Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.12 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----o0o-----

NGUYỄN NGỌC HIẾU

BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Đại

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu nêu trong
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác

Tác giả luận văn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS



Bộ luật dân sự

LTM

Luật thương mại

CISG

Convention on contracts for the international sale of goods
(Công ước viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980)

UPICC

UNIDROIT (International Institute for the Unification of
Private Law) Principles of international commercial contract
(Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế
năm 2004)

PECL

Principles of European contract law
(Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1 - Lý do chọn đề tài ............................................................................... 1
2- Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................ 3
3- Mục đích, đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu ......................... 4

3.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................... 4
3.2. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................. 5
4- Các phương pháp tiến hành nghiên cứu .............................................. 5
5- Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ................................. 5
6. Bố cục của Luận văn .......................................................................... 5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG ........................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm buộc thực hiện đúng hợp đồng ...................................... 6
1.1.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một chế tài ........................... 6
1.1.2. Căn cứ phát sinh chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ......... 14
1.1.3. Nội dung chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .................... 18
1.2. Vị trí của buộc thực hiện đúng hợp đồng trong các loại chế tài
thương mại ........................................................................................... 24
1.2.1. Theo một số văn bản quốc tế .................................................. 24
1.2.2. Theo pháp luật Việt Nam........................................................ 29
1.3. Mối quan hệ với các chế tài thương mại khác .............................. 32
1.3.1. Mối quan hệ với bồi thường thiệt hại ..................................... 32
1.3.2. Mối quan hệ với hủy bỏ hợp đồng .......................................... 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................... 37
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CHẾ TÀI BUỘC
THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG TRONG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
................................................................................................................. 39
2.1. Phạm vi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ............... 39
2.1.1. Áp dụng đối với tất cả hành vi vi phạm nghĩa vụ..................... 39
2.1.2. Đối với nghĩa vụ giao hàng không phù hợp với hợp đồng ....... 41
2.1.3. Hạn chế áp dụng yêu cầu giao hàng hóa thay thế .................. 44
2.2. Gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và quyền khắc phục
của bên vi phạm ................................................................................... 50



2.2.1 Gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng - Cơ chế
“Nafrist”. ......................................................................................... 50
2.2.2. Quyền khắc phục của bên vi phạm .......................................... 52
2.3. Thẩm quyền của Tòa án và thực thi chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng theo quyết định của Tòa án ................................................... 54
2.3.1. Thẩm quyền của Tòa án ......................................................... 54
2.3.2. Thực thi chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quyết định của
Tòa án ............................................................................................... 58
2.4. Những trường hợp không buộc thực hiện đúng hợp đồng............. 61
2.4.1. Không thể thực hiện được nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
hay trên thực tế ................................................................................. 62
2.4.2. Việc thực hiện nghĩa vụ mang tính tuyệt đối cá nhân .............. 64
2.4.3. Việc thực hiện nghĩa vụ đòi hỏi cố gắng hay chi phí bất hợp lý
......................................................................................................... 65
2.4.4. Bên có quyền có thể nhận được một cách hợp lý việc thực hiện
nghĩa vụ bằng phương pháp khác ..................................................... 68
2.4.5. Sự chậm trễ trong thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ ........ 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................... 72
KẾT LUẬN.............................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1 - Lý do chọn đề tài
Khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên đều mong muốn đạt được
những lợi ích nhất định. Lợi ích các bên hướng tới khơng thể có được nếu một
bên khơng thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo
hợp đồng đã ký kết. Trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ, thì việc áp dụng
biện pháp bảo hộ pháp lý nào là thỏa đáng để cân bằng quyền và lợi ích hợp

pháp của bên bị vi phạm, và lợi ích của cả bên vi phạm có vai trị quan trọng,
nhằm bảo đảm ổn định các quan hệ hợp đồng thương mại. Các chế tài hiệu
quả để áp dụng đối với chủ thể vi phạm hợp đồng luôn là một trong những
mối quan tâm của các nhà làm luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể. Về chế tài trong thương mại, Điều 292 Luật thương mại 2005 quy
định 07 loại chế tài có thể được áp dụng khi một bên vi phạm hợp đồng, trong
đó buộc thực hiện hợp đồng là chế tài đầu tiên được đề cập.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng
được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh1. Chế tài này có ý
nghĩa rất quan trọng đảm bảo cho các bên tôn trọng và thực hiện các thỏa
thuận, từ đó giúp các bên đạt được lợi ích mong muốn khi giao kết hợp đồng.
Ở Việt Nam, pháp luật cũng theo hướng các nước thuộc hệ thống dân luật,
hợp đồng được ký kết hợp pháp thì có giá trị bắt buộc đối với các bên, vì thế
nếu một bên thực hiện khơng đúng hợp đồng thì về ngun tắc bên kia có
quyền u cầu phải thực hiện đúng hợp đồng. Theo quan điểm này, buộc thực
hiện đúng hợp đồng được áp dụng đối với mọi trường hợp vi phạm. Ngược
lại, đối với các quốc gia thông luật, bồi thường thiệt hại là biện pháp ưu tiên
được áp dụng, chỉ khi nào việc bồi thường tỏ ra khơng thích hợp thì mới áp
dụng buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng.2
Buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng là vấn đề được quan tâm và đề cập
trong những văn bản pháp lý quốc tế có sự ảnh hưởng lớn trên thế giới như
Công ước viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (CISG), Bộ nguyên
tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (UPICC) và Bộ nguyên tắc
Châu Âu về hợp đồng (PECL). Trong các văn bản pháp lý này, buộc thực
hiện đúng hợp đồng được xem là biện pháp khắc phục chính, được ưu tiên áp
dụng trước hết khi có vi phạm hợp đồng. Mặc dù, thừa nhận là chế tài được
ưu tiên áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ, tuy nhiên quy định của pháp
luật Việt Nam về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng chưa được thể hiện
một cách khái quát và rõ nét. Bên cạnh những quy định chung tương đồng với


1

Khoản 1 Điều 297 Luật TM 2005
Xem Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
tr 50.
2


2
các văn bản pháp lý trên, thì pháp luật Việt Nam đang tồn tại nhiều khuyết điểm,
hạn chế.
Theo khoản 2 Điều 297 của Luật thương mại 2005, chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng chỉ được áp dụng hạn chế đối với một số trường hợp đó
là giao thiếu hàng hoặc giao hàng, cung ứng dịch vụ kém chất lượng. Do đó,
Luật thương mại thiếu cơ sở pháp lý cho việc áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng trong trường hợp bên bán vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào khác
trừ trường hợp giao hàng hóa khơng đầy đủ và giao hàng, cung ứng dịch vụ
kém chất lượng. Giả sử trường hợp bên bán giao hàng không phù hợp với
mục đích sử dụng thơng thường của hàng hóa cùng chủng lọai; hay không phù
hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên
bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng; hay trường hợp hàng hóa
khơng được bảo quản, đóng gói theo cách thức thơng thường hoặc theo cách
thức thích hợp để bảo quản, thì Tịa án khơng thể áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng đối với bên vi phạm.
Đồng thời tại khoản 2 Điều 297 trao cho bên mua quyền yêu cầu giao
hàng hóa thay thế khi bên bán đã giao hàng kém chất lượng, thậm chí việc
giao hàng khơng phù hợp đó khơng cấu thành một vi phạm cơ bản theo khoản
13 Điều 3 Luật thương mại. Quy định này của Luật thương mại đã trao quyền
yêu cầu giao hàng thay thế quá “dễ dãi” cho bên mua, và đặt gánh nặng quá

lớn cho bên bán. Điều này vơ hình dung đã gây bất lợi rất lớn cho người bán
khi phải nhận lại hàng khiếm khuyết và giao hàng khác thay thế theo hợp
đồng, nhất là trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế với khoảng cách
địa lý xa, rất tốn kém trong việc vận chuyển và ký gửi hàng hóa cho bên thứ
ba. Khác với quy định của luật thương mại, Điều 46(2) công ước viên trao
cho bên mua quyền yêu cầu bên bán giao hàng thay thế khi và chỉ khi giao
hàng bị khiếm khuyết cấu thành vi phạm cơ bản theo Điều 25 Công ước.
Trong thực tiễn, hậu quả pháp lý của việc yêu cầu giao hàng hóa thay thế dẫn
đến hậu quả tương tự việc chấm dứt hợp đồng, khi mà hàng hóa bị khiếm
khuyết sẽ được trả lại cho bên bán và hàng hóa thay thế phải được vận chuyển
đến cho bên mua. Do vậy, Công ước đã áp dụng học thuyết “vi phạm cơ bản”
để hạn chế yêu cầu giao hàng hóa thay thế.
Để tăng khả năng áp dụng chế tài này, các văn bản pháp lý quốc tế như
CISG, UPICC và PECL đã có những quy định về buộc thực hiện đúng hợp
đồng bằng cách gia hạn thực hiện nghĩa vụ và quyền khắc phục, sữa chữa
khiếm khuyết thực hiện nghĩa vụ của bên vi phạm. Đây là những có chế rất
hiệu quả để bên vi phạm có thêm “cơ hội” để thực hiện đúng nghĩa vụ hợp
đồng. Tuy nhiên, khác với quy định của các văn bản trên, pháp luật Việt Nam
quy định về vấn đề này còn rất hạn chế, chỉ ghi nhận về quyền gia hạn thực
hiện nghĩa vụ của bên bị vi phạm, mà không phải là nghĩa vụ của bên này. Do


3
đó, có gia hạn thực hiện nghĩa vụ hay khơng và gia hạn bao lâu là tùy thuộc
vào ý chí của bên bị vi phạm, không phụ thuộc vào yêu cầu hợp lý của bên vi phạm3.
Ngoài ra, buộc thực hiện đúng hợp đồng khơng mang tính tuyệt đối,
các văn bản pháp lý quốc tế CISG, UPICC và PECL, bên cạnh ghi nhận
nguyên tắc chung, đã ghi nhận những ngọai lệ của biện pháp bảo hộ pháp lý
(chế tài) buộc thực hiện đúng hợp đồng. Những trường hợp không áp dụng
chế tài này có thể liệt kê như khơng thể thực hiện được nghĩa vụ theo quy

định của pháp luật hay trên thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ mang tính tuyệt
đối cá nhân, việc thực hiện nghĩa vụ địi hỏi bên vi phạm những cố gắng hay
chi phí bất hợp lý, bên có quyền có thể nhận được một cách hợp lý việc thực
hiện nghĩa vụ bằng phương pháp khác, và sự chậm trễ trong thông báo yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ. Những quy định tương tự như trên chưa được đề cập
trong cả pháp luật dân sự và thương mại Việt Nam.
Bên cạnh đó, giữa pháp luật thương mại và pháp luật dân sự cũng tồn
tại nhiều vấn đề không tương đồng, trong khi các quy định về buộc tiếp tục
thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ luật dân sự quan tâm nhiều đến
“đối tượng của nghĩa vụ” (chỉ có một số loại nghĩa vụ mới có quy định buộc
tiếp tục thực hiện), thì các quy định của luật thương mại lại không quan tâm
đến “bản chất đối tượng của nghĩa vụ” (nghĩa vụ nào cũng có thể được yêu
cầu tiếp tục thực hiện), nhưng lại chỉ giới hạn việc áp dụng chế tài này đối với
một số loại “vi phạm”, đó là giao thiếu hàng, giao hàng, cung ứng dịch vụ
kém chất lượng như đã đề cập ở trên.
Trong thực tiễn xét xử, khi áp dụng chế tài này để buộc bên vi phạm
phải thực hiện đúng hợp đồng cịn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Sự
vận dụng không thống nhất đã đưa ra những quyết định trái ngược nhau, tạo
ra sự bất bình đẳng trong quan hệ thương mại. Ngồi ra, một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc áp dụng chế tài này trên thực tế còn rất
nhiều hạn chế, đó là pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về thẩm
quyền của Tòa án trước yêu cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng của bên bị vi
phạm, và chưa có cơ chế hiệu quả để bảo đảm tính khả thi quyết định áp dụng
của Tịa án.
Do vậy, nghiên cứu về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có ý
nghĩa quan trọng khơng chỉ về mặt lý luận, mà cả trong thực tiễn áp dụng. Đó
cũng là lý do tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
- Ở trong nước: Nghiên cứu liên quan đến nội dung của đề tài, hiện nay
chỉ được đề cập ở chừng mực nhất định trong một số tài liệu như: Giáo trình

hợp đồng thương mại quốc tế, nhà xuất bản đại học quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh; sách chuyên khảo: Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng của tác giả Đỗ Văn Đại; sách chuyên khảo: Chế định hợp đồng
3

Xem Điều 298 Luật thương mại 2005.


4
trong luật dân sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh. Và một số bài
viết khác như: Buộc thực hiện đúng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
quy định của pháp luật Việt Nam – So sánh với công ước viên 1980 của tác
giả Lương Văn Lắm; quy định của Công ước viên về các chế tài khi vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Nguyễn Minh Hằng (Tài liệu tham
gia hội thảo khoa học không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực
định Việt Nam, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh).
- Ở nước ngịai: Có nhiều cơng trình nghiên cứu về chế tài hợp đồng
nói chung, trong đó có đề cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, như:
A Comparative Study of Specific Performance Provisions in the United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods của tác
giả Nayiri Boghossian; CISG- Structure of remedies của Peter Hube; CISG,
Specific performance and finnish law của Jussi Koskinen; The Application of
specific performance in contractual relationships của Asta JakutytėSungailienė; Remedies for non-performance-perspectives from CISG,
Unidroit principles and Pecl của Liu Chengwei; Buyer's Right to Specific
Performance: A Comparative Study Under English Law, the Convention on
Contracts for the International Sale of Goods 1980, Iranian and Shi'ah Law
của Mirghasem Jafarzadeh.
Các tài liệu trên đây đề cập đến từng khía cạnh pháp lý của đề tài.
Nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện
về chế tài này theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Do đó, việc

lựa chọn đề tài này là không trùng lắp với các cơng trình khoa học đã được
cơng bố.
3- Mục đích, đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực trạng pháp lý
và áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thực tiễn xét xử. Qua
đó cung cấp kiến thức pháp lý cần thiết cho các bên trong quá trình thực hiện
hợp đồng thương mại, góp phần hồn thiện quy định của pháp luật về vấn đề
này.
Trên cơ sở mục đích của đề tài, Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề
sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng, bản chất pháp lý, căn cứ phát sinh, nội dung và vị trí của buộc thực
hiện đúng hợp đồng trong các loại chế tài thương mại, mối quan hệ giữa chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các chế tài khác như bồi thường thiệt hại
và hủy hợp đồng.
- Tác giả cũng so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với quy định
của pháp luật quốc tế và một số nước để cung cấp kiến thức đầy đủ, toàn diện
hơn về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.


5
- Tác giả đi sâu vào phân tích những thiếu sót, hạn chế quy định của
pháp luật Việt Nam, cũng như những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng chế tài này. Qua đó, đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện quy định của
pháp luật liên quan.
3.2. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm:
- Quy định của pháp Luật thương mại Việt Nam, luật dân sự Việt Nam
về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng;

- Quy định của Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, Bộ
nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế, Bộ nguyên tắc Châu Âu
về hợp đồng và pháp luật một số nước về chế tài này;
- Các bản án của Tòa án các cấp và của Trọng tài thương mại có liên quan
đến buộc thực hiện đúng hợp đồng.
4- Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu trong luận án là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin; quan điểm của Đảng và nhà nước ta về nhà
nước và pháp quyền.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính chất và yêu
cầu của đề tài như: Phương pháp phân tích, diễn giải, bình luận, lịch sử, so
sánh luật học, lơ gíc, hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những
kết luận, đánh giá nhằm giải quyết những vấn đề được đưa ra.
5- Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và pháp lý của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, áp dụng chế tài này
trong thực tiễn qua hoạt động xét xử của Tòa án. Qua đó cung cấp kiến thức
pháp lý cần thiết cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, cũng như tự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ hợp đồng thương
mại.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên luật, những nhà
nghiên cứu và áp dụng pháp luật thực tiễn quan tâm đến chế tài này.
6. Bố cục của Luận văn
Ngòai phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm hai chương.
Chương 1: Lý luận chung về buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Chương 2: Một số bất cập và kiến nghị về chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng trong pháp luật thương mại.



6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm buộc thực hiện đúng hợp đồng
1.1.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một chế tài
1.1.1.1.Khái niệm chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
Nghiên cứu về chế tài trong pháp LTM có một vai trị hết sức quan
trọng nhằm đảm bảo cho sự thỏa thuận, cam kết của các bên có thể được thực
hiện bằng những cơ sở pháp lý. Do đó, các hệ thống pháp luật trên thế giới và
pháp luật của các quốc gia ln có sự quan tâm đặc biệt. Các văn bản pháp lý
quốc tế được áp dụng rộng rãi như Cơng ước viên về mua bán hàng hóa quốc
tế năm 1980 (CISG), Nguyên tắc pháp luật hợp đồng châu âu (PECL) và Bộ
nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 (UPICC)
đã có nhiều quy định về chế tài nói chung và về buộc thực hiện đúng hợp
đồng nói riêng.
Khi thống nhất thỏa thuận và ký kết hợp đồng thương mại, các bên luôn
hướng tới việc đạt được mục đích của hợp đồng một cách nhanh chóng, an
tịan và ít tốn kém nhất. Trong q trình thực hiện hợp đồng, các bên đều
mong đợi việc thực thi nghiêm túc từ phía đối tác, bởi đó là điều kiện giúp họ
đạt được lợi ích mong muốn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp mong muốn
của các bên không đạt được bởi nhiều lý do nhưng chủ yếu là do sự vi phạm
của một bên trong quan hệ hợp đồng. Do vậy, để đảm bảo việc tuân thủ pháp
luật và thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo cho bên bị thiệt hại được bù đắp kịp
thời những thiệt hại gây ra bởi bên vi phạm, pháp luật quy định trách nhiệm
pháp lý trong trường hợp vi phạm hợp đồng mà hình thức biểu hiện là hệ
thống các chế tài trong thương mại.
* Chế tài thương mại là gì?
Chế tài được hiểu là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên
những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật

được thực hiện nghiêm minh4. Những biện pháp này mang lại hậu quả pháp lý
bất lợi cho chủ thể bị áp dụng, thể hiện thái độ của nhà nước đối với chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật. Chế tài còn được hiểu là những hình phạt hoặc
các phương tiện khác của việc thực thi pháp luật, được sử dụng để đảm bảo
cho sự phục tùng của pháp luật, hoặc của các quy tắc và quy định5.
Chế tài thương mại là những hậu quả pháp lý bất lợi về tài sản mà nhà
nước dự kiến áp dụng đối với những chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
thương mại. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại, các
bên có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thực hiện thỏa thuận đã cam kết, bởi khi hợp
4
5

Lê Minh Tâm (2004), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản công an nhân dân, năm 2004, tr 375.
Http://american-bankruptcy.us/?a=Sanctions_(law)


7
đồng được ký kết một cách hợp pháp thì có hiệu lực ràng buộc các bên, quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Nếu một bên có hành vi vi phạm hợp đồng thì có khả năng bị áp dụng các chế
tài thương mại, tức phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi được pháp
luật quy định. Và khác cơ bản so với chế tài hình sự hay hành chính, chế tài
thương mại là chế tài hồn tịan mang tính tài sản, tức bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về tài sản khi thực hiện hành vi vi phạm
hợp đồng, như phải gánh chịu các chi phí để thực hiện đúng nghĩa vụ hợp
đồng, cho dù việc tiếp tục thực hiện có thể gây tốn kém hơn cho bên vi phạm
do giá cả hay chí phí tăng, hoặc phải trả tiền phạt vi phạm, hay phải bồi
thường thiệt hại nếu gây ra thiệt hại. Ví dụ: nếu vi phạm hợp đồng, bên vi
phạm có thể bị Tịa án áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài
này yêu cầu bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ, nếu giao hàng

bị khuyết tật thì bỏ thêm chi phí và công sức để tiến hành sữa chữa hoặc giao
hàng thay thế, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp hành vi
của một bên là vi phạm nghiêm trọng thì có thể bị đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng
và bồi thường tòan bộ thiệt hại phát sinh.
Chế tài thương mại có thể do các bên tự thiết lập (như phạt vi phạm
hợp đồng) hoặc do pháp luật quy định. Rõ ràng khác với chế tài hình sự hay
hành chính, chế tài thương mại có thể do các bên tự quy định để ràng buộc
trách nhiệm thực hiện đúng thỏa thuận, miễn thỏa thuận đó phù hợp với pháp
luật. Pháp luật trao quyền cho bên bị vi phạm để yêu cầu bên vi phạm phải
chấp hành, nếu không tự giác thi hành thì bên bị vi phạm có thể yêu cầu sự áp
dụng từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Vai trị của chế tài thương mại:
Từ góc độ quản lý nhà nước, chế tài thương mại là công cụ quan trọng
để nhà nước quản lý quan hệ thương mại của các chủ thể trong xã hội, đảm
bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực thi, góp phần làm lành mạnh hóa
quan hệ kinh tế thương mại trong thị trường. Xét trong mối quan hệ giữa các
bên trong hợp đồng, chế tài thương mại được quy định nhằm mục đích răn đe
bên vi phạm hợp đồng, đảm bảo cho thỏa thuận hợp pháp giữa các bên được
tôn trọng và thực thi. Đứng trước khả năng phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý bất lợi về tài sản, bên có ý định vi phạm hợp đồng sẽ có lựa chọn và
cân nhắc đối với hành vi của mình, bởi nếu thực hiện hành vi vi phạm nghĩa
vụ, thì việc bị áp dụng các chế tài thương mại là điều không tránh khỏi, và tất
yếu kéo theo sự thiệt hại về kinh tế.
Vai trò quan trọng nhất của chế tài thương mại là khôi phục và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Bởi
khi bị vi phạm hợp đồng, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của mình, bên bị vi
phạm có quyền u cầu bên vi phạm phải bồi thường cho những thiệt hại đã
gây ra để khơi phục lại lợi ích chính đáng của mình. Quyền này của bên bị vi



8
phạm được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp
cưỡng chế khi cần thiết.
* Chế tài thương mại được áp dụng khi nào?
Chế tài thương mại được áp dụng khi có hành vi vi phạm của một bên
trong quan hệ hợp đồng. Hành vi vi phạm trong hợp đồng có thể là hành vi
khơng thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ một phần hay
tòan bộ nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nhưng cũng có thể là hành vi
vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, mặc
dù những quy định này không được các bên thỏa thuận và ghi nhận trong hợp
đồng, nhưng cũng được xem là những quy định mang tính “mặc định” và bắt
buộc đối với các bên.
Điều chỉnh về chế tài thương mại, Luật thương mại (LTM) 2005 tại
Điều 292 đã đặt ra bảy loại chế tài có thể được áp dụng đối với hành vi vi
phạm của bên có nghĩa vụ: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm,buộc
bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ, hủy bỏ hợp
đồng và các biện pháp khác do các bên thỏa thuận. Mỗi chế tài có căn cứ áp
dụng, hậu quả pháp lý và bản chất khác nhau. Do vậy, việc lựa chọn một hay
kết hợp nhiều chế tài thường phụ thuộc vào bản chất của vi phạm, và mục
đích mà bên bị vi phạm hướng tới. ví dụ: Để tiếp tục duy trì hợp đồng và khắc
phục thiệt hại, bên bị vi phạm có thể yêu cầu áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng, kết hợp với yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng khơng cịn ý nghĩa với bên bị vi phạm, thì thơng thường
giải pháp được lựa chọn là hủy hợp đồng, và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, chế tài trong hợp đồng thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi
về mặt vật chất, được áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm, nhằm mục
đích khắc phục thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra đối với bên bị vi phạm,
đảm bảo cho thỏa thuận giữa các bên được tôn trọng và thực thi theo đúng
quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Bản chất pháp lý của buộc thực hiện đúng hợp đồng

* Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một chế tài thương mại
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực thi nghĩa vụ nhằm
đáp ứng lợi ích của bên đối tác thì bên này có quyền u cầu bên vi phạm
phải thực hiện đúng hợp đồng hay không? Buộc thực hiện đúng hợp đồng
được hiểu như thế nào?
Buộc thực hiện đúng hợp đồng được hiểu: Khi một bên không thực
hiện nghĩa vụ của mình, bên kia có quyền u cầu bên vi phạm phải thực hiện
đúng nghĩa vụ theo hợp đồng6. Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm buộc
thực hiện đúng hợp đồng lần đầu tiên được đề cập tại khỏan 1 Điều 223 LTM
1997: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu
6

Http: www.buscalegis.ufsc.br/.../32977-41266-1-PB.pdf


9
cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để
hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh”.
Xuất phát từ khái niệm này, có thể hiểu buộc thực hiện đúng hợp đồng
trước hết là quyền “đương nhiên” được trao cho bên bị vi phạm trước hành vi
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của bên kia, và quyền này được pháp luật tôn
trọng và bảo vệ. Bởi hợp đồng là sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các
bên nhằm đạt được những lợi ích nhất định, quyền của bên này tương ứng với
nghĩa vụ của bên kia, do vậy các bên phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm
túc nghĩa vụ của mình. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ thì bên cịn lại có
quyền u cầu bên này phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là biện pháp khắc phục “tự nhiên” nhất
cho vi phạm hợp đồng, khôi phục lại trạng thái ban đầu của các bên khi hành
vi vi phạm nghĩa vụ chưa xẩy ra, do đó nó bảo vệ quan hệ hợp đồng và giúp
các bên đạt được mục đích của mình. Bên mua có hàng hoặc dịch vụ - đối

tượng của hợp đồng, bên bán được thanh tóan giá trị tương ứng.
Có quan điểm cho rằng, buộc thực hiện đúng hợp đồng là biện pháp
khắc phục công bằng đặc biệt, buộc một bên thực hiện hợp đồng theo chính
xác các điều khoản thoả thuận, nhằm đảm bảo cho công lý sẽ được thực hiện
giữa các bên trong tất cả các trường hợp”.7 Buộc thực hiện đúng hợp đồng
còn được hiểu là việc thực hiện thực tế hợp đồng bởi bên bị ràng buộc phải
thực hiện nó.8
Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng không những được hiểu là
quyền yêu cầu của bên bị vi phạm trước hành vi vi phạm hợp đồng, mà còn
được hiểu là nghĩa vụ phải thực hiện đúng của bên vi phạm đối với những
thỏa thuận đã cam kết, đảm bảo lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm, và thiết
lập công bằng trong quan hệ hợp đồng giữa các bên. Ghi nhận về quyền yêu
cầu thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam là phù hợp với pháp
luật quốc tế, là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp
pháp của bên bị vi phạm khi việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vi
phạm đã xâm phạm lợi ích chính đáng của bên này.
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định tại Điều 292
LTM 2005, là chế tài được liệt kê đầu tiên trong số bảy lọai chế tài thương
mại. Buộc thực hiện đúng hợp đồng trước hết là một chế tài thương mại, do
đó chỉ tồn tại khi xuất hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, và được áp
dụng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, đó có
thể là Tịa án hoặc trọng tài thương mại.
Mang bản chất là một chế tài thương mại, buộc thực hiện đúng hợp
đồng là hậu quả pháp lý bất lợi về mặt vật chất, được áp dụng đối với bên vi
phạm nghĩa vụ, nhằm mục đích khắc phục những thiệt hại do bên này gây ra
7
8

Http://www.answers.com/topic/specific-performance.
Http://legal-dictionary.thefreedictionary.com/specific+performance



10
đối với bên bị vi phạm. Khi bị áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng,
bên bị vi phạm rõ ràng phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi, bởi lẽ bên này
phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng bằng chi phí của mình và bồi
thường thiệt hại cho bên bị vi phạm nếu có.
Cụ thể, đối với bên bán: Nếu giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ khơng
đúng số lượng, thì buộc phải giao đủ số lượng, nếu giao hàng hoặc cung cấp
dịch vụ kém chất lượng thì phải lọai trừ khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ,
hoặc giao hàng hóa thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Việc thực
hiện các biện pháp khắc phục hay thay thế, bên bị vi phạm phải tiến hành
bằng chi phí của mình, cho dù việc thực hiện có thể tốn kém hơn, vì phải bỏ
nhiều chi phí và cơng sức hơn. Trong trường hợp bên vi phạm khơng thực
hiện nghĩa vụ thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ
của bên thứ ba hay tự khắc phục sữa chữa khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ và
yêu cầu bên vi phạm phải trả các khỏan tiền chênh lệch và chi phí liên quan
nếu có. Đối với bên mua, phải thực hiện nghĩa vụ thanh tóan đúng thời hạn,
nếu thanh tóan khơng đúng thời hạn thì phải trả tiền lãi, và thực hiện các
nghĩa vụ khác như nhận và bốc dỡ hàng kịp thời…nếu chậm hay không thực
hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên mua.
Mang ý nghĩa là một biện pháp khắc phục thiệt hại do hành vi vi phạm
nghĩa vụ gây ra, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là cơ sở pháp lý để
buộc bên có nghĩa vụ phải cung cấp lợi ích đã cam kết cho bên bị thiệt hại, đặt
bên bị thiệt hại vào vị trí ban đầu khi hành vi vi phạm nghĩa vụ chưa xẩy ra.
Là một chế tài được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng được nhà nước đảm bảo thực hiện, kể cả bằng
biện pháp cưỡng chế nếu cần thiết. Do đó có tác dụng ngăn ngừa hành vi vi
phạm hợp đồng, bảo đảm cho thỏa thuận giữa các bên được tôn trọng và bảo
đảm thực thi trên thực tế.

* Sự khác nhau cơ bản giữa buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp
luật common law và civil law
Tiếp cận về quyền yêu cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng khác nhau
theo các hệ thống pháp luật. Từ đó hình thành các khái niệm khác nhau về
buộc thực hiện đúng hợp đồng. Theo Steve W. Schneider: Buộc thực hiện
đúng hợp đồng là một yêu cầu theo đó bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ
của mình theo hợp đồng. Nó được dành riêng cho những trường hợp mà các
biện pháp khắc phục hậu quả khác tỏ ra không phù hợp. Các đối tượng của
hợp đồng phải là duy nhất và không dễ dàng thay thế. Buộc thực hiện đúng
hợp đồng là một biện pháp thường được yêu cầu trong các tranh chấp liên
quan đến việc mua bán bất động sản.9

9

.Http://www.netplaces.com/paralegal/contracts-and-commercial-transactions/remedies-for-failing-toperform-contract-obligations.htm


11
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một lệnh của Tòa án yêu cầu một bên
thực hiện một hành động cụ thể, thường là những gì được ghi trong hợp đồng.
Đây là một sự thay thế cho bồi thường thiệt hại, và được phân loại như là một
biện pháp công bằng, thường được sử dụng trong hình thức lệnh cứu trợ liên
quan đến thơng tin bí mật hoặc bất động sản. Trong khi buộc thực hiện đúng
hợp đồng có thể trong hình thức của hành động bị bắt buộc bất kỳ, nó thường
được sử dụng để hồn thành một giao dịch được xác lập trước. Do đó là
phương thuốc hiệu quả nhất trong việc bảo vệ lợi ích mong đợi của bên ngay
thật đối với hợp đồng.10
Một khái niệm khác phổ biến hơn có thể tìm thấy: “Buộc thực hiện
đúng hợp đồng là một biện pháp khắc phục công bằng bởi lệnh của tịa án,
nhiệm vụ thực hiện chính xác nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ hợp đồng, khi

bồi thường thiệt hại bằng tiền sẽ không phù hợp hoặc không đầy đủ, chẳng
hạn như trong việc bán một bài báo hiếm hoặc một mảnh bất động sản duy nhất.11
Như vậy, các khái niệm này đề cao tính ràng buộc của hợp đồng, không
hạn chế việc áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng so với bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong hệ thống thông luật, việc buộc thi hành
nghĩa vụ trên thực tế luôn được coi là một ngọai lệ. Mà theo như luật gia
người anh- O.W.Holmes đã đề cập trong cuốn: “The common law”, hậu quả
pháp lý duy nhất và bao quát cho mọi trường hợp nghĩa vụ khơng được thực
hiện, đó là luật cần bắt buộc người có nghĩa vụ phải trả tiền bồi thường thiệt
hại. Để Tòa án chấp nhận yêu cầu cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trên thực tế,
điều kiện quan trọng là khi tòa án thấy rằng khỏan tiền bồi thường sẽ “khơng
thích hợp”, vì lợi ích của người có quyền khơng thể xác định ngang giá bằng
tiền, ví dụ: Trong trường hợp mua bán một mảnh đất cụ thể, ở một vị trí cụ
thể, hay việc mua bán đối với một hàng hóa đặc định và được cá biệt hóa
Tóm lại, những khái niệm trên được đưa ra theo quan điểm của các
quốc gia common law và có một điểm chung đó là chỉ được áp dụng khi việc
bồi thường bằng tiền là không phù hợp hoặc không đầy đủ cho bên bị vi
phạm. Trong ví dụ được đưa ra đó là việc một bên ký hợp đồng mua một
chiếc vịng cổ, mà anh ta khơng thể mua được một cái khác tương tự, nếu bên
kia vi phạm hợp đồng khơng bán nữa, thì bên mua có thể u cầu Tòa án ra
lệnh buộc phải thực hiện nghĩa vụ, tức phải bán chiếc vịng đó cho bên mua.13
Theo quan điểm trên, buộc thực hiện đúng hợp đồng thông thường chỉ được
áp dụng cho việc mua bán một vật đặc định, duy nhất, và mua bán bất động
sản, được xem như một biện pháp nhằm thiết lập công bằng cho các bên trong
hợp đồng.
12

10

Http://en.wikipedia.org/wiki/Specific_performance

Http://Law.Yourdictionary.Com/Specific-Performance
12
Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồngtrong luật dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản tư pháp, tr275.
13
Http://law.freeadvice.com/general_practice/legal_remedies/specific_performance.htm
11


12
Khác với quan điểm của các nước common law, Luật pháp của các
quốc gia theo truyền thống Civil law như Đức, Liên bang Nga, Nhật Bản đều
ghi nhận một nguyên tắc chung đó là nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế phải
được con nợ thực hiện mà không được phép tùy tiện thay thế nghĩa vụ bằng
việc trả một khỏan tiền tương đương, việc trả tiền phạt vi phạm hoặc bồi
thường thiệt hại do thực hiện không đúng nghĩa vụ không đương nhiên miễn
trừ việc tiếp tục thi hành nghĩa vụ trên thực tế đối với con nợ, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 14 Như vậy, đối
với các quốc gia theo hệ thống dân luật, hợp đồng có giá trị bắt buộc đối với
các bên, và vì thế nếu một bên khơng thực hiện đúng hợp đồng thì về ngun
tắc, bên kia có quyền yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng. Theo quan điểm này
buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng cho mọi trường hợp vi phạm.15
Theo quan điểm của các nước Civil law, quy định pháp luật Việt Nam
về buộc thực hiện đúng hợp đồng cho phép bên bị vi phạm được quyền yêu
cầu bên vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ và không được từ chối nghĩa
vụ hợp đồng. Quyền yêu cầu này không hạn chế đối với bất kỳ sự vi phạm nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng.
* Phân biệt giữa buộc thực hiện đúng hợp đồng và các chế tài khác.
Mặc dù, việc áp dụng các chế tài thương mại đều mang đến những hậu
quả pháp lý bất lợi cho bên bị vi phạm. Nhưng mỗi chế tài có mục đích, căn
cứ áp dụng, và hậu quả pháp lý khác nhau, do đó có bản chất pháp lý khác

nhau. Chế tài buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng về bản chất khác với chế
tài bồi thường thiệt hại, bởi buộc thực hiện đúng hợp đồng là trường hợp có
sự vi phạm nghĩa vụ của một bên, mà bên này đã cam kết cung cấp một lợi
ích cho bên có quyền thơng qua hợp đồng. Do đó, yêu cầu buộc thực hiện
đúng hợp đồng là yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa
thuận. Khi bên có quyền khơng nhận được lợi ích từ hợp đồng, thì quyền yêu
cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng được đặt ra đối với bên có nghĩa vụ, mà
khơng cần quan tâm đến thiệt hại đã xẩy ra hay chưa, hay xẩy ra ở mức độ
nghiêm trọng như thế nào. Còn bồi thường thiệt hại là chế tài được đặt ra để
bù đắp cho những thiệt hại mà bên có nghĩa vụ đã gây ra cho bên có quyền,
thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu, thiệt hại phải được bồi thường
một cách đầy đủ, kịp thời. Như vậy, rõ ràng có thiệt hại thì mới có bồi
thường, khơng thiệt hại thì khơng bồi thường. Ngịai ra để chế tài này được áp
dụng, thì bên có quyền phải chứng minh rằng: Có hành vi vi phạm của bên có
nghĩa vụ, hành vi vi phạm này đã trực tiếp gây ra những thiệt hại và mối quan
hệ nhân quả của chúng.

14

Nguyễn Ngọc Khánh, sđd, tr270.
Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 50.
15


13
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng về bản chất khác với phạt vi
phạm. Bởi phạt vi phạm là biện pháp yêu cầu bên vi phạm phải trả một khỏan
tiền phạt do có hành vi vi phạm hợp đồng, do đó phạt vi phạm là chế tài được
xác lập để “răn đe” và “phòng ngừa” đối với việc vi phạm hợp đồng của bên

có nghĩa vụ. Bên vi phạm nghĩa vụ nếu không muốn phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi là trả một khỏan tiền nhất định cho bên có quyền thì buộc phải
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ mà mình đã giao kết. Trong nhiều trường
hợp số tiền phạt vi phạm là không nhỏ so với giá trị hợp đồng, do đó LTM
2005 cũng đặt ra giới hạn nhất định là không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị
vi phạm nhằm tránh việc đặt gánh nặng quá lớn đối với bên vi phạm. Với bản
chất như vậy, chế tài này chỉ được áp dụng khi các bên có thỏa thuận trong
hợp đồng. Cịn quyền u cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng là quyền “tất
yếu” được trao cho các bên trong hợp đồng khi hợp đồng phát sinh hiệu lực
pháp lý, mà không cần bất cứ thỏa thuận nào được đặt ra.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng về bản chất cũng khác với tạm ngừng
thực hiện hợp đồng. Trong khi buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài để
buộc bên có nghĩa vụ phải thực thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận, bên có
nghĩa vụ khơng được viện dẫn lý do để từ chối hay dừng việc thực hiện nghĩa
vụ. Thì tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời khơng thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng do bên có nghĩa vụ đã vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc
các bên có thỏa thuận. Tại thời điểm một bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng
thì hợp đồng vẫn cịn hiệu lực nên vẫn ràng buộc các bên, duy chỉ việc thực
hiện hợp đồng bị dừng lại. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng không làm chấm
dứt nghĩa vụ hay làm phát sinh nghĩa vụ mới. Khi tạm ngừng thực hiện hợp
đồng có giá trị pháp lý thì bên tạm ngừng khơng phải thực hiện nghĩa vụ và
không phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện này. Đây là “việc không
thực hiện đúng hợp đồng được pháp luật cho phép”16. Do vậy, đây là điểm
khác biệt so với buộc thực hiện đúng hợp đồng. Khi một bên quyết định tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, thì mục đích chính, một là để tự bảo vệ lợi ích của
mình trong trường hợp bên vi phạm không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, hai là
hướng bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu như muốn nhận được lợi
ích từ phía bên này.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng về bản chất cũng khác với chế tài đình
chỉ và hủy bỏ hợp đồng. Chế tài buộc thực hiện hợp đồng là biện pháp để duy

trì quan hệ hợp đồng, được phát sinh trên cơ sở hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng đối với các bên, đảm bảo cho các bên tôn trọng và thực thi nghiêm túc
nghĩa vụ đã cam kết, giúp các bên đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng.
Ngược lại, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng là các chế tài “nghiêm khắc” nhất, là
các chế tài dẫn đến việc triệt tiêu hợp đồng, chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa
16

Đỗ Văn Đại, sđd, tr 146.


14
các bên, hợp đồng sẽ không được tiếp tục thực hiện, dẫn đến các bên khơng
đạt được những gì mà họ mong đợi. Do vậy, đây là các chế tài cần được hạn
chế áp dụng, nên xem là các chế tài cuối cùng được áp dụng khi các chế tài
khác khơng mang lại kết quả tích cực. Bởi lẽ, hợp đồng được sinh ra khơng
phải để bị đình chỉ hay hủy bỏ mà được sinh ra để đem lại lợi ích cho các bên,
giúp các bên đạt được mục đích khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp việc đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng cũng là cần thiết, khi việc tiếp tục
thực hiện nó khơng cịn ý nghĩa.
1.1.2. Căn cứ phát sinh chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
1.1.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng áp dụng khi hợp đồng hợp pháp
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng khi nào? Chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng chỉ được áp dụng khi hợp đồng (hay sự thỏa
thuận của các bên) hợp pháp, được pháp luật cơng nhận và bảo vệ. Tịa án
khơng thể buộc một bên thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng nếu hợp đồng vi
phạm pháp luật. Ví dụ: Nếu hai bên ký kết một hợp đồng mua bán ma túy, ma
túy là hàng hóa bị pháp luật cấm khơng được mua bán, sử dụng, hợp đồng này
vi phạm pháp luật, không được pháp luật công nhận, bảo vệ. Do vậy, chế tài
buộc thực đúng hợp đồng cũng không đặt ra.
Tại Điều 4 BLDS 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận

trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam
kết, thoả thuận đó khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội. Trong quan hệ dân sự, các bên hồn tồn tự nguyện, khơng bên nào
được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”. Tại Điều 11
LTM 2005 cũng ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt
động thương mại : “Các bên có quyền tự do thoả thuận khơng trái với các quy
định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tơn
trọng và bảo hộ các quyền đó. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe
doạ, ngăn cản bên nào.” Căn cứ vào những quy định trên, các bên tự do ý chí
khi tham gia thỏa thuận và ký kết các hợp đồng thương mại. Nếu một trong
các bên, bị ép buộc, đe dọa hay lừa dối khi tham gia quan hệ hợp đồng thì hợp
đồng khơng có giá trị pháp lý và không ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên.
Do vậy, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên khi có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, nếu hợp đồng được ký kết
giữa các bên không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Và chỉ có hợp đồng hợp
pháp mới có giá trị pháp lý, để ràng buộc quyền, nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng. Do đó, hiệu lực ràng buộc hợp đồng là cơ sở để các bên tôn trọng
và thực thi nghiêm chỉnh thỏa thuận, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng xâm phạm đến lợi ích của bên có quyền, thì bên có quyền có thể
yêu cầu nghĩa vụ phải được thực hiện, và yêu cầu này được pháp luật công


15
nhận và bảo vệ bằng nhiều chế tài, trong đó có chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng, hoặc bồi thường thiệt hại nếu gây ra thiệt hại và các chế tài khác.
Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trên cơ sở hiệu lực
ràng buộc của hợp đồng. Bởi “hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là giá trị pháp
lý của hợp đồng, được pháp luật bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chế

tài thích hợp, nhằm buộc các bên phải tơn trọng, thực hiện đúng hợp đồng.
Một hợp đồng hợp pháp có hiệu lực ràng buộc và có giá trị như luật đối với
các bên”.17 Đứng trước khả năng có thể bị áp dụng những chế tài, là hậu quả
pháp lý bất lợi, buộc các bên phải thực thi nghiêm chỉnh nghĩa vụ, nhằm đáp
ứng lợi ích của chính mình và của bên kia.
Qua phân tích trên, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng chỉ phát sinh
khi hợp đồng hợp pháp, tức được pháp luật công nhận và bảo vệ. Và hiệu lực
ràng buộc của hợp đồng là cơ sở pháp lý buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện
những thỏa thuận đã cam kết. Do đó, nếu một bên khơng thực hiện, thực hiện
khơng đúng, khơng đầy đủ nghĩa vụ, thì chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng luôn được đặt ra đối với bên này.
1.1.2.2. Buộc thực hiện đúng hợp đồng khi có vi phạm hợp đồng
Hợp đồng được thiết lập trên cơ sở mối tương quan về lợi ích, về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên, quyền của bên này là nghĩa vụ tương ứng của bên
kia. Do vậy, lợi ích của một bên chỉ được đáp ứng nếu bên kia thực hiện
nghiêm chỉnh nghĩa vụ tương ứng, nếu một bên vi phạm nghĩa vụ gây thiệt
hại đến lợi ích của bên có quyền, bên có quyền được đặt ra yêu cầu phải thực
hiện đúng hợp đồng đối với bên vi phạm. Như vậy, chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng đặt ra đối với bên có nghĩa vụ khi có sự vi phạm nghĩa vụ của
bên này chiếu theo hợp đồng được ký kết giữa các bên, hay nói cách khác, vi
phạm nghĩa vụ (hay vi phạm hợp đồng) là căn cứ phát sinh chế tài hợp đồng
nói chung, trong đó có chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Thế nào là vi phạm hợp đồng? Khỏan 12 Điều 3 LTM quy định: “Vi
phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy
định của Luật này”. Tại Điều 302 BLDS cũng quy định về trách nhiệm dân sự
do vi phạm nghĩa vụ dân sự : “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền”. Như vậy, vi phạm hợp đồng có thể được phân thành hai lọai đó là
khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp

đồng. Nhưng không phải bất cứ việc không thực hiện hay thực hiện không
đúng nghĩa vụ nào bao giờ cũng là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng. Là một
dạng trách nhiệm pháp lý nói chung nên trách nhiệm hợp đồng chỉ phát sinh
khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
17

Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật
học, tr125.


16
Một hành vi được xem vi phạm nghĩa vụ hợp đồng khi hành vi này
không phù hợp với yêu cầu của pháp luật, của những cam kết, thỏa thuận giữa
hai bên hoặc của tập quán. Tuy nhiên, có những hành vi không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng nhưng không bị coi là hành vi vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng thì khơng làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng (bao
gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng) của người có nghĩa vụ đối với người có
quyền. Ví dụ: Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hòan tòan do lỗi của người có
quyền hoặc do sự kiện bất khả kháng...18
Để đảm bảo được lợi ích của mình, bên có quyền có thể yêu cầu bên có
nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng trong trường hợp không thực hiện, nếu thực
hiện chưa đúng thì phải thực hiện đúng hợp đồng. Ví dụ: Nếu người bán
khơng thực hiện giao hàng khi đã đến hạn thì phải thực hiện việc giao hàng,
nếu người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì buộc phải giao
hàng phù hợp, bằng cách lọai trừ thiếu sót của hàng hóa đã giao hoặc giao
hàng khác thay thế. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng chưa có sự phân biệt
rạch rịi giữa chế định trách nhiệm hợp đồng trong trường hợp không thực
hiện nghĩa vụ hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong trường hợp đối
tượng hợp đồng mua bán là một vật đặc định, bên bán khơng thể thực hiện
nghĩa vụ do vật khơng cịn, ví dụ: Bị mất trộm, bị hủy họai..., hay bên bán

không thực hiện đúng nghĩa vụ như giao vật bị khuyết tật, hư hỏng không thể
sữa chữa, và không được bên có quyền chấp nhận. Trong hai trường hợp này,
hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện, hay quyền yêu cầu thực hiện đúng hợp
đồng cũng được lọai trừ, và trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm
được đặt ra cũng đều tương tự nhau.19
Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có thể được thể hiện dưới dạng
hành động hoặc không hành động. Việc “hành động” bị coi là bất hợp pháp
khi bên có nghĩa vụ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng,
trái với tập quán hay bản chất của nghĩa vụ. Ví dụ: hành động giao vật khơng
đúng số lượng, chất lượng, địa điểm, phương thức... Việc “không hành động”
được thừa nhận là bất hợp pháp khi bên có nghĩa vụ phải làm điều đó nhưng
đã khơng làm. Nghĩa vụ phải “hành động” có thể phát sinh từ thỏa thuận trong
hợp đồng, từ quy định của pháp luật, hoặc từ tập quán hay bản chất của nghĩa
vụ. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán “khơng hành động”
bằng cách không giao hàng khi đến hạn, đối với người mua là khơng trả tiền
khi đến hạn thanh tóan. Khơng giao hàng hay không trả tiền khi đến hạn đều
là hành vi vi phạm hợp đồng. Trong thực tế việc áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng nói riêng hay trách nhiệm hợp đồng nói chung khơng phụ
thuộc vào hành vi vi phạm là hành động hay không hành động. Hành vi vi
phạm là hành động hay không hành động thì rõ ràng đã có sự vi phạm hợp
18
19

Nguyễn Ngọc Khánh, sđd, tr356.
Nguyễn Ngọc Khánh, sđd, tr 389.


17
đồng mà hậu quả là bên có quyền khơng nhận được lợi ích khi giao kết hợp
đồng. Và ngược lại, bên có quyền cũng chỉ cần chứng minh là lợi ích của

mình chưa được đáp ứng do sự vi phạm hợp đồng (hành động hoặc khơng
hành động) của bên có nghĩa vụ thì có quyền địi nghĩa vụ phải được thực
hiện đúng.
Trong thực tiễn xét xử, việc phân biệt hành vi vi phạm là hành động
hoặc không hành động không phải lúc nào cũng có ý nghĩa đối với Tịa án.
Trong phần lớn các trường hợp, khi giải quyết yêu cầu của bên có quyền, Tịa
án thường khơng quan tâm đến việc bên có nghĩa vụ đã thực sự “khơng hành
động” hay đã “hành động” hay chưa mà chỉ quan tâm đến chính sự kiện vi
phạm nghĩa vụ - sự kiện nghĩa vụ hợp đồng đã không được thực hiện hoặc sự
kiện nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện không đúng, khơng đầy đủ. Nói một
cách khác, điều quan trọng đối với Tịa án khơng phải “hành động” hay
“khơng hành động” nào là nguyên nhân gây ra sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
mà là việc liệu nghĩa vụ hợp đồng đó thực sự có bị bên có nghĩa vụ vi phạm
hay khơng mà thơi20. Do đó, theo đề nghị của bên có quyền, nếu có cơ sở để
xác định có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và hậu quả của hành vi này là
bên có quyền khơng nhận được lợi ích mong muốn mà đáng lẽ bên này được
hưởng nếu như bên có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ, và việc tiếp
tục thực hiện vẫn cịn ý nghĩa, thì Tịa án có thể ra phán quyết buộc bên có
nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng như đã cam kết, thỏa thuận.
Vi phạm hợp đồng còn được phân biệt bởi vi phạm cơ bản và vi phạm
không cơ bản. Theo khỏan 3 Điều 13 LTM 2005, “Vi phạm cơ bản là sự vi
phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên
kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.Việc phân biệt giữa
vi phạm cơ bản hay vi phạm khơng cơ bản có ý nghĩa trong việc lựa chọn chế
tài pháp lý thích hợp. Về nguyên tắc, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có
thể được áp dụng đối với cả vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản. Bởi
mục đích là để duy trì quan hệ hợp đồng giữa các bên, bảo đảm lợi ích cho
bên có quyền, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng vẫn có ý nghĩa, và cuối
cùng có thể mang lại cho các bên mục đích mong muốn từ hợp đồng, thì việc
áp dụng chế tài này là điều nên được khuyến khích.

Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng là một hệ quả tất yếu của hiệu
lực ràng buộc thực hiện hợp đồng hợp pháp: Bên có nghĩa vụ cam kết cung
cấp cho bên có quyền một lợi ích và hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng
buộc bên có nghĩa vụ phải cung cấp lợi ích này cho bên có quyền. Do bên có
nghĩa vụ phải cung cấp lợi ích mà bên có quyền mong đợi nên bên có quyền
chỉ cần chứng minh là mình chưa nhận được lợi ích đó, thì chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng được đặt ra đối với bên vi phạm. Do đó, căn cứ phát sinh
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khác với căn cứ phát sinh các chế tài
20

Nguyễn Ngọc Khánh, sđd, tr 358.


18
trong thương mại khác. Khác với căn cứ phát sinh chế tài bồi thường thiệt hại,
bởi chế tài bồi thường thiệt hại được phát sinh khi có các yếu tố sau: Thứ
nhất: Có hành vi vi phạm hợp đồng. Thứ hai: Có thiệt hại thực tế. Thứ ba:
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Và khác
với căn cứ phát sinh chế tài tạm ngừng, đình chỉ, và hủy bỏ hợp đồng. Bởi các
chế tài tạm ngừng, đình chỉ, và hủy bỏ hợp đồng đòi hỏi ở mức độ vi phạm
nghiêm trọng, hành vi vi phạm nghĩa vụ hoặc phải cấu thành vi phạm cơ bản,
hoặc phải được thỏa thuận giữa các bên. Và cũng khác với căn cứ phát sinh
chế tài phạt vi phạm, bởi chế tài phạt vi phạm chỉ được phát sinh khi các bên
có thỏa thuận.
Như vậy, cũng giống các chế tài thương mại khác, chế tài buộc thực
hiên đúng hợp đồng chỉ được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên,
khác với căn cứ phát sinh các chế tài khác, bên có quyền chỉ cần chứng minh
bên có nghĩa vụ đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, và hậu quả là bên này chưa
nhận được lợi ích mà bên có nghĩa vụ đã cam kết cung cấp theo hợp đồng.
Bên có quyền khơng cần phải chứng minh có thiệt hại xẩy ra hay chưa, thiệt

hại bao nhiêu, mức độ nghiêm trọng của vi phạm như thế nào. Điều này cũng
giải thích lợi ích và ưu thế của lựa chọn chế tài này trong giải quyết tranh
chấp thương mại.
1.1.3. Nội dung chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định trong pháp luật
hợp đồng Việt Nam cũng theo hướng các quốc gia dân luật và các văn bản
pháp lý quốc tế như Công ước viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980
(CISG) (Điều 46, 62), Bộ nguyên tắc Unidroit (UPICC) (Điều 7.2.1 và 7.2.2),
Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng (PECL) (Điều 9.101 và 9.102), theo đó
bên vi phạm khơng thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên bị vi phạm
có quyền yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, và hệ quả của hiệu lực ràng buộc
hợp đồng hợp pháp buộc bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ,
để đảm bảo cung cấp cho bên bị vi phạm lợi ích mà họ có quyền mong đợi từ
hợp đồng. Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng không chỉ đảm bảo cho
mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng được thực hiện, mà còn ràng buộc
các bên nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện hợp đồng với tinh thần hợp tác, thiện
chí và trung thực, đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật thương mại quốc tế.
* Nội dung chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại
Luật thương mại 2005 quy định nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đối với cả
bên mua và bên bán, theo đó các bên phải tôn trọng và thực thi đúng thỏa thuận,
không được viện dẫn những lý do không xác đáng để từ chối thực hiện nghĩa vụ.
Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ, bên có quyền có thể u cầu Tịa án áp dụng chế


19
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ, và
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về tài sản.
- Đối với bên bán:
Điều 297 LTM 2005 quy định nghĩa vụ giao hàng, cung cấp dịch vụ theo

đúng hợp đồng của bên bán: Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng, hoặc
cung ứng dịch vụ khơng đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng
dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao
hàng hố, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của
hàng hố, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch
vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác
chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của
bên bị vi phạm.
Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện việc loại trừ khuyết tật
của hàng hố, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế thì bên bị vi
phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế
theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả
khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có. Đồng thời, Luật cũng
trao cho bên bị vi phạm được quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hố,
thiếu sót của dịch vụ và u cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp
lý. Quyền này tạo điều kiện cho bên bị vi phạm có thể đảm bảo được việc
thực hiện nghĩa vụ, đạt được mục đích hợp đồng thơng qua người thứ ba,
hoặc bằng sự tự khắc phục của chính mình.
- Đối với bên mua, khi bên bán đã giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ
đúng theo hợp đồng, thì có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc
thực hiện các nghĩa vụ khác một cách kịp thời. Nếu bên mua chậm thực hiện
nghĩa vụ thanh tóan, thì bên bán được quyền yêu cầu trả lãi trên số tiền chậm
trả. Nếu vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho bên bán thì phải bồi thường.
Thực hiện đúng hợp đồng là nghĩa vụ của các bên, khi nghĩa vụ không
được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thì bên bị vi phạm
có quyền u cầu nghĩa vụ phải được thực hiện. Do đó, chế tài này có vai trò
quan trọng điều chỉnh thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết phát sinh trên cơ sở
hợp đồng được ký kết hợp pháp giữa các bên.
Ví dụ sau đây cho thấy, Trọng tài đã áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng để buộc bên vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ, nhằm đảm bảo

lợi ích hợp pháp của bên có quyền.
Tóm tắt vụ việc: Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng ngày
29/06/1994, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn giấy gói kẹo có in nhãn và
tên cụ thể theo điều kiện CIF Hải phòng: giao hàng từng đợt, thời gian giao
hàng là 20 ngày sau khi mở L/C. Thực hiện hợp đồng, ngày 11/02/1995
Nguyên đơn fax cho Bị đơn là đã sản xuất xong lô hàng trị giá 77.705USD và
yêu cầu Bị đơn mở L/C để giao hàng tiếp. Ngày 17/05/1995, Bị đơn telex


20
đồng ý nhận lơ hàng đó làm hai lần: Lần đầu vào giữa tháng 6/1995, cịn lần
hai thì sau lần đầu. Nhưng ngày 19/06/1995, Bị đơn lại điện cho Nguyên đơn
từ chối nhận lô hàng nêu trên với lý do là kẹo không bán được trên thị trường
Hà Nội, số lượng kẹo đã sản xuất của Bị đơn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo
ngừng hoạt động nên không thể nhập khẩu giấy gói kẹo nữa. Do đó, Nguyên
đơn khởi kiện đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại gồm: 83.185 USD trị giá lô
hàng đã được sản xuất xong chờ để giao nhưng bị từ chối nhận.
Trọng tài phán quyết về việc từ chối nhận hàng của Bị đơn: Có thể kết
luận là giữa các bên đã có thoả thuận mua lơ hàng thứ ba. Từ đó, Bị đơn phải
có nghĩa vụ mở L/C và nhận lô hàng này. Việc Bị đơn từ chối nhận lô hàng
đợt ba bằng telex ngày 19/06/1995 là vi phạm thoả thuận mua bán đợt ba giữa
hai bên. Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh cho
Nguyên đơn.
Về số tiền thiệt hại 83.185 USD là giá trị lô hàng bị từ chối nhận,
Nguyên đơn đòi do vi phạm nghĩa vụ nhận hàng: vì giấy gói kẹo được sản
xuất ra đã mang nhãn, tên cụ thể nên Nguyên đơn không thể bán cho ai khác,
bởi khơng ai có thể sử dụng được, trừ Bị đơn. Vì thế, Ngun đơn có quyền
địi Bị đơn trả tiền tồn bộ trị giá lơ hàng, đồng thời buộc Nguyên đơn phải
giao lô hàng ứng với 77.705 USD theo điều kiện CIF Hải Phòng cho Bị đơn.
trừ khi Bị đơn không muốn nhận lô hàng này nữa.21

Trong tình huống này, bị đơn tức bên mua đã vi phạm nghĩa vụ nhận
hàng và thanh tóan cho nguyên đơn-bên bán. Việc không thực hiện đúng
nghĩa vụ hợp đồng của người mua đã vi phạm thỏa thuận giữa hai bên, gây
thiệt hại cho bên bán. Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của bên bán, khắc phục vi
phạm của bên mua, trọng tài đã ra phán quyết buộc bên mua phải thực hiện
nghĩa vụ nhận hàng và thanh tóan tiền hàng, buộc bên bán phải giao hàng cho
bên mua, trừ trường hợp bên mua không cần nữa. Như vậy, Trọng tài đã hịan
tịan chính xác khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bởi thỏa
thuận trong hợp đồng của hai bên là hợp pháp, do vậy ràng buộc trách nhiệm
của hai bên, nếu một bên vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền u
cầu phải khắc phục vi phạm, tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng. Từ
phán quyết của trọng tài, có thể thấy ý nghĩa của việc áp dụng chế tài này,
nhằm đảm bảo cho hợp đồng (sự thỏa thuận) giữa các bên được tôn trọng và
nghiêm chỉnh thực hiện, khắc phục vi phạm hợp đồng, và bảo vệ lợi ích hợp pháp
của bên bị vi phạm.
* Nội dung chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật dân sự
- Nguyên tắc chung đối với buộc thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng:
Trong pháp luật dân sự Việt Nam, buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng
được ghi nhận. Nguyên tắc chung nhất có thể tìm thấy ở khỏan 2 Điều 9 Bộ
21

Http://www.viac.org.vn/vi-VN/Home/anpham44.aspx
(Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (2002), 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Phán quyết số 17).


×