bằng của xã hội

cũng như của pháp luật, cho nên việc ra kháng nghị phải tuân theo trình tự, thủ tục,
thẩm quyền chặt chẽ thì mới có giá trị pháp lý cao nhất để chủ thể có bản án, quyết
định bị kháng nghị cũng như cấp giám đốc thẩm xem xét, giải quyết tính hợp pháp
hay khơng hợp pháp cả về hình thức và nội dung của kháng nghị.
Thứ tư, kháng nghị giám đốc thẩm thể hiện sự độc lập và sự khách quan
trong áp dụng pháp luật
Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được
đảm bảo. Hoạt động xét xử để ra bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án mà
cụ thể là Hội đồng xét xử, Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và
chủ tọa phiên tòa là hoạt động áp dụng pháp luật với những đặc điểm và các giai
đoạn của quá trình áp dụng pháp luật khác nhau. Từ đó, căn cứ của kháng nghị giám
đốc thẩm là việc chỉ ra bản án, quyết định cụ thể mà chủ thể ban hành ra kháng nghị
cho rằng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và có đủ căn cứ kháng nghị để khắc
phục hậu quả của việc ra phán quyết sai lầm, mâu thuẫn xã hội từ bản án đó nảy
sinh theo đúng quy định của pháp luật. Việc kháng nghị giám đốc thẩm chỉ được
thực hiện khi và chỉ khi phát hiện ra một bản án, quyết định có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng. Người ban hành kháng nghị chỉ được ra quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm đối với một bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không
được phép trong một kháng nghị lại có nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật vi phạm khác nhau. Điều đó vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Cũng
giống như các hoạt động tố tụng khác, hoạt động kháng nghị phải mang tính khách
quan của sự xem xét đối với đối tượng bị kháng nghị và phạm vi kháng nghị; không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người ban hành kháng nghị. Có như vậy mới
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu địi hỏi của kháng nghị; tránh việc ra kháng nghị
khơng có căn cứ, khơng hợp pháp hoặc khơng cần thiết khi xét ở góc độ pháp lý vì
bất cứ lý do gì. Kháng nghị mang tính khách quan, khơng mang ý chí chủ quan của
người ban hành kháng nghị nhằm đảm bảo cho việc ban hành một kháng nghị công
tâm nhất, khơng phụ thuộc vào bất cứ yếu tố gì ảnh hưởng đến kháng nghị nhằm



16
mang lại sự công bằng nhất của bản án, quyết định, để tránh việc oan sai, đúng
người đúng tội, tạo niềm tin nơi người dân.
Thứ năm, việc xem xét kháng nghị phụ thuộc vào bản án của Hội đồng
thẩm phán
Hoạt động áp dụng pháp luật ra văn bản cá biệt khi giải quyết từng vụ án có
các giai đoạn phổ biến là: phân tích đánh giá bản chất vụ việc, lựa chọn quy phạm
pháp luật để áp dụng cho đúng và kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn bản áp dụng
pháp luật và tổ chức thi hành văn bản áp dụng pháp luật đó. Đặc điểm của hoạt
động áp dụng pháp luật là mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, tính cá biệt,
tính bắt buộc phải thực hiện và tính linh hoạt của chủ thể. Hoạt động áp dụng pháp
luật là nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động nhằm bảo đảm sự trật tự của xã
hội, sự kỷ cương của pháp luật. Pháp luật là cơng cụ thể chế hóa quyền lực của Nhà
nước, đảm bảo cho sự hoạt động tối ưu nhất của bộ máy nhà nước. Chủ thể có
quyền ban hành kháng nghị đối với đối tượng bị kháng nghị khi cho rằng có sai lầm
nghiêm trọng trong q trình áp dụng pháp luật, nhưng việc giải quyết kháng nghị
đó lại phụ thuộc vào hội đồng giám đốc thẩm, trong đó người ban hành kháng nghị
là một thành viên hoặc chủ tọa của phiên họp giám đốc thẩm, còn kết quả của việc
xét kháng nghị về nguyên tắc phải phụ thuộc vào đa số các thành viên của Hội đồng
giám đốc thẩm trên quan điểm thượng tôn pháp luật, phải được tất cả các thành viên
trong Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận thì kháng nghị đó mới được cơng nhận.
Kết luận về sự thật khách quan mới sinh ra giả thiết, chứ giả thiết không thể sinh ra
kết luận. Hoạt động tố tụng theo các thủ tục luật định cũng nhằm hướng đến các cấp
độ của chân lý, chứ không phải việc hướng đến chân lý tuyệt đối. Vì vậy, khơng
phải mọi kháng nghị đều đúng hoặc cần thiết nên đều phải được cơ quan, tập thể,
người có sản phẩm bị kháng nghị chấp nhận hoặc hội đồng xét xử giám đốc thẩm
chấp nhận. Mặt khác, người ban hành ra kháng nghị cũng phải tôn trọng pháp luật,
lắng nghe ý kiến của các thành viên hội đồng xét kháng nghị và các thành viên của
hội đồng giám đốc thẩm cũng không thể lệ thuộc vào quan hệ quản lý hành chính tư pháp, nể nang xuôi chiều hay thành kiến đối với người ban hành ra bản án, quyết
định bị kháng nghị hay đối với người ra kháng nghị, với người bị kết án mà phải

thực hiện đúng quy định của pháp luật khi phát biểu ý kiến và biểu quyết. Việc thực
hiện xét kháng nghị tại phiên họp (phiên tòa) giám đốc thẩm do Hội đồng giám đốc
thẩm phải là số lẻ thành viên (phiên tòa ba thẩm phán hoặc năm thẩm phán) và bắt
buộc phải có sự tham gia của VKS. Việc này nhằm giúp cho việc ban hành ra bản


17
án có kháng nghị thực sự cơng tâm, đúng quy định của pháp luật chứ khơng mang ý
chí chủ quan của bất kỳ người tiến hành tố tụng nào cả.
Thứ sáu, kháng nghị giám đốc thẩm làm phát sinh một quan hệ pháp luật
tố tụng mới
Khi ban hành ra kháng nghị giám đốc thẩm, tùy theo từng đối tượng, từng chủ
thể bị kháng nghị và phạm vi kháng nghị. Nếu người ban hành kháng nghị khơng rút
kháng nghị vì có một trong các lý do theo quy định của pháp luật mà phải rút; hoặc
pháp luật không cho phép được rút (vì gắn với trách nhiệm pháp lý của người ra
kháng nghị,..) thì nó sẽ phát sinh một quan hệ pháp luật tố tụng mới là xem xét, giải
quyết kháng nghị để chấp nhận kháng nghị (toàn bộ hoặc một phần kháng nghị) hoặc
khơng chấp nhận tồn bộ kháng nghị (vì thiếu căn cứ hoặc bản án bị kháng nghị
khơng có lỗi hoặc kháng nghị vi phạm thẩm quyền về hình thức hoặc thẩm quyền về
nội dung hoặc bản án đó chưa đến mức bị kháng nghị hoặc khơng được kháng nghị).
Việc ban hành ra một kháng nghị mới sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng mới
giữa các chủ thể có liên quan kháng nghị đó để xem xét giải quyết kháng nghị.
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, kháng nghị giám đốc thẩm nhằm khắc phục những sai sót trong
việc áp dụng pháp luật: Hiến Pháp 2013 và BLTTHS 2015 quy định về xét xử sơ
thẩm và xét xử phúc thẩm được bảo đảm, đồng thời cũng quy định về kháng nghị và
xét xử theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này thể hiện sự tôn
trọng chân lý, tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, đồng thời thể hiện sự văn
minh của hoạt động áp dụng pháp luật trong quá trình tố tụng các vụ án hình sự, bảo
đảm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố

tụng hình sự và thi hành án, thể hiện tính nghiêm minh, kỷ cương trong hoạt động
tư pháp nhưng đồng thời cũng thể hiện được tình người trong việc thực thi pháp
luật. Đồng thời sẽ chống lại được tư tưởng chủ quan ỷ lại khi chỉ tôn trọng việc xét
xử ra bản án, quyết định sơ thẩm xử lý vụ án có HLPL hoặc xét xử phúc thẩm đối
với bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và cấp phúc thẩm chỉ xét
kháng cáo, kháng nghị để ra bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực ngay khi ra
bản án, quyết định đó, mà khơng cần xét đến các phần cịn lại của bản án, quyết
định sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị (dù đã có vi phạm nghiêm trọng) là
chân lý tuyệt đối nên bản án, quyết định xử lý vụ án đó mặc nhiên có hiệu lực thi
hành (dù Điều 345 BLTTHS 2015 có quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, có
quy định về việc “…Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản


18
án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị”16). Từ trước đến nay, các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ
án và phúc thẩm chỉ xét xử theo những phần bị kháng cáo, kháng nghị chứ ít khi
nào xem xét đến tồn bộ bản án nên có thể sẽ có những sai lầm trong quá trình tố
tụng sẽ bị bỏ sót. Chính ngay đến thủ tục giám đốc thẩm cũng cịn tự nó nói lên
rằng không phải quyết định giám đốc thẩm nào (khi xét lại bản án, quyết định sơ
thẩm hoặc xét lại bản án, quyết định phúc thẩm) cũng là đối tượng có thể bị kháng
nghị giám đốc thẩm. Từ những ý nghĩa trên đây, đã bác bỏ ý kiến về việc xem nhẹ
hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm; ngược lại, cần phải nhận thức rằng đây là một
hoạt động mang ý nghĩa rất to lớn khi xét về quan hệ chính trị - pháp lý trong xã hội
dân chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chức năng của Tòa án, Viện
kiểm sát là thực hiện quyền tư pháp. Việc thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm là
xét lại các vụ án khi có phát hiện vi phạm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng. Bất
cứ hoạt động tố tụng nào của các cơ quan tố tụng cũng không thể hồn thiện và
chính xác tuyệt đối, nó cũng chứa đựng những sai lầm, những thiếu sót trong hoạt
động tố tụng đó. Chính vì vậy, pháp luật nước ta hay cụ thể hơn là BLTTHS 2015

quy định cụ thể về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm như là cách các nhà làm luật
và thực thi pháp luật sửa chữa sai lầm của mình trong quá trình tiến hành tố tụng,
đảm bảo cho sự thượng tôn của pháp luật, đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước
bằng pháp luật, bảo vệ công lý, sự công bằng nhưng cũng bảo đảm quyền lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Kháng nghị giám đốc thẩm là một quyền năng đặc biệt mà Nhà nước ta trao
quyền cho các chủ thể đặc biệt có thẩm quyền thực hiện hoạt động kháng nghị
nhằm sửa chữa khắc phục những sai phạm trong quá trình giải quyết vụ án. Khơng
phải bất kỳ cá nhân hay chủ thể nào cũng có thẩm quyền ban hành kháng nghị giám
đốc thẩm mà chỉ có những chủ thể được Nhà nước trao quyền mới có thẩm quyền
ban hành kháng nghị. Chủ thể ban hành kháng nghị giám đốc thẩm cũng khác so
với chủ thể ban hành kháng nghị phúc thẩm cũng như tái thẩm vì ngồi việc chỉ có
VKS mới có thẩm quyền ban hành kháng nghị thì ở giám đốc thẩm, Tịa án cũng có
thẩm quyền ban hành kháng nghị. Việc quy định thêm chủ thể là Tòa án mà cụ thể
là Chánh án TANDTC, Chánh án TAND Cấp cao, Chánh án tòa án quân sự trung
ương cho thấy được Nhà nước ta nhận rõ được tầm quan trọng của kháng nghị giám
16

Quốc Hội (2013), Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Điều 345.


19
đốc thẩm vì nó là việc phát hiện khắc phục sửa chữa những sai lầm trong quá trình
điều tra, giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo sự thượng tôn của pháp luật, đúng người
đúng tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Kháng nghị giám đốc thẩm có nhiệm vụ kháng nghị đối với những bản án,
quyết định đã có HLPL, vơ hiệu hóa các bản án, quyết định sai, đảm bảo cho việc
xét xử đúng pháp luật, khách quan. Với mục đích này, kháng nghị giám đốc thẩm
góp phần đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN, đảm bảo tính thống nhất, ổn đinh
chặt chẽ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. “Giám đốc thẩm có vai trị

quan trọng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền”17
Thứ hai, kháng nghị giám đốc thẩm góp phần bảo vệ quyền con người, quyền
công dân: kháng nghị giám đốc thẩm khơng những góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; góp phần nâng cao kiến thức pháp luật,
kinh nghiệm xét xử đối với những người tiến hành tố tụng, mà còn nâng cao ý thức
pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án. Kháng nghị giám đốc thẩm cịn
góp phần đảm bảo ngun tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, đảm
bảo cơng bằng xã hội, củng cố lịng tin của nhân dân đối với hoạt động xét xử của
các cơ quan tiến hành tố tụng và nâng cao uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Quyền con người, quyền công dân là một trong những ưu tiên hàng đầu trong pháp
luật Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ nét khi không chỉ được quy định trong
Hiến pháp hiện hành mà còn trong BLHS 2015, BLTTHS 2015. Bảo đảm quyền
con người, quyền công dân là một trong những mục tiêu quan trọng mà Nhà nước ta
đã đề ra trong q trình cải cách và hồn thiện nền tư pháp nước nhà.
Thứ ba, kháng nghị giám đốc thẩm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động
áp dụng pháp luật: thông qua các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm, Cơ quan
tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát, Tòa án) cấp trên khắc phục những sai lầm, vi
phạm pháp luật nghiêm trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án, mà cụ thể là khắc phục, loại bỏ những vi
phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, hướng dẫn Tịa án
cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Trên cơ sở đó, kháng nghị giám đốc thẩm
khơng chỉ góp phần thực hiện các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2015, như
nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án, nguyên tắc bảo đảm pháp chế
XHCN trong TTHS, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước
Mai Ngọc Dương (2009), “Vai trò của chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tr. 52.
17



×