Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hợp đồng vô hiệu trong họat động thương mại lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
Khóa: 2008-2012. MSSV: 0855010057
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.s NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Hợp đồng vô hiệu trong hoạt động thương
mại, lý luận và thực tiễn” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Tồn bộ nội
dung được trình bày cũng như kết quả nghiên cứu đạt được trong khóa luận này
do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Nguyễn Thị
Thanh Huyền. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Tác giả khóa luận


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

HĐTM

Hợp đồng thương mại

LTM

Luật Thương mại

PICC

Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

Tp

Thành phố

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng thương mại vô hiệu ........................................ 4
1.1.

Bản chất của hợp đồng thương mại vô hiệu ....................................................... 4

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại vô hiệu ......................... 4

1.1.1.1.Khái niệm ................................................................................................... 4
1.1.1.2.Đặc điểm .................................................................................................... 6
1.1.2. Phân biệt hợp đồng thương mại vô hiệu với trường hợp mất hiệu lực và
chấm dứt hợp đồng thương mại................................................................................. 7
1.2.


Xác định hợp đồng thương mại vô hiệu ............................................................. 9

1.3.

Phân loại hợp đồng thương mại vơ hiệu ........................................................... 14

1.3.1. Dựa vào tính chất của sự vô hiệu, hợp đồng thương mại vô hiệu được chia
thành hợp đồng thương mại vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng thương mại vô hiệu
tương đối.................................................................................................................. 14
1.3.2. Dựa vào mức độ của sự vơ hiệu thì hợp đồng thương mại vơ hiệu có thể
phân thành hợp đồng thương mại vô hiệu từng phần và hợp đồng thương mại vơ
hiệu tồn bộ. ............................................................................................................ 15
Chương 2: Quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu, thực trạng áp
dụng và một số kiến nghị hoàn thiện ............................................................................. 17
2.1.

Pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu ............................. 17

2.2.

Các trường hợp cụ thể về hợp đồng thương mại vô hiệu ................................. 20

2.2.1.

Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện năng lực chủ thể ..... 20

2.2.1.1.Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện năng lực pháp luật
...................................................................................................................... 20
2.2.1.2.Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện năng lực hành vi

...................................................................................................................... 24
2.2.2.

Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện về thẩm quyền ký kết .
.................................................................................................................... 27

2.2.3. Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm nguyên tắc tự nguyện - thiện chí
– trung thực.............................................................................................................. 32
2.2.3.1.Hợp đồng thương mại vô hiệu do nhầm lẫn ............................................ 32
2.2.3.2. Hợp đồng thương mại vô hiệu do lừa dối, đe dọa .................................. 37


2.2.3.3. Hợp đồng vô hiệu do giả tạo ................................................................... 39
2.2.4.

Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện về nội dung ............ 40

2.2.5.

Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức ........... 44

2.3.

Hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu ......................................... 46

2.4.

Tuyên hợp đồng thương mại vô hiệu ............................................................... 49

2.4.1.


Thẩm quyền tuyên vô hiệu hợp đồng thương mại ..................................... 49

2.4.2.

Quyền yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng thương mại ................................. 50

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 53
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thương mại thế giới hiện nay,
hoạt động ký kết hợp đồng thương mại ở Việt Nam diễn ra ngày một thường xuyên, số
lượng hợp đồng thương mại không ngừng tăng lên cùng với nhịp độ phát triển của nền
kinh tế, trên cơ sở đó đặt ra yêu cầu phải có quy định pháp luật điều chỉnh nhằm tạo
môi trường pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại. Trong
đó, vấn đề hiệu lực của hợp đồng thương mại là vấn đề pháp lý quan trọng mà các nhà
làm luật cũng như các chủ thể của hợp đồng thương mại cần phải quan tâm.
Một hợp đồng thương mại bị vô hiệu không những xâm phạm đến quyền và lợi ích của
các bên trong hợp đồng, của chủ thể khác mà cịn có thể xâm phạm đến những lợi ích
chung mà nhà nước và pháp luật bảo vệ. Hậu quả pháp lý do một hợp đồng thương mại
bị vô hiệu mang đến là rất lớn, ảnh hưởng đến tài sản, lợi ích vật chất của các bên hợp
đồng, tác động xấu đến môi trường kinh doanh của chủ thể hoạt động thương mại và có
thể tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Luật thương mại (LTM) 2005 được ban
hành với những sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn phát triển của hoạt động thương
mại ở Việt Nam, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh về hoạt động thương

mại. Song văn bản pháp luật này lại không điều chỉnh vấn đề vô hiệu hợp đồng thương
mại. Những quy định về hợp đồng vô hiệu của Bộ luật dân sự (BLDS) được áp dụng để
giải quyết với tư cách là nguồn luật nền tảng điều chỉnh các vấn đề chung đối với mọi
loại hợp đồng. Cho đến nay, các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về hợp đồng vô hiệu
đã tương đối hồn chỉnh và cũng đã có những kết quả nhất định khi áp dụng vào thực
tiễn. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự
đều phát huy được hiệu quả. Với những đặc điểm của hợp đồng thương mại, việc áp
dụng các quy định chung của luật dân sự về hợp đồng vô hiệu vào quan hệ thương mại
làm nảy sinh những hạn chế cả về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng. Những quy định
pháp luật về vơ hiệu cịn chung chung và cịn những thiếu sót gây khó khăn trong giải
quyết hợp đồng thương mại vơ hiệu trên thực tế. Hơn nữa, có những trường hợp vô
hiệu đặc thù đối với hợp đồng thương mại không được điều chỉnh bởi Luật thương mại
và Bộ luật dân sự khiến cho việc xác định hợp đồng thương mại bị thiếu chính xác,
khơng đầy đủ.
Thực tiễn giải quyết hợp đồng thương mại vô hiệu đã cho thấy cần phải nghiên
cứu sâu, toàn diện và cụ thể về vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu để hiểu rõ những
hạn chế trong áp dụng pháp luật, từ đó có những giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về

Trang 1


hợp đồng thương mại vô hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia
hợp đồng thương mại, bảo vệ lợi ích cơng cộng và tạo mơi trường pháp lý an tồn, lành
mạnh để hoạt động thương mại phát triển. Do đó, tác giả chọn đề tài “hợp đồng vô hiệu
trong hoạt động thương mại, lý luận và thực tiễn” để trình bày trong khóa luận của
mình với mong muốn đem đến cái nhìn cụ thể, chi tiết hơn về hợp đồng thương mại vô
hiệu và đóng góp một phần nhỏ vào q trình hồn thiện quy định pháp luật về hợp
đồng thương mại vô hiệu.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Dựa trên các quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương

mại, tác giả hướng đến:
Thứ nhất, làm rõ bản chất của hợp đồng thương mại vô hiệu, đặc điểm, phân
loại cũng như cách xác định một hợp đồng thương mại vơ hiệu nhằm có cái nhìn khái
qt về hợp đồng thương mại vơ hiệu. Từ đó làm nền tảng cho việc phân tích những
vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu.
Thứ hai, tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu và
thực tiễn áp dụng các quy định này đối với quan hệ hợp đồng thương mại.
Việc phân tích, làm rõ các nội dung trên sẽ giúp nâng cao nhận thức của tác giả cũng
như người đọc về hợp đồng thương mại vơ hiệu để có thể vận đúng quy định của pháp
luật một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, thơng qua q trình nghiên cứu, tác giả đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong Bộ
luật dân sự 2005 và thực tiễn áp dụng các quy định này vào quan hệ hợp đồng thương
mại trong nước.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở lý luận về hợp đồng thương mại vô hiệu,
các văn bản pháp luật quốc gia điều chỉnh về hợp đồng, hợp đồng thương mại mà chủ
yếu là nghiên cứu xoay quanh các quy định của Bộ luật dân sự 2005 và thực tiến áp
dụng pháp luật về hợp đồng thương mại thông qua các bản án, quyết định của Tịa án.
Bên cạnh đó, để làm rõ hơn vấn đề tác giả còn nghiên cứu một số quy định pháp luật
quốc tế về hợp đồng thương mại.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giai đoạn trước 2005, hầu hết các quan điểm cho rằng hợp đồng thương mại là
một loại hợp đồng kinh tế cho nên vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu được tiếp cận
chủ yếu thơng qua các cơng trình nghiên cứu về hợp đồng kinh tế vô hiệu dựa trên các
quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Điển hình như đề tài luận văn cử nhân
của Nguyễn Thành Chúng (2000) “Những hạn chế của các quy định pháp luật về hợp
đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vơ hiệu” hay cơng trình nghiên cứu
Trang 2



được xuất bản thành sách “Hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ…
Nhưng nhìn chung chưa có một đề tài nghiên cứu nào riêng về hợp đồng thương mại
vô hiệu trong thời kỳ này.
Kể từ khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 hết hiệu lực, Bộ luật dân sự 2005 ra
đời thống nhất pháp luật về hợp đồng và sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của hợp
đồng thương mại thì đề tài hợp đồng thương mại vô hiệu đã thu hút được nhiều sự quan
tâm từ các nhà nghiên cứu pháp luật. Đã có rất nhiều những bài viết nghiên cứu và phát
triển đề tài này dưới nhiều góc độ, tuy nhiên những nghiên cứu này chủ yếu nằm rải rác
trong các tạp chí thông qua các bài viết như: “Hợp đồng thương mại và pháp luật về
hợp đồng thương mại của một số nước trên thế giới” của TS. Vũ Thị Lan Anh; “Xử lý
hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại” của tác giả Phạm Nguyễn Linh, hai bài
viết này được đăng trên tạp chí Luật học số 11(102) tháng 11/2008 hay được nghiên
cứu một phần nhỏ trong sách “Hướng dẫn pháp luật Hợp đồng thương mại” của tác giả
Đặng Văn Được… Một số rất ít bài nghiên cứu thống nhất và toàn diện về hợp đồng
thương mại như đề tài luận văn “Hợp đồng thương mại vô hiệu” của cử nhân Trần
Quốc Đạt. Luận văn này đã có những nghiên cứu chuyên sâu và tiếp cận dưới góc độ
khái quát chung, tổng thể về hợp đồng thương mại vô hiệu.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận trình bày trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê Nin, lý luận về nhà nước và pháp luật
thông qua phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng.
Trong quá trinh nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng các phương pháp so sánh, tổng hợp,
phân tích… nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu, bên cạnh Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận bao gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Khái quát chung về hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về hợp đồng thƣơng mại vô hiệu, thực trạng
áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện


Trang 3


Chƣơng 1: Khái quát chung về hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
1.1. Bản chất của hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
1.1.1.1. Khái niệm
Hợp đồng thương mại (HĐTM) và hợp đồng thương mại vô hiệu là những thuật
ngữ được sử dụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hiện nay nhưng cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có bất kì văn bản
pháp luật nào ghi nhận các khái niệm này. Thơng qua việc phân tích các thuật ngữ, tác
giả đưa ra những khái niệm tương đối sau đây về hợp đồng thương mại và hợp đồng
thương mại vô hiệu để hiểu được bản chất của vấn đề và làm cơ sở đi sâu vào nghiên
cứu, làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vơ hiệu.
Kinh tế có vai trị rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là
thước đo đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia. Một trong những động lực thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế đó là thương mại. Trong những năm gần đây, nền kinh tế
Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên
thứ 150 của WTO (năm 2007) đã đưa Việt Nam từ hội nhập kinh tế khu vực tiến đến
hội nhập vào thị trường thương mại quốc tế nhiều tiềm năng và thử thách. Theo đó, các
hoạt động thương mại diễn ra ngày càng mạnh mẽ và dần trở thành một trong những
hoạt động chủ đạo trong nền kinh tế. Các quan hệ thương mại được xác lập ngày càng
nhiều và hợp đồng thương mại là một trong những phương tiện quan trọng chủ yếu để
thực hiện các hoạt động thương mại. Sự phổ biến của hợp đồng thương mại trong nền
kinh tế hiện nay làm xuất hiện nhu cầu nghiên cứu về nó để đưa ra các quy định pháp
luật điều chỉnh cho phù hợp nhằm tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh. Tuy
nhiên, thế nào là một hợp đồng thương mại thì cho đến nay pháp luật thực định vẫn
chưa có định nghĩa nào về nó. Pháp luật chung về hợp đồng (BLDS 2005) chỉ ghi nhận
khái niệm hợp đồng dân sự tại Điều 388 BLDS 2005 và pháp luật chuyên ngành (Luật
Thương mại 2005) chỉ ghi nhận khái niệm hoạt động thương mại tại Khoản 1 Điều 3

LTM 2005. Cả hai văn bản pháp luật này khơng có bất kỳ quy định nào định nghĩa về
hợp đồng thương mại. Khái niệm hợp đồng thương mại chỉ là khái niệm được hình
thành và sử dụng trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật và
cho đến nay mới chỉ thấy khái niệm này được ghi nhận tại Từ điển Luật học của Bộ Tư
pháp như sau: “Hợp đồng thương mại là thỏa thuận giữa thương nhân với thương nhân,
thương nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và

Trang 4


nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương
mại và xúc tiến thương mại”1.
Theo quan điểm của tác giả thì đây là một khái niệm rõ ràng nhưng chưa đầy đủ
và toàn diện về hợp đồng thương mại. Trước tiên, nó thể hiện được bản chất của hợp
đồng đó là sự thỏa thuận. Bởi hợp đồng là một giao dịch gồm nhiều bên nhằm tạo nên
sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận cho nên mọi loại hợp
đồng dù định nghĩa khác nhau như thế nào nhưng chung quy lại, nó đều phải là sự thỏa
thuận. Dựa vào khái niệm này chúng ta có thể phân biệt được HĐTM với các loại hợp
đồng khác dựa vào hai yếu tố là chủ thể và mục đích của hợp đồng. Từ khái niệm có
thể nhận thấy chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thương mại phải có ít nhất một bên là
thương nhân, điều này phù hợp với quy định của LTM 20052 về chủ thể được phép
thực hiện hoạt động thương mại. Đồng thời, khái niệm cũng phản ánh được mục đích
của hợp đồng là nhằm “xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các
bên” trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, khái niệm này chưa đầy đủ, chưa toàn
diện ở chỗ theo khái niệm này thì hợp đồng thương mại chỉ gồm những hợp đồng được
xác lập trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến
thương mại, nghĩa là khái niệm này giới hạn hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba
hoạt động đã kể trên. Định nghĩa như vậy là không phù hợp với quy định của Luật
Thương mại bởi lẽ hoạt động thương mại ngồi ba hoạt động kể trên cịn bao gồm
những hoạt động khác và điều này được khẳng định tại Khoản 1 Điều 3 LTM 2005 như

sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác”. Như vậy, hoạt động thương mại có phạm vi rất rộng, những hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi đều được coi là hoạt động thương mại cho nên khái niệm
được đưa ra trên đây là chưa chính xác.
Tác giả cho rằng khái niệm trên nên sửa lại là “Hợp đồng thương mại là thỏa
thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương nhân với các bên có liên quan nhằm
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động
thương mại”. Định nghĩa như thế sẽ bao quát và toàn diện hơn. Dựa vào khái niệm này
chúng ta có thể thấy bản chất pháp lý của HĐTM đó là sự thỏa thuận về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
Hay nói một cách dễ hiểu thì HĐTM là hợp đồng được ký kết trong quá trình thực hiện
hoạt động thương mại của các tổ chức, cá nhân. Từ khái niệm này chúng ta mới có cơ
sở để tìm hiểu thế nào là một hợp đồng thương mại vô hiệu.
1

Bộ Tư pháp_Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa & NXB Tư pháp,
tr.389.
2
Điều 2 Luật Thương mại 2005.

Trang 5


Trước tiên cần khẳng định lại rằng khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu
được sử dụng ở đây chỉ là khái niệm mang tính học thuật được sử dụng trong khoa học
pháp lý chứ không phải là một khái niệm được ghi nhận trong pháp luật thực định. Để
hiểu thế nào là một hợp đồng thương mại vô hiệu cần làm rõ được khái niệm “vô hiệu”.
Vô hiệu là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý, trong thực
tiễn áp dụng và cả trong pháp luật thực định. Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989

có đề cập đến các trường hợp “Hợp đồng kinh tế vơ hiệu”, BLDS 205 có nhắc đến các
khái niệm “Giao dịch dân sự vô hiệu”, “Hợp đồng dân sự vô hiệu” tại các điều từ 127
đến 138, Điều 401, 410 và 411 BLDS 2005. Tuy nhiên các văn bản pháp luật này lại
khơng giải thích thế nào là “vô hiệu”. Theo nghĩa thông thường, vô hiệu được hiểu là
khơng có hiệu lực, khơng mang lại kết quả3. Cịn theo giải thích tại Từ điển Luật học
thì vơ hiệu là “những văn bản, quyết định khơng có hiệu lực pháp luật, khơng có giá trị
thực thi”4. Như vậy, trong khoa học pháp lý, vô hiệu được hiểu là không có hiệu lực
pháp luật, khơng có giá trị pháp lý.
Bên cạnh đó, xét về bản chất thì hợp đồng thương mại là một giao dịch dân sự,
do đó khi xem xét hợp đồng thương mại vô hiệu cần phải đặt trong mối quan hệ với
giao dịch dân sự vô hiệu nói chung để hiểu đúng bản chất của hợp đồng thương mại vô
hiệu. Một giao dịch dân sự vô hiệu là một giao dịch không tuân theo các quy định của
pháp luật và do đó khơng làm phát sinh các hậu quả pháp lý5. Dựa vào khái niệm này
thì hợp đồng vơ hiệu nói chung và HĐTM vơ hiệu nói riêng được hiểu là hợp đồng
không tuân theo các quy định của pháp luật và do đó khơng làm phát sinh các hậu quả
pháp lý từ hợp đồng.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra một khái niệm tương đối về hợp đồng
thương mại vô hiệu như sau: Hợp đồng thương mại vô hiệu là hợp đồng được ký kết
trong hoạt động thương mại nhưng khơng có hiệu lực, khơng có giá trị pháp lý kể từ
thời điểm giao kết do hợp đồng không tuân thủ các quy định của pháp luật. Và bản chất
của một hợp đồng thương mại vơ hiệu là nó chứa đựng những vi phạm pháp luật ngay
từ đầu làm cho hợp đồng không phát sịnh hiệu lực pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm nêu trên có thể thấy một hợp đồng thương mại vơ hiệu có các đặc điểm
sau:
Thứ nhất, hợp đồng thương mại vơ hiệu thì khơng được pháp luật thừa nhận.
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên và về nguyên tắc sẽ được nhà nước và pháp luật
tôn trọng, bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên không phải mọi sự thỏa thuận đều được công
3


Trung tâm Từ điển học Vietlex (2011), Từ điển Tiếng Việt 2011, NXB Đà Nẵng, Hà Nội, tr.1431.
Nguyễn Hữu Quỳnh chủ biên (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.569.
5
Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB Chính trị quốc gia, tr.167.
4

Trang 6


nhận và bảo vệ. Pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ những thỏa thuận không trái với quy
định của pháp luật. Một hợp đồng thương mại vô hiệu khi nó khơng tn thủ các quy
định của pháp luật, vượt ra ngoài giới hạn luật định, xâm phạm đến các quan hệ xã hội,
các lợi ích được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Vì thế, nó khơng được pháp luật thừa
nhận và đảm bảo thực hiện.
Thứ hai, hợp đồng thương mại vơ hiệu là hợp đồng khơng có giá trị pháp lý,
không ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên.
Hợp đồng là hình thức pháp lý quan trọng thể hiện ý chí của các bên giao kết, là nơi
ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể, do đó nó là căn cứ pháp lý quan trọng
làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Hợp đồng
thương mại bị vô hiệu thì khơng phát sinh hiệu lực cho nên những thỏa thuận ràng
buộc trách nhiệm giữa các bên theo đó mà cũng khơng có giá trị pháp lý.
Thứ ba, thời điểm xác định sự vô hiệu của hợp đồng là thời điểm hợp đồng được
ký kết.
Bản chất của hợp đồng thương mại vơ hiệu là nó chứa đựng những khiếm khuyết,
những vi phạm pháp luật ngay từ khi hợp đồng được xác lập. Do đó, thời điểm xác
định sự vơ hiệu được tính kể từ thời điểm ký kết hợp đồng là hợp lý. Nếu xác định tại
những thời điểm sau khi hợp đồng được xác lập tức là pháp luật đã thừa nhận hiệu lực
của hợp đồng trước đó, thừa nhận những vi phạm pháp luật dẫn đến hợp đồng bị vô
hiệu. Như vậy sẽ không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, khơng bảo vệ
được các lợi ích bị xâm phạm bởi một hợp đồng vơ hiệu.

Thứ tư, hợp đồng thương mại vơ hiệu thì được xem như là chưa tồn tại theo luật
định.
Mặc dù hợp đồng đã được giao kết và có thể đã được đưa ra thực hiện nhưng sự tồn tại
của hợp đồng lúc này chỉ là trên thực tế. Pháp luật không công nhận những hợp đồng
này ngay cả khi các bên đã thừa nhận nó. Về nguyên tắc, một hợp đồng thương mại vơ
hiệu thì khơng được đưa ra thực hiện, nếu hợp đồng đã được thực hiện thì các bên phải
hồn trả cho nhau những gì đã nhận, khơi phục lại tình trạng ban đầu6 như khi các bên
chưa giao kết hợp đồng.
1.1.2. Phân biệt hợp đồng thƣơng mại vô hiệu với trƣờng hợp mất hiệu lực
và chấm dứt hợp đồng thƣơng mại
Việc phân biệt một hợp đồng thương mại vô hiệu với trường hợp mất hiệu lực,
chấm dứt hợp đồng thương mại là điều cần thiết bởi lẽ hậu quả pháp lý của các trường
hợp này là khác nhau. Cần có sự phân biệt để xác định được chính xác hợp đồng rơi

6

Điều 137 Bộ luật dân sự 2005.

Trang 7


vào trường hợp nào, từ đó có cách xử lý cho thích hợp và đúng đắn, bảo vệ được những
lợi ích chung cũng như quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng.
Một hợp đồng mất hiệu lực được hiểu là hợp đồng có hiệu lực vào thời điểm xác
lập và sau đó rơi vào tình trạng mất hiệu lực7. Chẳng hạn như một hợp đồng khi giao
kết có đối tượng của hợp đồng khơng thuộc danh mục bị cấm kinh doanh nhưng do có
sự thay đổi chính sách pháp luật mà một thời gian sau, khi hợp đồng đang được thực
hiện thì đối tượng của hợp đồng lại nằm trong danh mục này và do đó, hợp đồng đương
nhiên mất hiệu lực, không thể tiếp tục đưa ra thực hiện được nữa.
Chấm dứt hợp đồng là kết thúc việc thực hiện các thỏa thuận mà các bên đã đạt

được khi tham gia vào quan hệ hợp đồng làm cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia hợp đồng ngừng hẳn lại, bên có nghĩa vụ khơng có trách nhiệm tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền khơng thể buộc bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ được nữa. Hợp đồng bị chấm dứt có thể xảy ra khi hồn thành hợp đồng,
chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên , đối tượng của hợp đồng khơng cịn8…
Từ định nghĩa trên và dựa trên những đặc điểm của HĐTM vô hiệu, HĐTM vô hiệu
khác với hợp đồng mất hiệu lực và chấm dứt hiệu lực ở những điểm sau:
Một hợp đồng thương mại vơ hiệu thì khơng được pháp luật thừa nhận trong khi
đó, các trường hợp cịn lại là những hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận và bảo đảm
thực hiện nhưng vì một số lý do mà sau đó hợp đồng khơng thể tiếp tục được thực hiện.
Khác với hợp đồng mất hay chấm dứt hiệu lực, một HĐTM vơ hiệu thì quyền và
nghĩa vụ của các bên khơng phát sinh ngay từ đầu, khơng có sự ràng buộc trách nhiệm
giữa các bên theo hợp đồng đã ký kết. Còn hợp đồng mất hiệu lực hay hợp đồng bị
chấm dứt thì ngược lại, quyền và nghĩa vụ các bên đã phát sinh và bị ràng buộc cho
đến khi hợp đồng rơi vào tình trạng mất hoặc chấm dứt hiệu lực.
Vì hợp đồng mất hiệu lực hoặc chấm dứt hiệu lực là những hợp đồng được pháp
luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện cho nên thời điểm xác định những trường hợp này
không phải là thời điểm hợp đồng được ký kết mà nó được xác định dựa vào thời điểm
xuất hiện những sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng rơi vào trường hợp mất hoặc chấm
dứt hiệu lực. Do đó, những hành vi thực hiện hợp đồng trước khi xảy ra sự kiện pháp lý
vẫn được pháp luật thừa nhận và bảo vệ trong khi đó, thời điểm xác định sự vơ hiệu
của hợp đồng thương mại là kể từ khi hợp đồng được xác lập, cho nên khi HĐTM vơ
hiệu thì các bên phải hồn trả cho nhau những gì đã nhận, khơi phục lại tình trạng ban
đầu nếu hợp đồng đã được thực hiện.

7
8

TS. Lê Thị Bích Thọ (2004), Hợp đồng kinh tế vơ hiệu, NXB Chính trị quốc gia, tr.35.
Bộ Tư pháp_Viện khoa học pháp lý (2006), tlđd, tr.15 & Điều 424 Bộ luật dân sự 2005.


Trang 8


Có thể thấy, đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt hợp đồng thương mại vô hiệu với
các trường hợp cịn lại chính là thời điểm xác định sự vơ hiệu. Xác định được hợp đồng
rơi vào trường hợp nào trong ba trường hợp này sẽ là căn cứ quan trọng để xử lý hợp
đồng cho đúng đắn và hợp lý.
1.2. Xác định hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên cho nên thông thường
khi giao kết hợp đồng, các bên chủ thể luôn mong muốn rằng hợp đồng sẽ phát sinh
hiệu lực và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ để có sở sở pháp lý ràng buộc trách
nhiệm các bên. Tuy nhiên, vì lý do nào đó mà đôi khi hợp đồng thương mại đã được
giao kết trở nên vô hiệu, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích các bên chủ thể, ảnh
hưởng đến lợi ích chung của xã hội và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh
tế quốc gia. Vì thế, xác định hợp đồng thương mại vô hiệu hay không là một việc rất
quan trọng và việc đưa ra các căn cứ để xác định sự vô hiệu của hợp đồng là điều cần
thiết khi xây dựng pháp luật về hợp đồng.
Hợp đồng thương mại là dạng hợp đồng tồn tại rất nhiều và phổ biến trong nền
kinh tế hiện nay nhưng pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật
Thương mại 2005 không điều chỉnh vấn đề hợp đồng thương mại vơ hiệu và do đó
cũng không đưa ra cách để xác định một hợp đồng thương mại vô hiệu. Một câu hỏi
được đặt ra là làm thế nào để xác định một hợp đồng thương mại bị vô hiệu. Theo pháp
luật Việt Nam hiện hành về lĩnh vực hợp đồng thì những vấn đề chung về hợp đồng sẽ
được điều chỉnh bởi BLDS Việt Nam 2005. Để giải quyết vấn đề vô hiệu hợp đồng thì
“các quy định về giao dịch dân sự vơ hiệu được áp dụng chung cho mọi quan hệ hợp
đồng mà khơng phân biệt hợp đồng đó hình thành trong quan hệ kinh doanh hay quan
hệ tiêu dùng”9. Như vậy, để xác định một hợp đồng thương mại vô hiệu chúng ta căn
cứ vào các quy định chung của BLDS 2005 về giao dịch dân sự vơ hiệu. Bên cạnh đó
cịn có hai trường hợp vơ hiệu hợp đồng dân sự quy định tại điều 410 và 411 để xác

định hợp đồng thương mại vô hiệu.
Để xác định một hợp đồng thương mại vơ hiệu có thể dựa vào một trong ba cách xác
định sau tùy theo cách quy định pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau:
Cách thứ nhất là gián tiếp xác định sự vô hiệu của hợp đồng thương mại thơng
qua quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo đó, nếu một hợp đồng
khơng đáp ứng được một trong các điều kiện này thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Bằng
phương pháp loại suy từ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng để xác định các trường
hợp vơ hiệu tạo nên tính bao quát đối với tất cả các trường hợp vô hiệu có thể xảy ra,
9

Phạm Nguyễn Linh (2008), Xử lý hợp đồng vơ hiệu trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí Luật học (số 11/2008),
tr.13.

Trang 9


tránh bỏ sót những trường hợp vơ hiệu. Tuy nhiên, cách tiếp cận này lại có nhược điểm
ở chỗ nó lại tạo nên rào cản cho sự phát triển của các quan hệ hợp đồng, pháp luật can
thiệp sâu vào quan hệ hợp đồng, hạn chế hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Điều
này thể hiện ở chỗ cách tiếp cận này sử dụng phương pháp loại trừ từ điều kiện có hiệu
lực để xác định sự vơ hiệu của hợp đồng thương mại khiến cho khả năng vô hiệu được
mở rộng tối đa, chỉ cần vi phạm một trong những điều kiện có hiệu lực là hợp đồng bị
vơ hiệu. Trong khi đó, hoạt động thương mại ln phát triển không ngừng và ngày
càng đa dạng dẫn đến có những trường hợp hợp đồng khơng thỏa một trong các điều
kiện có hiệu lực nhưng cũng chưa đủ yếu tố khiến hợp đồng vô hiệu nhưng hợp đồng
vẫn bị tuyên vô hiệu mặc dù các bên chủ thể vẫn mong muốn hợp đồng được thực hiện
khiến cho các chủ thể hoạt động thương mại e ngại trong giao kết hợp đồng. Hơn nữa,
hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên, nhất là trong quá trình hội nhập thương mại như
hiện nay thì sự tự do thỏa thuận giao kết hợp đồng lại càng được đề cao nhưng với quy
định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, sự tự do thỏa thuận của các bên bị giới hạn

bởi các điều kiện luật định. Điều đó cho thấy nhà nước can thiệp sâu vào quan hệ hợp
đồng thông qua các điều kiện bắt buộc cứng nhắc, đi ngược lại với quy luật của nền
kinh tế thị trường là nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của
tổ chức, cá nhân.
Cách thứ hai là trực tiếp xác định hợp đồng thương mại vô hiệu thông qua các
quy định liệt kê các trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Hợp đồng khi rơi vào các trường
hợp này thì vơ hiệu. Cách xác định này được sử dụng phổ biến trong pháp luật về hợp
đồng của Đức, Nhật Bản… Pháp luật các nước này quy định các trường hợp vô hiệu
của hành vi pháp lý ở phần chung của BLDS mà khơng quy định các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng. Cách quy định này có phần tối ưu hơn cách thứ nhất ở chỗ nó đề cao
quyền tự do kinh doanh của các chủ thế, đảm bảo cho họ được thực hiện những hoạt
động mà pháp luật không cấm. Nhưng ngược lại, cách quy định này lại không dự liệu
được hết tất cả các khả năng có thể xảy ra, do đó có thể bỏ sót các trường hợp vô hiệu
và không bảo vệ được các lợi ích bị xâm phạm trong những trường hợp vơ hiệu mới
phát sinh.
Cách thứ ba là pháp luật quy định cả điều kiện có hiệu lực lẫn trường hợp vơ
hiệu hợp đồng và sử dụng cả hai để xác định sự vơ hiệu của hợp đồng. Theo đó, nếu
hợp đồng không thỏa một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực hoặc nếu hợp
đồng rơi vào một trong các trường hợp vơ hiệu luật định thì hợp đồng đó bị coi là vơ
hiệu. Nghĩa là có thể trực tiếp hay gián tiếp xác định sự vô hiệu của hợp đồng đều
được. Cách xác định này được sử dụng trong pháp luật dân sự Pháp và pháp luật dân sự
Việt Nam.

Trang 10


Như đã nói ở trên, để xác định hợp đồng thương mại vô hiệu chúng ta căn cứ
vào quy định của BLDS 2005. Điều 127 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự
khơng có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vơ
hiệu”. Bên cạnh đó, Bộ luật cịn liệt kê các trường hợp vô hiệu hợp đồng cụ thể từ Điều

128 đến Điều 135, Điều 410 và Điều 411 BLDS 2005. Với cách quy định này có thể
thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam tiếp cận vấn đề xác định sự vô hiệu của hợp đồng
thương mại theo cách thứ ba, vừa quy định điều kiện có hiệu lực vừa liệt kê các trường
hợp cụ thể. Cách tiếp cận này có ưu điểm ở chỗ nó quy định khá chặt chẽ về vấn đề vô
hiệu. Nhà làm luật dự liệu các trường hợp có thể dẫn đến hợp đồng vơ hiệu nhưng sự
dự liệu của con người không thể nào là đầy đủ tuyệt đối khi mà các quan hệ xã hội luôn
thay đổi không ngừng và diễn biến ngày càng phức tạp, nhất là trong quan hệ hợp đồng
thương mại thì tính ổn định lại càng thấp. Để tránh bỏ sót những trường hợp vơ hiệu
hợp đồng có thể xảy ra, nhà làm luật vừa quy định các trường hợp vơ hiệu cụ thể, vừa
quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là căn cứ xác định hợp đồng thương mại
vô hiệu. Cách tiếp cận này khắc phục được nhược điểm của cách tiếp cận thứ hai
nhưng vẫn còn tồn tại những nhược điểm của các tiếp cận thứ nhất. Đó là, cách quy
định này làm cho pháp luật trở nên cứng nhắc khi áp dụng điều kiện có hiệu lực trong
BLDS 2005 để xác định một hợp đồng thương mại vô hiệu. Bởi lẽ, quan hệ thương mại
là rất đa dạng với các hoạt động như mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, đại diện
thương nhân, dịch vụ logistics… và cịn có những đặc thù riêng của nó như ít nhất một
bên chủ thể phải là thương nhân, hợp đồng thương mại được ký kết vì mục tiêu lợi
nhuận... Do đó, có những hợp đồng thương mại tuy thiếu một trong những điều kiện để
hợp đồng có hiệu lực nhưng chưa đủ yếu tố để làm cho hợp đồng bị vô hiệu nhưng với
quy định này thì mọi trường hợp vi phạm điều kiện có hiệu lực đều dẫn đến vơ hiệu
hợp đồng. Ví dụ như: trong hoạt động thương mại thì tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu
của các chủ thể thực hiện hoạt động thương mại cho nên sự thiếu trung thực một chút
để kiếm lợi là điều không thể tránh khỏi, đôi khi các chủ thể này không đưa ra một số
thông tin về hàng hóa để hợp đồng được ký kết dễ dàng, những thông tin này cũng
không ảnh hưởng lớn đến quan hệ hợp đồng giữa các bên. Sau khi giao kết hợp đồng,
bên cịn lại biết được những thơng tin này và vẫn chấp nhận thực hiện hợp đồng. Đến
khi có tranh chấp, bên khơng được cung cấp thơng tin không muốn tiếp tục hợp đồng
và yêu cầu tuyên bố vơ hiệu hợp đồng thương mại do có sự lừa dối. Mặc dù có sự thiếu
trung thực nhưng nếu tuyên hợp đồng thương mại vô hiệu trong trường hợp này là
khơng hợp lý vì yếu tố lừa dối tồn tại nhưng chưa đủ yếu tố để khiến hợp đồng vô hiệu.

Bởi lẽ, sau khi hợp đồng được ký kết, bên không được cung cấp thông tin vẫn chấp
nhận thực hiện hợp đồng tức là đã chấp nhận sự thiếu trung thực nhưng vì sau đó xảy
ra tranh chấp và không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng nên yêu cầu tuyên vô hiệu.
Trang 11


Nếu áp dụng cứng nhắc điều kiện về tự nguyện-thiện chí-trung thực thì hợp đồng sẽ bị
tun vơ hiệu trong trường hợp này và không đảm bảo được quyền và lợi ích cho bên
cịn lại. Điều này làm mất đi tính ổn định trong quan hệ thương mại, gây ảnh hưởng
xấu đến sự phát triển của hoạt động thương mại, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế bởi lẽ nó sẽ khuyến khích các chủ thể bội tín, sẽ có những hợp đồng thương mại
đang được thực hiện rất tốt trên thực tế nhưng lại bị tuyên vô hiệu một cách không hợp
lý, gây thiệt hại vật chất cho các chủ thể hợp đồng và gián tiếp gây thiệt hại cho nền
kinh tế như ví dụ đã nêu trên. Trong nền kinh tế, nhà nước muốn sử dụng pháp luật làm
cơng cụ quản lý có hiệu quả nhưng quy định này lại cho thấy nhà nước can thiệp quá
sâu vào quan hệ hợp đồng, vào hoạt động thương mại. Các chủ thể kinh doanh chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép, đồng thời không được làm những gì pháp luật
cấm. Nghĩa là pháp luật chỉ thừa nhận hiệu lực hợp đồng nếu hợp đồng được ký kết
thỏa các điều kiện có hiệu lực tại Điều 122 BLDS 2005 và hợp đồng sẽ phát sinh hiệu
lực nếu không thuộc các trường hợp vô hiệu đã dự liệu sẵn tại các điều từ 128 đến 135
và Điều 410, 411 BLDS 2005 khiến cho chúng ta có cảm giác ở đâu cũng có bóng
dáng của sự vơ hiệu, tạo nên sự gị bó, đóng khung hoạt động của các chủ thể thực hiện
hoạt động thương mại, giới hạn môi trường kinh doanh, các chủ thể ái ngại và dè dặt
trong hoạt động giao kết hợp đồng thương mại dẫn đến kìm hãm sự phát triển của hoạt
động thương mại. Đồng thời cách quy định này tạo nên sự không phù hợp với nguyên
tắc tự do kinh doanh, không phù hợp với nền kinh tế thị trường nơi đề cao quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể, nơi mà các chủ thể kinh doanh được làm bất cứ việc gì
miễn là pháp luật khơng cấm10.
Tóm lại, căn cứ xác định hợp đồng thương mại có vơ hiệu hay khơng theo pháp
luật Việt Nam hiện hành là dựa vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các

trường hợp vô hiệu cụ thể được quy định tại BLDS 2005. Theo đó, một hợp đồng
thương mại bị vơ hiệu khi rơi vào một trong những trường hợp sau:
Thứ nhất, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện về năng lực chủ
thể.
Năng lực chủ thể là điều kiện tiên quyết cần phải đảm bảo khi tham gia vào quan hệ
hợp đồng thương mại, là yếu tố quan trọng để hình thành nên một hợp đồng thương
mại. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Dựa vào quy
định của BLDS về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng11 và đặc điểm của hợp đồng
thương mại, thì hợp đồng thương mại có thể vô hiệu do vi phạm một trong hai loại
năng lực này.
10
11

Đây là nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 16 Hiến pháp 1992
Điểm a Khoản 1 Điều 122 BLDS 2005.

Trang 12


Năng lực pháp luật là khả năng một người có các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật. Theo Luật Thương mại 2005 thì chủ thể có quyền thực hiện và ký
kết hợp đồng thương mại là thương nhân12. Ít nhất một bên trong hợp đồng thương mại
phải là thương nhân là đặc trưng của hợp đồng thương mại. Vì thế, nếu chủ thể này
khơng đảm bảo tư cách thương nhân thì hợp đồng thương mại sẽ bị vơ hiệu do chủ thể
khơng có đủ năng lực pháp luật. Sự vi phạm năng lực chủ thể còn thể hiện thơng qua
hành vi ký kết hợp đồng ngồi phạm vi hoạt động kinh doanh của thương nhân. Pháp
luật quy định thương nhân có nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh cho nên hoạt động
thương mại của thương nhân bị giới hạn bởi phạm vi đăng ký kinh doanh. Nếu hợp
đồng thương mại được ký kết ngoài phạm vi đăng ký kinh doanh thì hợp đồng thương
mại cũng bị vơ hiệu do chủ thể khơng có quyền đối với hoạt động ngồi phạm vi đã

đăng ký.
Bên cạnh đó, sự vi phạm năng lực hành vi cũng dẫn đến vô hiệu hợp đồng. Một
người có năng lực hành vi mới có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình, từ đó sẵn sàng gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi đó mang lại. Do đó,
hợp đồng được giao kết bởi người có năng lực hành vi mới thể hiện được ý chí đích
thực muốn giao kết hợp đồng của họ và thể hiện được bản chất của hợp đồng là sự
thống nhất ý chí của các bên.
Do đó, hợp đồng thương mại được ký kết bởi chủ thể không đáp ứng được các điều
kiện về năng lực chủ thể thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu.
Thứ hai, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện về thẩm quyền ký
kết.
Thông thường, các bên trong hợp đồng là chủ thể có thẩm quyền ký kết nhưng có nhiều
trường hợp các bên chủ thể khơng tự mình thực hiện việc giao kết hợp đồng mà thực
hiện thông qua người đại diện. Chẳng hạn như khi pháp nhân là một bên trong hợp
đồng thương mại thì tự bản thân pháp nhân khơng thể thực hiện hành vi giao kết hợp
đồng. Trong trường hợp này, chủ thể có thẩm quyền ký kết là người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân. Người này có thể tự mình hoặc ủy quyền lại cho chủ thể khác đại
diện mình thực hiện hành vi ký kết hợp đồng…
Ký kết hợp đồng là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý chí của các bên. Hợp đồng
được ký kết bởi người khơng có thẩm quyền hoặc vượt q thẩm quyền tức là hợp
đồng đó đã khơng phản ánh hoặc phản ánh khơng đúng ý chí của người có thẩm quyền
và vì thế, hợp đồng có thể trở nên vô hiệu.
Thứ ba, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm nguyên tắc tự nguyện-thiện
chí-trung thực.
12

Khoản 2 Điều 6 Luật Thương mại 2005.

Trang 13



Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng được thừa nhận
rộng rãi trong pháp luật hợp đồng quốc tế và pháp luật hợp đồng của các quốc gia. Khi
xác lập hợp đồng, các bên được tự do thể hiện ý chí, lựa chọn tham gia hoặc không
tham gia vào quan hệ hợp đồng một cách tự nguyện mà không chịu sự chi phối nào từ
bên ngoài. Nếu hợp đồng được giao kết mà tồn tại yếu tố làm sai lệch ý chí như đe dọa,
lừa dối, nhầm lẫn, giả tạo thì hợp đồng đã vi phạm nguyên tắc giao kết hợp đồng cho
nên hợp đồng có thể sẽ bị vơ hiệu.
Thứ tư, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm về nội dung.
Nội dung của hợp đồng là phần quan trọng cơ bản cần phải có của một hợp đồng nói
chung và một hợp đồng thương mại nói riêng. Đó là những gì mà các bên thỏa thuận
đạt được và hướng tới. Tuy nhiên, thỏa thuận này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật
và luôn bị hạn chế bởi sự tự do của các chủ thể khác. Vì thế nội dung và mục đích của
hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, nếu không, hợp
đồng đó sẽ xâm phạm đến những lợi ích chung của xã hội, xâm phạm lợi ích của những
chủ thể khác được nhà nước bảo vệ. Và do đó, hợp đồng đương nhiên khơng được
pháp luật thừa nhận, khơng có giá trị pháp lý.
Thứ năm, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều kiện hình thức.
Hợp đồng là sự thống nhất ý chí nhưng ý chí là yếu tố chủ quan của con người, nếu
không được thể hiện ra bên ngồi thì khơng thể nào biết được. Do đó, hình thức hợp
đồng là phương tiện để thể hiện ý chí của các bên, làm cơ sở chứng minh quan hệ hợp
đồng giữa các bên. Thơng thường, hình thức hợp đồng do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Tuy nhiên, để quản lý nhà nước cũng như thiết lập sự an toàn pháp lý trong quan hệ
hợp đồng thương mại, một số trường hợp pháp luật quy định hình thức là thủ tục pháp
lý bắt buộc mà các bên phải thực hiện như hợp đồng phải được lập bằng văn bản, cơng
chứng, chứng thực… Vì là thủ tục luật định cho nên trong những trường hợp này, nếu
hợp đồng không tuân thủ điều kiện về hình thức thì cũng có thể dẫn tới hợp đồng
thương mại vô hiệu.
1.3. Phân loại hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
Hiện nay trong pháp luật thực định không ghi nhận khái niệm hợp đồng thương mại vô

hiệu, cho nên việc phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu cũng không được nhắc đến
trong pháp luật thực định. Ngay cả trong khoa học pháp lý cũng không thấy có sự phân
loại hợp đồng thương mại vơ hiệu. Tuy nhiên chúng ta có thể dựa vào sự phân loại hợp
đồng vơ hiệu nói chung, trong pháp luật thực định và trong khoa học pháp lý hiện nay
để phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu như sau:
1.3.1. Dựa vào tính chất của sự vơ hiệu, hợp đồng thƣơng mại vô hiệu đƣợc
chia thành hợp đồng thƣơng mại vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng thƣơng
mại vô hiệu tƣơng đối.
Trang 14


Hợp đồng thương mại vơ hiệu tương đối có thể hiểu là một hợp đồng thương
mại có bị vơ hiệu hay khơng cịn tùy thuộc vào ý chí của chủ thể được quyền yêu cầu
tuyên bố vô hiệu Hợp đồng được xác định là vô hiệu tương đối khi nội dung của nó
xâm phạm đến các lợi ích của cá nhân hoặc có khiếm khuyết về mặt ý chí như nhầm
lẫn, lừa dối, đe dọa. Vì là xâm phạm lợi ích của cá nhân nên cá nhân có lợi ích bị xâm
phạm có tồn quyền quyết định hợp đồng có vô hiệu hay không, đảm bảo quyền tự
định đoạt, sự tự do ý chí của cá nhân. Do đó, hợp đồng có thể vơ hiệu hoặc vẫn phát
sinh hiệu lực tùy vào ý chí của người có quyền u cầu.
Hợp đồng thương mại vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng thương mại đương nhiên bị
vô hiệu ngay cả khi không có yêu cầu và dù các bên có chấp nhận việc giao kết thì hợp
đồng thương mại đó vẫn bị vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối khi hợp đồng có sự vi
phạm đến điều cấm của pháp luật, xâm phạm đến các lợi ích cơng , lợi ích của tập thể
hay có sự thơng đồng để trái pháp luật (giả tạo). Trường hợp này nhà nước cần phải
tuyên vô hiệu để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ các lợi ích chung cũng như thể
hiện được tính nghiêm minh của pháp luật.
Hậu quả pháp lý của hai trường hợp vô hiệu này là khác nhau. Đối với hợp đồng
vơ hiệu tương đối, do có khiếm khuyết cho nên hợp đồng vẫn có thể phát sinh hiệu lực
khi khiếm khuyết được chấp nhận. Còn hợp đồng thương mại vô hiệu tuyệt đối, các
bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận.

1.3.2. Dựa vào mức độ của sự vơ hiệu thì hợp đồng thƣơng mại vơ hiệu có
thể phân thành hợp đồng thƣơng mại vô hiệu từng phần và hợp đồng
thƣơng mại vơ hiệu tồn bộ.
Khái niệm hợp đồng vô hiệu từng phần được pháp luật thực định ghi nhận tại
Khoản 3 Điều 135 BLDS 2005, theo đó có thể hiểu hợp đồng thương mại vô hiệu từng
phần khi một phần của hợp đồng thương mại vô hiệu nhưng khơng ảnh hưởng đến hiệu
lực của phần cịn lại. Tuy pháp luật thực định không ghi nhận hợp đồng thương mại vơ
hiệu tồn bộ nhưng bằng phương pháp loại trừ, chúng ta có thể hiểu một hợp đồng
thương mại vơ hiệu toàn bộ khi toàn bộ nội dung của hợp đồng chứa đựng những vi
phạm làm hợp đồng đó vơ hiệu toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vô hiệu
nhưng ảnh hưởng đến tất cả các phần còn lại của hợp đồng.
Hậu quả pháp lý của hai trường hợp này cũng khác nhau. Hợp đồng thương mại
vô hiệu tồn bộ thì chấm dứt sự tồn tại, khơng phát sinh hiệu lực đối với tồn bộ hợp
đồng. Cịn đối với hợp đồng thương mại vô hiệu từng phần thì chỉ những phần bị vơ
hiệu là khơng phát sinh hiệu lực, những phần còn lại của hợp đồng vẫn được pháp luật
thừa nhận, vẫn phát sinh hiệu lực và được tiếp tục thực hiện.
Đây là hai cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học pháp lý hiện nay về hợp đồng
vơ hiệu nói chung và hợp đồng thương mại vơ hiệu nói riêng. Việc phân loại hợp đồng
Trang 15


thương mại vơ hiệu có ý nghĩa to lớn cả trong khoa học pháp lý lẫn thực tiễn áp dụng
pháp luật bởi lẽ mục đích của việc phân loại là để hiểu rõ hơn các đặc điểm, tính chất
của từng loại hợp đồng vơ hiệu. Từ đó có cách xử lý cho phù hợp và chính xác, đồng
thời cũng là căn cứ xây dựng các quy định pháp luật về hậu quả pháp lý cho từng
trường hợp.
Tiểu kết chƣơng 1:
Qua những phân tích trên đây, tác giả muốn mang đến cái nhìn khái qt và tồn diện
về hợp đồng thương mại vô hiệu. Khẳng định rằng khái niệm hợp đồng thương mại và
hợp đồng thương mại vô hiệu chỉ là các khái niệm mang tính học thuật, được hình

thành trong nghiên cứu và có ý nghĩa trong xây dựng pháp luật, hồn tồn khơng phải
là khái niệm pháp lý được ghi nhận trong pháp luật thực định. Tuy nhiên cần phải thừa
nhận rằng hợp đồng thương mại có một vai trị quan trọng trong nền kinh tế và vấn đề
vơ hiệu hợp đồng thương mại đang là vấn đề cần quan tâm hiện nay. Những phân tích
trên đây chỉ là những phân tích chung để hiểu được bản chất của một hợp đồng thương
mại vơ hiệu, phân biệt được nó với các trường hợp khác cũng như đưa ra cách xác định
nó. Từ đó làm nền tảng để đi vào nghiên cứu sâu hơn về hợp đồng thương mại vô hiệu
và đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng.

Trang 16


Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về hợp đồng thƣơng mại vô hiệu, thực trạng
áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện
2.1. Pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng thƣơng mại vô hiệu
Hợp đồng thương mại là quan hệ pháp luật rất quan trọng, diễn ra thường xuyên
và phổ biến trong cuộc sống, nhất là trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam trong những năm gần đây. Khi hợp đồng
thương mại bị vơ hiệu thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và xã hội sẽ bị ảnh hưởng.
Các chủ thể của hợp đồng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định, ảnh hưởng
trực tiếp đến tài sản của cá nhân hay môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng
thời có thể gây thiệt hại cho các chủ thể khác của hợp đồng và có thể gây thiệt hại cho
nền kinh tế nếu đó là những hợp đồng lớn có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Ví
dụ: hợp đồng mua bán xăng dầu, hợp đồng xuất khẩu… Do đó, cần có quy định của
pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu nhằm đảm bảo cho môi
trường kinh doanh được lành mạnh, an toàn, bảo vệ các chủ thể tham gia hợp đồng
thương mại và đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra một cách ổn
định và bền vững.
Trước đây, khi BLDS 2005 chưa ra đời, pháp luật điều chỉnh vấn đề vô hiệu hợp
đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng khơng được thống nhất, rõ ràng. Bởi

lẽ, trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi BLDS 2005 có hiệu lực, ở Việt Nam tồn tại
hai loại hợp đồng với hai chế định pháp luật điều chỉnh khác nhau đó là hợp đồng dân
sự và hợp đồng kinh tế. Với quan niệm đây là hai loại hợp đồng độc lập cho nên vấn đề
vô hiệu hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991,
sau được thay thế bởi sự ra đời của BLDS 1995 (Điều 136), cịn hợp đồng kinh tế vơ
hiệu lại chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 (Điều 8). Năm 1997,
Luật Thương mại ra đời quy định về hợp đồng thương mại nhưng chỉ quy định nội
dung các hợp đồng thương mại cụ thể mà không điều chỉnh các vấn đề chung của hợp
đồng thương mại cho nên vấn đề vô hiệu hợp đồng thương mại không chịu sự điều
chỉnh của Luật Thương mại 1997. Bên cạnh đó, pháp luật về hợp đồng cũng khơng tồn
tại văn bản pháp luật nào điều chỉnh hợp đồng thương mại vô hiệu. Điều 3 Luật
Thương mại 1997 chỉ quy định: “các hoạt động thương mại phải tuân theo quy định
của Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan” mà khơng chỉ rõ pháp luật
có liên quan là pháp luật nào trong khi ở Việt Nam lúc bấy giờ tồn tại song song hai
chế định pháp luật về hợp đồng và đều có điều chỉnh vấn đề vơ hiệu như đã nêu ở trên.
Điều này gây khó khăn cho việc xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại vơ
hiệu và dẫn đến thực trạng đó là tồn tại hai hướng giải quyết khác nhau đối với hợp
đồng thương mại vô hiệu với hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng
hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng kinh doanh, là hợp đồng chuyên ngành
Trang 17


nên phải áp dụng những quy định của văn bản chuyên ngành (tức là Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế 1989) đối với hợp đồng thương mại vô hiệu. Quan điểm thứ hai cho rằng
đây là loại hợp đồng phái sinh từ hợp đồng dân sự nên những quy định mang tính
nguyên tắc của BLDS 1995 sẽ được áp dụng nếu trong Luật Thương mại 1997 khơng
điều chỉnh. Vì vậy, có hợp đồng thương mại được áp dụng theo Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế 1989, có hợp đồng thương mại áp dụng BLDS 1995 để giải quyết vô hiệu tùy
theo quan điểm và cách hiểu của mỗi người13.
Có thể thấy, pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu thời kỳ

trước là không thống nhất gây nên những khó khăn trong áp dụng pháp luật xác định
hợp đồng thương mại vô hiệu. Luật Thương mại 2005 ra đời thay thế Luật Thương mại
1997. Tuy nhiên, LTM 2005 cũng khơng có một sự điều chỉnh trực tiếp nào về hợp
đồng thương mại vô hiệu. Sự ra đời của BLDS 2005 là một bước tiến quan trọng trong
chế định pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ở
nước ta được thống nhất theo hướng coi BLDS 2005 là nền tảng của ngành luật tư và
những vấn đề chung nhất về hợp đồng đã được điều chỉnh một cách tổng quát nhất
trong Bộ luật này14. Hơn nữa, Khoản 3 Điều 4 LTM 2005 quy định: “Hoạt động
thương mại không được quy định trong Luật thương mại thì áp dụng quy định của Bộ
luật dân sự 2005”. Quy định này của LTM 2005 phải được hiểu theo ý nghĩa những
vấn đề pháp lý nào của các hoạt động thương mại không được quy định trong Luật
Thương mại 2005 và trong các luật chuyên ngành khác thì áp dụng các quy định của
BLDS 2005 về các vấn đề pháp lý đó. Như vậy, các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp
đồng thương mại vô hiệu không được điều chỉnh bởi LTM 2005 nên sẽ áp dụng BLDS
2005 để điều chỉnh.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, để giải quyết vấn đề hợp đồng thương mại
vô hiệu chúng ta căn cứ vào những quy định chung về hợp đồng vô hiệu của BLDS
2005. Việc áp dụng các quy định của BLDS 2005 giúp cho việc xác định và giải quyết
vấn đề hợp đồng vô hiệu trở nên thống nhất. Song, hoạt động thương mại là rất đa dạng
và phong phú với những điểm đặc thù riêng so với giao dịch dân sự cho nên khi áp
dụng những quy tắc chung có thể dấn đến việc áp dụng cứng nhắc các quy định của
BLDS vào quan hệ thương mại dẫn đến tình trạng hợp đồng thương mại bị vô hiệu một
cách không hợp lý. Chẳng hạn như đặc trưng của hoạt động quảng cáo là mục tiêu lợi
nhuận. Để đạt được mục tiêu này, quảng cáo là một phương tiện hiệu quả tác động đến
khách hàng để họ mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Do đó, có những thơng tin quảng
13

Kinh Thị Tuyết (2005), Vận dụng pháp luật quốc tế về hợp đồng trong hoàn thiện chế định hợp đồng của Pháp
luật Việt Nam thời kỳ hội nhập, Luận văn thạc sỹ, tr.85.
14

ThS. Trần Hải Hưng (2006), Đổi mới pháp luật về hợp đồng của Bộ luật dân sự 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr.71.

Trang 18


cáo có thể nói quá hoặc hơi khoa trương so với thực tế nhằm thu hút khách hàng nhưng
nếu xem sự khoa trương ấy là sự lừa dối và áp dụng chế định lừa dối của BLDS 2005
để tuyên hợp đồng thương mại vơ hiệu thì sẽ là bất hợp lý.
Vấn đề cần xem xét là có nên hay khơng nên có quy định về hợp đồng thương
mại vơ hiệu trong Luật Thương mại 2005. Theo quan điểm của tác giả, việc đưa các
quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu vào Luật Thương mại 2005 là cần thiết vì:
Thứ nhất, Luật Thương mại được xem là luật của thương nhân cho nên thương
nhân là người phải hiểu và nắm vững kiến thức pháp luật thương mại nhất để thực hiện
hoạt động thương mại cho đúng và phù hợp với chính sách pháp luật của nhà nước. Vì
thế thương nhân được cho là chủ thể am hiểu pháp luật trong lĩnh vực thương mại. Tuy
nhiên, đặc trưng của hợp đồng thương mại là vì mục tiêu lợi nhuận và yêu cầu nhanh
chóng trong hoạt động thương mại nói chung và ký kết hợp đồng thương mại nói riêng
đơi khi khiến họ quên đi một vấn đề pháp lý rất quan trọng đó là hiệu lực của hợp
đồng. Một điều khoản quy định về vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ là một lời
nhắc nhở các bên lưu ý đến vấn đề hiệu lực của hợp đồng mà thực hiện cho đúng pháp
luật, tránh để hợp đồng bị vô hiệu nhằm đảm bảo hiệu lực của hợp đồng và như thế sẽ
phần nào hạn chế được một số lượng không nhỏ hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực
thương mại.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng thương mại ngoài thương nhân cịn có các chủ
thể khác khơng phải là thương nhân khi họ lựa chọn Luật Thương mại áp dụng cho
quan hệ hợp đồng của mình. Do đó, khi tham gia quan hệ hợp đồng thương mại họ sẽ
có nhu cầu tìm hiểu các quy định của Luật Thương mại để tự bảo vệ quyền và lợi ích
của mình. Tuy nhiên, khác với thương nhân, các chủ thể khác này thường là những
người không am hiểu về pháp luật thương mại cho nên sẽ khó khăn cho họ khi xác định

pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại vô hiệu vì LTM chỉ quy định gián tiếp về
hợp đồng thương mại vô hiệu thông qua các quy định tại Khoản 3 Điều 4 như sau:
“hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và các luật khác
thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”. Điều khoản này phải được hiểu theo ý nghĩa
những vấn đề pháp lý nào của các hoạt động thương mại không được điều chỉnh trong
LTM 2005 và trong các luật chuyên ngành khác thì áp dụng các quy định của BLDS
2005 về các vấn đề pháp lý đó. Nếu khơng hiểu đúng ý nghĩa của quy định pháp luật
thì sẽ gặp khó khăn khi xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại vô hiệu.
Việc quy định rõ ràng vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho họ trong việc tìm hiểu và xác định pháp luật, góp phần hạn chế hợp đồng
thương mại vô hiệu.
Thứ ba, hoạt động thương mại ngày càng phát triển và ngày càng hội nhập sâu
vào thị trường thương mại thế giới đòi hỏi pháp luật thương mại của quốc gia phải có
Trang 19


×