Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

NGUYỄN THÀNH NHÂN

THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Hành chính – Nhà nước
Niên khóa: 2013 - 2017

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

NGUYỄN THÀNH NHÂN

THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Hành chính – Nhà nước
Niên khóa: 2013 - 2017



Người hướng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Hoàng Yến
Người thực hiện: Nguyễn Thành Nhân
MSSV: 1353801015189
Lớp: CLC38D

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Nguyễn Thành Nhân, sinh viên lớp chất lượng cao 38D, được sự
cho phép của Ban điều hành các chương trình đào tạo đặc biệt, lãnh đạo khoa Luật
Hành chính – Nhà nước, em được vinh dự thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp
“Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính”. Em xin cam
đoan với Nhà trường đây là cơng trình khoa học do em trực tiếp thực hiện dưới sự
hướng dẫn của giảng viên. Mọi vi phạm nếu bị phát hiện em xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Người cam đoan
(ký tên)

Nguyễn Thành Nhân


LỜI CẢM ƠN
Đối với bản thân tác giả, trong khoảng thời gian 4 năm học tập tại trường đại
học Luật TPHCM, tác giả cảm thấy rất may mắn khi đã nhận được từ các thầy, cô
những vốn kiến thức quý báu, những sự quan tâm ân cần, chu đáo. Trong cả quá
trình phấn đấu, nỗ lực của bản thân tại đây, tác giả vinh dự khi được nhà trường cho
phép thực hiện khóa luận tốt nghiệp “thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm

trong tố tụng hành chính”. Để thực hiện tốt khóa luận này, tác giả nhận được rất
nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các thầy, cô và các bạn.
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cơ Nguyễn
Hồng Yến – Thạc sĩ Luật học, giảng viên khoa Luật Hành chính – Nhà nước. Để
có được khóa luận tốt nghiệp hồn chỉnh như hôm nay, cô Yến đã hỗ trợ, giúp đỡ
tác giả rất nhiều từ tài liệu tham khảo, hướng đi cho từng phần cụ thể, cách thức
triển khai sao cho đúng với phạm vi đề tài đã đặt ra cho đến các bản án, quyết định,
báo cáo thống kê thực tiễn của Tịa án. Bên cạnh đó, những sự động viên, khích lệ
kịp thời của cơ vào những lúc tác giả gặp khó khăn dồn dập khi thực hiện khóa luận
là nguồn động lực vơ giá dìu dắt tác giả bước qua những giai đoạn vất vả đó.
Tiếp theo, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến một người thầy, người đã
trực tiếp giảng dạy và truyền cho tác giả niềm đam mê nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi
mơn Luật tố tụng hành chính. Cảm ơn thầy đã tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ tác giả khi tác
giả còn chưa biết sẽ phải lựa chọn đề tài nào để tiến hành thực hiện. Khơng có sự
dìu dắt ban đầu của thầy, tác giả sẽ khơng có sự chuẩn bị tốt về đề tài nghiên cứu,
về thời gian thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tác giả gửi lời cảm ơn đến gia đình của mình, những người đã
ln ủng hộ tác giả trên từng bước đường tác giả đã đi qua. Tác giả cũng chân thành
cảm ơn những người bạn, người em như bạn Ngọc Tuấn, Cường, Được, Thanh Thư,
em Ngọc Sơn, Thủy Tiên… đã hỗ trợ tác giả rất nhiều về vật chất và quan trọng
nhất là tinh thần trong suốt thời gian tác giả học tập tại trường, thực hiện khóa luận.


Danh mục từ viết tắt.
Luật tố tụng hành chính: Luật TTHC
Bộ Luật dân sự: BLDS
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước: Luật TNBTCNN
Vụ án hành chính: VAHC
Quyết định hành chính: QĐHC
Hành vi hành chính: HVHC

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc: QĐKLBTV
Hội đồng xét xử: HĐXX


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH ............... 1
1.1. Khái niệm thẩm quyền và thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hành chính ..........................................................................................1
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền .........................................................................1
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm ...............................4
1.2. Đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính..................................................................................................................7
1.3. Ý nghĩa thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính15
1.4. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam ................................................17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ
HỒN THIỆN ........................................................................................................................... 33
2.1. Thực trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính................................................................................................................33
2.1.1. Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm ...........33
2.1.2. Bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng xét
xử sơ thẩm .................................................................................................................38
2.2. Kiến nghị hoàn thiện về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hành chính ........................................................................................48
2.2.1. Kiến nghị về pháp luật............................................................................48
2.2.2. Một số kiến nghị khác .............................................................................55
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 59



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hành chính, HĐXX sơ thẩm có vị trí vơ cùng quan trọng. Phán
quyết của HĐXX sơ thẩm có giá trị ràng buộc đối với các bên có liên quan. Về quy
định của pháp luật thực định, có thể dễ dàng nhận thấy thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm là quyền quyết định của chủ thể này khi tiến hành giải quyết VAHC trên thực
tế. Khi tiến hành xét xử một VAHC, HĐXX sơ thẩm sẽ có các quyền bác yêu cầu
khởi kiện nếu xét thấy yêu cầu của người khởi kiện là khơng có căn cứ; chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện để tuyên hủy QĐHC trái pháp luật, quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc và các quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan, tuyên bố HVHC
là trái pháp luật. Việc HĐXX sơ thẩm có các phán quyết về các quyết định, hành vi
trong lĩnh vực hành chính là một phương thức để Tòa án thực hiện quyền can thiệp
vào hoạt động quản lí nhà nước do pháp luật đã quy định rất chặt chẽ. Chính vì vậy,
có thể nói chế định thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính đóng
một vai trị rất quan trọng, là trung tâm của việc giải quyết VAHC tại Tòa án.
Trong thời gian gần đây, với những sự đổi mới không ngừng, Luật TTHC
2015 đã có những điểm tiến bộ hơn so với Luật TTHC 2010 trong quy định về thẩm
quyền của HĐXX sơ thẩm. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, Luật TTHC 2015
vẫn còn chứa đựng những hạn chế chưa khắc phục được do có sự kế thừa những
quy định còn bất cập về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong Luật TTHC 2010.
Một vài hạn chế có thể kể ra đó là việc HĐXX sơ thẩm vẫn chưa vận dụng đúng
quy định của pháp luật về thẩm quyền dẫn đến tuyên án trái thẩm quyền, vượt quá
thẩm quyền, vượt quá yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, chưa có căn cứ để
buộc chủ thể có thẩm quyền phải bồi thường thiệt hại do QĐKLBTV, danh sách cử
tri gây ra…dẫn đến thực tế là quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, người có
quyền, lợi ích liên quan không được bảo vệ. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại này
cần phải được khắc phục triệt để và bên cạnh đó những quy định mới cũng cần được
hướng dẫn chi tiết.

Từ thực trạng trên, tác giả rất mong muốn nghiên cứu sâu, toàn diện và đầy đủ
hơn về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm để có thể có cái nhìn tổng quan, đồng thời
đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính. Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của Hội đồng xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn nghiên cứu, có thể nói giai đoạn sơ thẩm VAHC là một lĩnh
vực rất được các tác giả, nhà nghiên cứu, sinh viên quan tâm và tìm tịi nghiên cứu.
Số lượng các bài viết khoa học, khóa luận nghiên cứu về vấn đề thẩm quyền của
HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính là khá nhiều và có thể nêu lên ở đây
những tác giả tiêu biểu như: Khóa luận tốt nghiệp “Phiên Tòa xét xử sơ thẩm
VAHC” của tác giả Lê Thụy Anh Thư năm 2015, khóa luận tốt nghiệp “Xét xử sơ
thẩm VAHC” của tác giả Trương Thị Thương năm 2013, khóa luận tốt nghiệp
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân trong tố tụng hành chính Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thuận năm 2015; khóa luận tốt nghiệp “Phiên Tịa
sơ thẩm VAHC” của tác giả Dũng Thị Mỹ Thẩm năm 2016. Bên cạnh đó, có các bài
viết pháp lý như: Bài viết “Quyền hạn của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Văn Quang đăng trên tạp chí Luật học số
06 năm 2000; bài viết “Về phạm vi thẩm quyền của HĐXX khi xét xử sơ thẩm
VAHC” của tác giả Phạm Tiến Niệm đăng trên tạp chí Kiểm sát số 16 năm 2013 và
nhiều bài viết tiêu biểu khác.
Tuy đã có sự đề cập cũng như phân tích đánh giá quy định về thẩm quyền của
HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính nhưng các cơng trình nghiên cứu khoa học
trên vì những lý do khách quan, chủ quan khác nhau mà vẫn còn sự hạn chế trong
việc đánh giá, phân tích chuyên sâu về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong tố
tụng hành chính. Hiện nay, vẫn chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về thẩm
quyền của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thẩm
quyền của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính, phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật về thẩm quyền và nêu lên thực trạng của việc thực hiện các thẩm
quyền đó. Trên cơ sở các phân tích, đánh giá chun sâu đó, đề tài chỉ ra những bất
cập, hạn chế, những vấn đề còn tồn đọng và đề xuất các kiến nghị, giải pháp khắc
phục bất cập, hạn chế hướng đến mục tiêu hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao
hiệu quả giải quyết VAHC.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài hướng đến việc nghiên cứu các vấn đề xoay
quanh thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm thông qua việc giải quyết những nội dung lý
luận về thẩm quyền, phân tích đánh giá các quy định của pháp luật về thẩm quyền,
đánh giá thực trạng thực hiện thẩm quyền và đưa ra các kiến nghị về thẩm quyền
của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính.


Về phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ đi sâu và tập trung nghiên cứu về cơ sở lý
luận cùng các quy định pháp luật cũng như thực trạng về thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm. Đồng thời, đề tài còn tiến hành vừa việc phân tích các quy định của pháp luật
TTHC 2015 vừa có sự so sánh các quy định về thẩm quyền của Luật TTHC 2015
với quy định của Luật TTHC 2010. Để từ đó có được cái nhìn chung nhất về
nguyên nhân của các bất cập, hạn chế còn tồn tại và đưa ra các kiến nghị hồn thiện
ở cả góc độ lý luận, thực tiễn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng trong triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền, cải
cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Luận văn vận dụng các phương pháp
phân tích đánh giá tổng hợp, phương pháp logic, so sánh để thực hiện việc nghiên
cứu.
6. Kết cấu của đề tài

Luận văn gồm các phần:
Phần mở đầu.
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hành chính.
Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hành chính và kiến nghị hồn thiện.
Kết luận đề tài.


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền và thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hành chính
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền
Thẩm quyền là một thuật ngữ pháp lý rất quen thuộc và có khái niệm rất rộng.
Thuật ngữ này được coi là một “khái niệm rất quan trọng và là trung tâm của khoa
học pháp lý”. Có thể nói, khơng có thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp
luật như thuật ngữ “thẩm quyền”1. Tùy vào từng lĩnh vực cụ thể, thẩm quyền sẽ có
các cách thể hiện nội dung khác nhau. Chính vì có phạm vi thể hiện rộng lớn như
vậy mà thuật ngữ này khơng có một khái niệm cụ thể, chi tiết. Trong khoa học pháp
lý, thẩm quyền được đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo từ điển Hán Việt, thẩm quyền nghĩa là “được quyền xét đoán, định đoạt
một việc gì đó”2. Từ điển tiếng Việt thì lại cho rằng, thẩm quyền có nghĩa là “quyền
xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”3. Những khái niệm này
chỉ mang tính chất là những định nghĩa khoa học thể hiện một cách khái quát thuật
ngữ thẩm quyền ở khía cạnh chung.
Về mặt học thuật trong lĩnh vực khoa học pháp lý, Từ điển Luật học cho rằng,
thẩm quyền có nghĩa là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của
các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định”4.

Trong khi đó, theo Từ điển pháp luật, thuật ngữ thẩm quyền được hiểu là “khả năng
của Tòa án xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép”. Khái niệm
thẩm quyền bao gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định.
Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn quyền quyết
định là quyền hạn giải quyết cơng việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép5.
Từ điển “Black’s Law Dictionary”, thì cho rằng thuật ngữ “Authority” hoặc
“Competence” là hai từ thể hiện thuật ngữ thẩm quyền trong tiếng Anh, có nghĩa là
khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan công quyền (thường là cơ quan hành chính)
xem xét và giải quyết việc gì theo pháp luật. Ngoài ra, trong tiếng Anh, thuật ngữ
1

Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
(số 8), tr.40.
2
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 40.
3
Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, tr.922.
4
Nguyễn Hữu Quỳnh (chủ nhiệm công trình) (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội,
tr.459.
5
Nguyễn Văn Huyên (2003), Luận án tiến sĩ “thẩm quyền của tòa án nhân dân trong tố tụng hành sự việt
nam”, Đại học Luật Hà Nội, tr.12.

1


“Jurisdiction” cũng có nghĩa thẩm quyền hoặc phán quyền tức là quyền lắng nghe
và phán quyết vụ kiện hay đưa ra án lệnh nào đó của tịa án hoặc vùng lãnh thổ mà

trong phạm vi đó thẩm quyền của Tịa án được thi hành. Trong thuật ngữ pháp lý
của mình, người Pháp sử dụng từ “Competence” để diễn đạt ý nói về thẩm quyền.
Theo đó, thẩm quyền có nghĩa là quyền của cơ quan nhà nước, hành chính hay tư
pháp, quan chức hành chính hay tư pháp được làm một số việc, được quyết định và
ra một số văn bản về một số vấn đề trong phạm vi được pháp luật cho phép6. Bên
cạnh đó, Từ điển tiếng Nhật sử dụng thuật ngữ “kengen” để chỉ thẩm quyền, trong
đó “ken” là quyền để xem xét và giải quyết vụ việc, “gen” là sự giới hạn, có nghĩa
là sự giới hạn quyền lực được trao để xem xét, giải quyết một vụ việc nào đó theo
quy định của pháp luật7
Theo quan điểm của các giáo trình, tập bài giảng, giáo trình luật TTHC Việt
Nam của trường Đại học luật Hà Nội cho rằng “thẩm quyền là khả năng của chủ
thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt công việc nào đó trên cơ sở các
chuẩn mực pháp luật đã định trước. Nói một cách khái quát, thẩm quyền là quyền
hạn pháp luật quy định cho cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà
nước nhất định”8. Khái niệm thẩm quyền được định nghĩa trong tập bài giảng Tố
tụng hành chính Việt Nam cịn có nghĩa là “quyền hạn, nhiệm vụ của một cơ quan,
cá nhân trong phạm vi pháp luật cho phép, nhân danh quyền lực nhà nước”9.
Như vậy, từ những định nghĩa khoa học nêu trên về khái niệm thẩm quyền, có
thể nhận thấy dù diễn đạt khái niệm này với nội dung gì thì tất cả các khái niệm trên
đều đề cập đến một điểm chung, thẩm quyền là quyền được làm một việc cụ thể.
Tuy nhiên, thẩm quyền khơng thể hồn tồn đồng nhất với quyền mà phải gắn liền
với cả quyền lẫn nghĩa vụ.
Thẩm quyền của mỗi cơ quan, cá nhân khi được pháp luật trao cho đều được
phân định theo lĩnh vực hoạt động, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Nói
đến các yếu tố lĩnh vực hoạt động, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính là
cũng đã có trong đó yếu tố nghĩa vụ của các cơ quan, cá nhân phải thực hiện thẩm
quyền theo yêu cầu nhiệm vụ, công vụ được giao cũng như khi thực hiện khơng

6


Nguyễn Thanh Bình (2001), “Khái niệm thẩm quyền của Tịa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu
kiện hành chính của cơng dân”, tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội (số 4), tr.3
7
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam,
Nxb Cơng an nhân dân, Đại học Luật Hà Nội, tr.86.
8
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Đại học Luật Hà Nội, tr.86-87.
9
Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 59.

2


đúng hoặc khơng thực hiện thẩm quyền được giao thì vấn đề trách nhiệm sẽ được
đặt ra.
Với xuất phát điểm đã là một khái niệm rất rộng và khó có thể được định
nghĩa một cách đầy đủ, chi tiết. Khái niệm thẩm quyền trong nghiên cứu khoa học
luôn tồn tại rất nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Để minh chứng, xin trích dẫn
một vài quan điểm về thẩm quyền được nêu ra trong bài viết khoa học của tác giả
Nguyễn Cửu Việt10:
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng, thẩm quyền bao hàm các quyền hạn và các
nhiệm vụ. Như vậy, quan điểm này cho rằng, nhiệm vụ của cơ quan là một yếu tố
thuộc thẩm quyền cơ quan.
Tuy nhiên, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, quyền hạn theo Từ điển
pháp luật là quyền được xác định lại trong phạm vi không gian, thời gian, lĩnh vực
hoạt động. Mặt khác, “nhiệm vụ là đích cần đạt”, “là cái mà cơ quan phải thực
hiện được, là mục đích cụ thể cần đi đến khi thực hiện thẩm quyền của nó chứ
khơng phải là yếu tố của thẩm quyền”. Chúng tuy khác nhau như đã đề cập nhưng

lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau thể hiện qua chi tiết thẩm quyền là phương tiện
để thực hiện nhiệm vụ. Ở chiều ngược lại, nhiệm vụ là tiền đề của thẩm quyền vì ở
một khía cạnh nào đó, nhiệm vụ thể hiện hướng tác động của thẩm quyền. Thẩm
quyền được trao cho cơ quan phải phù hợp với nhiệm vụ của cơ quan này để có thể
vận dụng được trên thực tế.
Thứ hai, một quan điểm khác cho rằng “chức năng quản lý” được trao cho cơ
quan là yếu tố của thẩm quyền. Thẩm quyền bao hàm: các chức năng, các quyền và
nghĩa vụ hay là quyền hạn. Khi bình luận về quan điểm này, tác giả này cho rằng,
chức năng quản lý không phải là yếu tố của thẩm quyền mà các quyền và nghĩa vụ
thực hiện các chức năng mới là yếu tố của thẩm quyền. Qua đó, cho thấy chức năng
quản lý và thẩm quyền cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thứ ba, tồn tại quan điểm coi thẩm quyền là tổng thể tất cả các quyền, nghĩa
vụ (quyền hạn) và trách nhiệm. Nhận xét về quan điểm, ý kiến của tác giả này cho
rằng, trách nhiệm không phải là yếu tố của thẩm quyền mà là hậu quả của việc
không thực hiện đúng thẩm quyền. Trách nhiệm luôn phải được quy định tương
xứng với thẩm quyền. Thẩm quyền càng lớn thì trách nhiệm càng cao nếu khơng sẽ
dẫn đến tình trạng lạm quyền, vô trách nhiệm.
Thứ tư, một quan điểm khác cho rằng, thẩm quyền bao hàm “các vấn đề thuộc
phạm vi quản lý của cơ quan” với khối lượng tương ứng các quyền và nghĩa vụ cần
10

Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: Về khái niệm thẩm quyền”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Văn phòng Quốc hội, (số 8), tr.42 – 45.

3


thiết để giải quyết các vấn đề đó. Nêu ý kiến về quan điểm này, tác giả bài viết đánh
giá “các vấn đề/ các công việc cụ thể thuộc phạm vi giải quyết của cơ quan” không
là yếu tố cấu thành của thẩm quyền, mà quyền giải quyết hay thậm chí chỉ là quyền

tham gia giải quyết các vấn đề/ các cơng việc cụ thể đó mới là yếu tố của thẩm
quyền. Pháp luật khi quy định về “các vấn đề”/“các cơng việc cụ thể” thì thực chất
đã trao quyền giải quyết các vấn đề, cơng việc cụ thể đó cho các cơ quan.
Về phần mình, tác giả của bài viết trên đã từng đưa ra khái niệm về thẩm
quyền, “Thẩm quyền là một khái niệm tập hợp, là tổng hợp những quyền và nghĩa
vụ chung để thực hiện những chức năng nhất định và quyền hạn cụ thể để thực hiện
những quyền và nghĩa vụ chung đó”11. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Văn Huyên
cũng đưa ra quan điểm: “Thẩm quyền là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật
quy định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước được thực hiện
công việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định”12.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Thẩm quyền là tất cả các quyền mà
pháp luật đã quy định và trao cho một chủ thể xác định để chủ thể này trong phạm
vi các quyền được trao đó sẽ thực hiện các cơng việc của mình trong các lĩnh vực
và phạm vi nhất định”.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
Trong tố tụng hành chính, HĐXX sơ thẩm có vị trí vơ cùng quan trọng. Phán
quyết của HĐXX sơ thẩm có giá trị ràng buộc đối với các bên có liên quan. Về quy
định của pháp luật thực định, có thể dễ dàng nhận thấy thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm là quyền quyết định của chủ thể này khi tiến hành giải quyết VAHC trên thực
tế.
Khi tiến hành xét xử một VAHC, HĐXX sơ thẩm sẽ có các quyền bác yêu cầu
khởi kiện nếu xét thấy yêu cầu của người khởi kiện là khơng có căn cứ; chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện để tuyên hủy QĐHC trái pháp luật, quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc và các quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan, tuyên bố HVHC
là trái pháp luật. Việc HĐXX sơ thẩm có các phán quyết về các quyết định, hành vi
trong lĩnh vực hành chính là một phương thức để Tịa án thực hiện quyền can thiệp
vào hoạt động quản lí nhà nước do pháp luật đã quy định rất chặt chẽ.

11


Nguyễn Cửu Việt, Tập bài giảng những vấn đề cơ bản về khoa học lý luận quản lý nhà nước, tr. 24. (Trích
từ khóa luận tốt nghiệp năm 2015, “thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Tịa án nhân dân”
của tác giả Lê Thị Thảo, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).
12
Nguyễn Văn Huyên (2003), Luận án Tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội, tr.12.

4


Thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm xuất phát từ thẩm quyền của Tịa án trong tố
tụng hành chính hay nói rõ hơn là thẩm quyền quyết định khi giải quyết VAHC của
Tòa án. Để làm rõ khái niệm thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm, trước hết tác giả sẽ đi
sâu làm rõ khái niệm thẩm quyền của Tòa án.
Để thực hiện chức năng là cơ quan xét xử duy nhất, thẩm quyền của Tòa án
phải bao gồm hai nội dung là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc trong phạm vi
pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc.
Hai nội dung vừa nêu có mối quan hệ mật thiết, tương ứng với từng nội dung là các
quyền của Tòa án: “Quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền ra các quyết
định giải quyết vụ án hành chính”13. Đồng thuận với quan điểm trên, thẩm quyền
của Tòa án được định nghĩa là “một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan
chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm
quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của Tòa
án (Thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở
quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề đã được xem
xét”14. Thể hiện một nghĩa chung khái quát hơn, từ sự định nghĩa của Từ điển tiếng
Việt về khái niệm thẩm quyền có thể hiểu cụ thể thẩm quyền của Tòa án là “quyền”
của Tòa án trong việc “xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp
luật”15.

Trong khoa học pháp lý, để xác định được thẩm quyền xét xử của Tòa án, chủ
thể có thẩm quyền sẽ dựa vào các căn cứ như loại vụ việc, lãnh thổ và cấp Tòa để
cho ra kết quả xác định được một vụ án hành chính xảy ra sẽ thuộc thẩm quyền của
Tòa án nào. Tuy nhiên, nếu chỉ có việc xác định thẩm quyền xét xử thuộc Tòa án
nào mà thiếu đi những nội dung thuộc về thẩm quyền quyền quyết định thì việc Tịa
án xem xét giải quyết VAHC sẽ khơng có bất kỳ ý nghĩa gì đồng thời cũng như
khơng thể bảo vệ được quyền, lợi ích bị xâm phạm của người khởi kiện, người có
quyền, lợi ích liên quan. Chính vì vậy, cùng với việc trao quyền xét xử, pháp luật
cũng đồng thời trao ln quyền quyết định cho Tịa án để tòa án sử dụng ra các
phán quyết giải quyết VAHC. Thẩm quyền quyết định của Tòa án là quyền được
pháp luật trao cho để Tịa án căn cứ vào đó, thực hiện việc ra các phán quyết đối với
những vấn đề cụ thể về nội dung vụ án nhằm đảm bảo cho việc giải quyết có hiệu
quả VAHC.
13

Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 59 – 60.
14
Nguyễn Đức Mai (1993), “Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Tịa án
nhân dân tối cao, (số 8), tr.2.
15
Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học NXB Đà Nẵng, tr.922.

5


Như vậy, có thể suy ra khi đề cập đến thẩm quyền của Tòa án là đề cập đến
vừa quyền xét xử đối với từng vụ án cụ thể trong phạm vi luật định gọi là (thẩm
quyền xét xử) vừa là quyền ra các quyết định khi xét xử vụ án (gọi là thẩm quyền
quyết định hay quyền hạn của Tòa án). Một tác giả đã cho rằng: “Thẩm quyền của

Tòa án là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án được xét xử những
vụ án cụ thể và quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho
việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định”16.
Có thể rút ra nhận xét thẩm quyền của Tòa án là tổng thể tất cả các quyền và
nghĩa vụ cũng như quyền hạn được pháp luật trao cho Tòa án mà dựa vào đó, Tịa
án xác định phạm vi cụ thể để tiến hành xem xét tính hợp pháp của các đối tượng
khiếu kiện, ra phán quyết cuối cùng về các đối tượng khởi kiện đó nhằm giải quyết
VAHC bảo vệ quyền, lợi ích bị xâm phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là
một nội dung thuộc thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết VAHC.
Việc xác định thẩm quyền của Tịa án có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm. Giữa thẩm quyền của Tòa án và thẩm quyền
của HĐXX sơ thẩm có mối quan hệ mật thiết, liên quan đến nhau. Khi phát sinh
VAHC giữa cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước với
người khởi kiện, Tịa án được xác định là chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp giữa các bên. Thẩm quyền của Tòa án được pháp luật quy định trên cơ sở vai
trò và chức năng của Tòa án và được xác định ở hai phương diện sau đây: Một là,
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng. Hai là, thẩm quyền quyết định khi giải
quyết vụ án cụ thể.
Khi đề cập đến việc giải quyết tranh chấp trong VAHC, thẩm quyền của Tịa
án được vận dụng thơng qua việc Tòa án đưa ra các phán quyết cụ thể thể hiện nội
dung giải quyết yêu cầu của người khởi kiện qua đó giải quyết triệt để VAHC. Tịa
án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính nhưng Tịa án khơng tự mình
trực tiếp thực hiện mà thơng qua hoạt động của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành
chính. Chính vì lý do đó, xác định được thẩm quyền của Tòa án là cơ sở để xác định
thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm.
Như vậy, từ sự phân tích khái niệm thẩm quyền của Tịa án, có thể kết luận
thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là “tổng thể tất cả các quyền hạn mà pháp luật tố
tụng hành chính đã trao cho HĐXX sơ thẩm được quyền quyết định giải quyết
VAHC nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, trên cơ
sở đã xem xét tính hợp pháp của các đối tượng khiếu kiện”.

16

Nguyễn Văn Huyên (2003), Luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội, tr.22.

6


1.2. Đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính
Thứ nhất, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là quyền hạn của HĐXX đƣợc
quyền quyết định về việc giải quyết vụ án.
Khi giải quyết VAHC trên thực tế, HĐXX sơ thẩm được quyền quyết định giải
quyết vụ án. Quyết định giải quyết VAHC là việc HĐXX sơ thẩm quyết định về các
vấn đề như: Quyết định tính hợp pháp và tính có căn cứ trong yêu cầu của người
khởi kiện; quyết định về tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện, buộc các chủ
thể có thẩm quyền phải thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ theo quy định của pháp luật;
kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ quan xem xét
trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước;
kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính, văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan đến các đối tượng khởi kiện.
Một là, quyết định tính hợp pháp và tính có căn cứ trong u cầu của người
khởi kiện
Trong hoạt động quản lý nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền quản lý thơng
thường sẽ sử dụng các đối tượng khởi kiện để áp đặt ý chí của mình lên các chủ thể
thuộc quyền quản lý. Các đối tượng khởi kiện này luôn tồn tại trong nó khả năng
gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chính
vì vậy, pháp luật đã trao cho người khởi kiện, là các chủ thể chịu sự quản lý của các
chủ thể quản lý nhà nước, quyền được khởi kiện VAHC.
Quyền hạn này được khoa học pháp lý xem là “phương thức giải quyết tranh

chấp hành chính, phương thức kiểm sốt quản lý hành chính Nhà nước, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước; quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã hội và là cơ chế mở
rộng dân chủ trong xã hội”17. Mặt khác, “khởi kiện VAHC của cá nhân, tổ chức
được nhìn nhận là phương tiện hữu hiệu để tự bảo vệ mình và việc thực hiện quyền
này mang đậm nét chủ quan, có quan hệ mật thiết với trình độ nhận thức, trạng thái
tâm lý, động cơ, mục đích của cá nhân trực tiếp thực hiện việc khởi kiện VAHC”18.
Từ đó có thể suy ra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng các đối tượng
khởi kiện được ban hành hoặc được thực hiện trên thực tế đã trực tiếp xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì họ có quyền quyết định việc khởi kiện ra Tòa
án để được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Tòa án sau khi xem xét sẽ thụ lý yêu cầu
khởi kiện để giải quyết VAHC. Trong q trình giải quyết, Tịa án mà cụ thể là
17

Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2012), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt Nam, Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, tr.235-236.
18
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân dân, tr 218.

7


HĐXX sơ thẩm sẽ xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của u cầu khởi kiện,
để ra các phán quyết phù hợp với quy định của pháp luật qua đó giải quyết đúng đắn
VAHC.
Trong tố tụng hành chính, đảm bảo quyền khởi kiện VAHC là một nguyên tắc
cơ bản được thể hiện cụ thể ở Điều 5 Luật TTHC 2015, “cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quyền khởi kiện vụ án hành chính để u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình theo quy định của Luật này”. Khi khởi kiện VAHC, để đạt được
mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, người khởi kiện

thường sẽ đưa ra các yêu cầu với HĐXX sơ thẩm về việc hủy các QĐHC,
QĐKLBTV, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh,
quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan hoặc tuyên HVHC là trái pháp luật
hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri. Bên cạnh đó, người khởi kiện cịn
có thể u cầu HĐXX sơ thẩm tun buộc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chấm dứt hành vi trái
pháp luật và bồi thường thiệt hại do các đối tượng khởi kiện gây ra.
Khi xem xét giải quyết VAHC, trong phạm vi quyền hạn được cho phép là chỉ
xem xét tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại
có và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, HĐXX sơ thẩm sẽ có quyền quyết
định về tính hợp pháp và tính có căn cứ trong u cầu của người khởi kiện. Thực tế
có hai trường hợp xảy ra, nếu yêu cầu của người khởi kiện khơng đáp ứng được tính
hợp pháp và có căn cứ, HĐXX sơ thẩm sẽ tuyên bác yêu cầu khởi kiện. Điều đó có
nghĩa là yêu cầu của người khởi kiện đã khơng có đủ căn cứ mà dựa vào đó HĐXX
sơ thẩm xác định các đối tượng khởi kiện đã được ban hành hoặc thực hiện trái
pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do đó,
bác yêu cầu là điều tất yếu xảy ra.
Ngược lại, nếu yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp thì tùy
vào từng trường hợp HĐXX sơ thẩm sẽ tuyên chấp nhận một phần hoặc chấp nhận
toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện. Sau khi đã quyết định chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, HĐXX sơ thẩm sẽ có quyền
đưa ra quan điểm xử lý các đối tượng khởi kiện trái pháp luật nhằm giải quyết yêu
cầu của người khởi kiện.
Hai là, quyết định về tính hợp pháp và tính có căn cứ của các đối tượng
khởi kiện
Đối tượng khởi kiện trong VAHC theo quy định tại Điều 30 Luật TTHC 2015
bao gồm các đối tượng sau đây: QĐHC, HVHC (trừ các QĐHC, HVHC thuộc
phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao;
8



QĐHC, HVHC của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý
hành vi cản trở hoạt động tố tụng; QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan nhà
nước), QĐKLBTV công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở
xuống, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh
sách cử tri.
Khi giải quyết VAHC, HĐXX sơ thẩm sau khi xem xét yêu cầu của người
khởi kiện, nếu nhận thấy yêu cầu đó đã hợp pháp và có căn cứ, sẽ chấp nhận một
phần hoặc tồn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện và tiến hành bước tiếp
theo là xem xét về tính hợp pháp, tính có căn cứ của các đối tượng khởi kiện. Tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các đối tượng khởi kiện là cơ sở, chuẩn mực chung
để HĐXX sơ thẩm ra phán quyết cuối cùng. Lý do phải xem xét tính hợp pháp của
các đối tượng khởi kiện là bởi vì ba lí do cơ bản sau đây:
- Xuất phát từ nhu cầu kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là một khía cạnh rất quan trọng trong quản lý nhà nước.
Muốn quản lý tốt một quốc gia, duy trì, ổn định trật tự xã hội, bảo đảm đời sống tốt
cho nhân dân thì địi hỏi chủ thể Nhà nước phải có quyền lực thực sự mạnh. Theo lý
luận chung về nhà nước và pháp luật thì quyền lực của Nhà nước khơng tự nhiên có
mà xuất phát là từ nhân dân – chủ thể nguyên thủy của quyền lực. Quyền lực nhà
nước bắt nguồn từ nhân dân, nhân dân là gốc của quyền lực19. Nhân dân không
trực tiếp sử dụng quyền lực của mình mà trao cho một chủ thể đặc biệt là Nhà nước
mà cụ thể là bộ máy Nhà nước. Cơ quan này sẽ thay mặt nhân dân thực hiện quyền
lực đã được trao cho đó vào việc quản lý xã hội. Việt Nam cũng không ngoại lệ,
nhân dân trao quyền cho nhà nước để chủ thể này sử dụng quyền lực đó vào việc
quản lý xã hội. Khi được trao quyền, Nhà nước mà cụ thể là cơ quan quyền lực nhà
nước sẽ không bao biện làm chủ tất cả mà có sự phân cơng quyền lực cụ thể cho các
cơ quan nhà nước khác như Chính phủ, Tòa án để các chủ thể này thực hiện việc
quản lý xã hội hiệu quả hơn. Điều đó đã thể hiện tính chun mơn hóa, cụ thể hóa
hoạt động quản lý nhà nước. Mặt khác, việc tạo lập quyền lực nhà nước đồng thời
phải có cách kiểm sốt quyền lực đó. Để kiểm sốt việc sử dụng quyền lực nhà

nước của chủ thể có thẩm quyền, sẽ có nhiều cách thức khác nhau, tuy nhiên một
trong những cách thức hiệu quả nhất đó là sử dụng thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm
trong việc xem xét, đánh giá các QĐHC, HVHC dựa trên các tiêu chí đánh giá tính
hợp pháp. Từ đó, HĐXX sơ thẩm sẽ đưa ra các phán quyết có tính thuyết phục cao
giải quyết VAHC.
19

Hồng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr.309.

9


- Yêu cầu của việc tổ chức, thực hiện quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Như đã phân tích, tại Việt Nam, quyền lực nhà nước được thực hiện theo
nguyên tắc đặc biệt là tập trung thống nhất không phân chia nhưng có sự phân cơng,
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Việt Nam không theo cơ chế tam quyền phân lập như các nước
phương Tây nhưng quyền lực nhà nước có sự chun mơn hóa cụ thể: Quyền lập
pháp là do Quốc hội thực hiện; quyền hành pháp là do Chính phủ thực hiện và
quyền tư pháp là của Tòa án. Mỗi cơ quan khi thực hiện quyền lực nhà nước của cơ
quan mình sẽ khơng tự đặt mình ở vị trí riêng lẻ nào so với cơ quan khác mà phải
đặt mình trong mối tương quan với cơ quan nhà nước khác ở vị trí chung là cùng
nhau thực hiện có hiệu quả quyền lực nhà nước.
Trên thực tế, để áp dụng việc sử dụng quyền lực nhà nước vào quản lý xã hội
thì các cơ quan nhà nước phải thông qua việc sử dụng các phương tiện quản lý được
pháp luật quy định như các QĐHC, HVHC, QĐKLBTV, quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri và việc sử dụng
này phải phù hợp với thẩm quyền luật định của cơ quan Nhà nước. Cụ thể ở đây là
việc ban hành hoặc thực hiện các QĐHC, HVHC đó. Ban hành hoặc thực hiện các

QĐHC, HVHC là để điều chỉnh vấn đề cụ thể trong quản lý nhà nước, một công
việc rất thường xuyên được thực hiện. Khi thực hiện việc ban hành hoặc thực hiện
các QĐHC, HVHC, các cơ quan Nhà nước không chỉ quan tâm đến việc thực hiện
quyền của mình mà cịn phải chú trọng đến khả năng tác động cũng như sự phù hợp
của các quyết định, hành vi này đối với hoạt động quản lý chung bao gồm việc thực
hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước khác. Nếu ban hành hoặc thực
hiện tốt, đúng pháp luật các đối tượng khởi kiện thì sẽ giúp cho hoạt động quản lý
nhà nước được thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Ngược lại, nếu ban hành hoặc
thực hiện các đối tượng khởi kiện khơng đảm bảo u cầu tính hợp pháp thì sẽ gây
hậu quả rất lớn ảnh hưởng xấu đến việc giữ gìn trật tự xã hội, mất niềm tin của nhân
dân vào Nhà nước.
Chính vì u cầu vừa nêu trên và thêm vào đó là yếu tố mức tác động lớn của
các đối tượng khởi kiện đối với các đối tượng bị điều chỉnh, trong hoạt động quản
lý Nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền phải đảm bảo tính hợp pháp của các đối
tượng khởi kiện.
- Khả năng tác động của các đối tượng khởi kiện trong hoạt động quản lý nhà
nước.
Như đã phân tích ở các phần trên, trong hoạt động quản lý nhà nước, để thực
hiện có hiệu quả thẩm quyền của mình thì bắt buộc các cơ quan nhà nước, người có
10


thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước phải sử dụng các QĐHC, HVHC như là
một công cụ điều chỉnh các vấn đề xã hội. Các quyết định, hành vi này có đặc điểm
là có tính trực tiếp điều chỉnh cụ thể một vấn đề nhất định trong hoạt động quản lý
của Nhà nước. Chính vì mang tính trực tiếp điều chỉnh này mà các quyết định, hành
vi đã tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội cụ thể, gây ra những ảnh hưởng trực
tiếp tới các quyền, lợi ích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trong thực tế xem xét tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện, tồn tại hai
khả năng áp dụng, thứ nhất, nếu chủ thể có thẩm quyền ban hành các QĐHC hoặc

thực hiện các HVHC đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn, thời hiệu ban
hành hoặc thực hiện do luật định cũng như phù hợp với yêu cầu về nội dung điều
chỉnh, hình thức thể hiện (nói tóm gọn là bảo đảm tính hợp pháp) thì sẽ góp phần
bảo vệ tốt những quyền, lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và
đảm bảo giữ gìn, ổn định tốt trật tự xã hội. Ngược lại với khả năng thứ nhất, khả
năng thứ hai nếu chủ thể có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện các QĐHC,
HVHC khơng đảm bảo tính hợp pháp thì sẽ gây ra các ảnh hưởng xấu cho xã hội,
tác động tiêu cực đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
xã hội.
Để quyết định tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện, việc xem xét cần
phải được tiến hành dựa trên các tiêu chí về mặt hình thức, nội dung với các đối
tượng khởi kiện là quyết định hoặc việc thực hiện đối với các đối tượng khởi kiện là
hành vi; về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành hoặc việc thực hiện; tiêu chí về
thời hạn, thời hiệu ban hành hoặc thực hiện; mối liên hệ giữa các đối tượng khởi
kiện với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên
quan.
HĐXX sơ thẩm sẽ tiến hành việc phân tích, đánh giá các tiêu chí trên để xác
định các đối tượng khởi kiện đã được ban hành hoặc thực hiện đúng quy định pháp
luật hay chưa đúng quy định pháp luật để từ đó vận dụng thẩm quyền quyết định
của mình ra các phán quyết giải quyết có hiệu quả VAHC. Trong thực tiễn giải
quyết VAHC, tùy vào từng loại đối tượng khởi kiện, HĐXX sơ thẩm sẽ có các cách
thức giải quyết khác nhau: Đối với QĐHC trái pháp luật, HĐXX sơ thẩm được
quyền tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ tùy thuộc vào mức độ trái pháp luật của
QĐHC. Khi đã hủy QĐHC, HĐXX sơ thẩm cũng sẽ hủy quyết định giải quyết
khiếu nại có liên quan và buộc các chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện nhiệm vụ,
công vụ theo quy định của pháp luật. Ngồi ra, HĐXX sơ thẩm cịn có quyền kiến
nghị các cách thức xử lý đối với QĐHC trái pháp luật đã bị tuyên hủy. Với HVHC
trái pháp luật, HĐXX sơ thẩm sẽ không tuyên hủy mà tuyên bố HVHC là trái pháp
11



luật để có thể đưa ra yêu cầu buộc chủ thể có thẩm quyền chấm dứt hành vi trái
pháp luật. HĐXX sơ thẩm cũng sẽ tuyên hủy quyết định giải quyết khiếu nại có liên
quan. Với QĐKLBTV, phạm vi quyền quyết định xử lý của HĐXX sơ thẩm là
tuyên hủy QĐKLBTV và buộc chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện nhiệm vụ,
công vụ theo quy định của pháp luật. Với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh, HĐXX sơ thẩm sẽ tuyên hủy quyết định giải quyết
khiếu nại trái pháp luật và buộc chủ thể có thẩm quyền phải giải quyết lại vụ việc
theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Đối với đối tượng khởi kiện cuối cùng là
danh sách cử tri, HĐXX sơ thẩm khi chấp nhận yêu cầu khởi kiện sẽ buộc các chủ
thể có thẩm quyền phải sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo đúng quy định của
pháp luật.
Thứ hai, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là thẩm quyền quyết định của
Tòa án.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hành
chính nói riêng, thẩm quyền của Tịa án có khá nhiều loại. Để minh chứng, khi tiến
hành phân loại về mặt học thuật Tịa án sẽ có các loại thẩm quyền sau đây: Thẩm
quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tịa án theo loại việc; thẩm quyền xét xử
khiếu kiện hành chính của Tịa án theo lãnh thổ; thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành
chính của Tịa án theo cấp xét xử; thẩm quyền của Tòa án trong các giai đoạn tố
tụng; thẩm quyền của Tòa án về áp dụng pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong
xét xử khiếu kiện hành chính; thẩm quyền của Tòa án trong việc ra bản án, quyết
định giải quyết khiếu kiện hành chính20.
Việc phân loại như vừa nêu đã liệt kê các loại thẩm quyền mà Tòa án được
pháp luật trao cho và có ý nghĩa như là một sự hệ thống hóa các loại thẩm quyền
của Tịa án. Mỗi loại thẩm quyền được pháp luật ghi nhận đó sẽ có những ý nghĩa tố
tụng khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài khóa luận, tác giả để cập đến
“Thẩm quyền của Tòa án trong việc ra bản án, quyết định giải quyết vụ án hành
chính”. Thẩm quyền này còn được gọi là quyền quyết định của Tòa án. Quyền
quyết định của Tòa án được hiểu là quyền được pháp luật trao cho để Tòa án căn cứ

vào đó, thực hiện việc ra các phán quyết đối với những vấn đề cụ thể về nội dung vụ
án nhằm đảm bảo cho việc giải quyết có hiệu quả VAHC.
Thẩm quyền của Tòa án trong việc ra bản án, quyết định giải quyết khiếu kiện
hành chính (thẩm quyền quyết định) là một nội dung quan trọng của thẩm quyền
của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính bởi vì:
20

Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện Hành chính của Tịa án sự bảo đảm cơng lý
trong quan hệ giữa nhà nước và công dân, Nxb Tư pháp, tr.92.

12


Một là, Tòa án sơ thẩm được pháp luật TTHC trao cho thẩm quyền ra phán
quyết giải quyết VAHC, nhưng muốn thực hiện thẩm quyền đó thì Tịa án sơ thẩm
phải thông qua hoạt động của HĐXX sơ thẩm khi chủ thể này vận dụng các quy
định của pháp luật về thẩm quyền để ra những bản án, quyết định giải quyết khiếu
kiện hành chính.
Hai là, việc đưa ra các bản án, quyết định giải quyết VAHC là kết quả của
việc thực hiện thẩm quyền giải quyết VAHC. Quá trình tiến hành các thủ tục giải
quyết VAHC trong tố tụng hành chính dù trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau
với nhiều loại thẩm quyền tương ứng kèm theo, thì suy cho cùng, các kết quả của
hoạt động xem xét và giải quyết vụ án sẽ được phản ánh trong bản án, quyết định có
hiệu lực thi hành trên thực tế do Tòa án mà cụ thể ở đây là do HĐXX sơ thẩm
tuyên. Nội dung của thẩm quyền quyết định của Tòa án bao gồm hai yếu tố là quyết
định về các vấn đề của vụ án và tiến hành việc giải quyết vụ án.
Để thực hiện nội dung giải quyết VAHC, HĐXX sơ thẩm phải ra các phán
quyết cụ thể ghi nhận cách thức, đường lối xử lý vụ án. Trong q trình giải quyết
VAHC tại Tịa án, HĐXX sơ thẩm sẽ xem xét vụ án một cách khách quan, tồn
diện, xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của những người

tham gia tố tụng, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân, cân nhắc, đối chiếu và
đánh giá các ý kiến này cùng với việc xem xét các tài liệu, chứng cứ thu thập được.
Thẩm quyền quyết định của HĐXX sơ thẩm được thể hiện qua việc quyết định
bác yêu cầu của người khởi kiện khi yêu cầu khơng có căn cứ pháp luật; quyết định
việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện để tuyên hủy toàn bộ hoặc
một phần QĐHC trái pháp luật, tuyên hủy quyết định giải quyết khiếu nại có liên
quan; tuyên bố hành vi hành chính là trái pháp luật; tuyên hủy QĐKLBTV trái pháp
luật; tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh; buộc sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri; buộc bồi thường
thiệt hại và cuối cùng là các quyền quyết định việc kiến nghị (xem xét trách nhiệm
của các chủ thể đã ban hành QĐHC, thực hiện HVHC; xem xét văn bản hành chính
có liên quan; xem xét văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, văn bản quy
phạm của cơ quan nhà nước cấp trên).
Thứ ba, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là kết quả của hoạt động xét xử
sơ thẩm VAHC.
Trong hoạt động tố tụng hành chính, VAHC là một cuộc tranh chấp giữa hai
bên, một bên là chủ thể quản lý nhà nước (cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước) bên cịn lại là các đối tượng quản lý (đây là dạng tranh
chấp hành chính theo nghĩa hẹp). Cơ sở phát sinh của tranh chấp này là khi chủ thể
13


quản lý nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (thực thi quyền hành pháp) xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng quản lý (cơ quan, tổ chức, cá
nhân)21. Để có thể đưa ra phán quyết giải quyết triệt để tranh chấp hành chính, Tịa
án phải thực hiện rất nhiều các bước tố tụng khác nhau mà trong đó hoạt động tố
tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là một nội dung cực kỳ quan trọng. Hoạt động
xét xử các VAHC trải qua nhiều bước tố tụng liên tiếp nhau như: Thụ lý vụ án,
chuẩn bị xét xử, đưa vụ án ra xét xử và kết thúc bằng bản án hoặc quyết định của
Tòa án22. Trong từng bước tố tụng này, Tòa án sơ thẩm sẽ thực hiện các công việc

cụ thể nhằm hướng đến một mục đích là phục vụ cho hoạt động xét xử sơ thẩm
VAHC nhằm kịp thời ra bản án, quyết định giải quyết VAHC, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ở giai đoạn thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động
như xác minh, thu thập chứng cứ, giám định, lấy lời khai của người làm chứng và
nhiều hoạt động khác có vai trị rất quan trọng. Khi đã có được các chứng cứ, tài
liệu liên quan thì để sử dụng các chứng cứ, tài liệu liên quan này như các căn cứ
pháp lý, căn cứ thực tiễn cho phán quyết của HĐXX sơ thẩm thì Tòa án sẽ mang
các tài liệu liên quan và chứng cứ ra xem xét, đánh giá chính thức tại phiên tòa.
Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành việc tranh luận giữa các bên để củng cố các tài
liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án sơ thẩm mà cụ thể là HĐXX sơ thẩm sẽ xác
định tính có căn cứ, tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, danh sách cử tri, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh bị khởi kiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Để thực hiện tốt công việc này, HĐXX sơ thẩm sẽ nghiên cứu các tài
liệu, chứng cứ đã được xem xét, đánh giá tại phiên Tịa ở các bước tố tụng trước đó
trong hoạt động xét xử sơ thẩm. Qua nghiên cứu, HĐXX sơ thẩm sẽ xem xét, cân
nhắc ra quyết định chính thức về yêu cầu của người khởi kiện. Nếu yêu cầu khơng
có căn cứ, nghĩa là các đối tượng khiếu kiện đã hợp pháp, thì HĐXX sơ thẩm sẽ bác
yêu cầu khởi kiện. Ngược lại, nếu các đối tượng khởi kiện được ban hành, thực hiện
trái với quy định của pháp luật thì HĐXX sơ thẩm sẽ chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của đương sự để xử lý các đối tượng khiếu kiện không hợp
pháp. Phán quyết cuối cùng của HĐXX sơ thẩm đều thể hiện trong bản án hoặc

21

Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr.212.
22

Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2012), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt Nam, Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, tr. 290.

14


quyết định kèm theo đó là các căn cứ, tài liệu, hồ sơ chứng cứ, là kết quả của hoạt
động tố tụng trước đó.
Chính vì những lý do vừa nêu đó, có thể nói thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm
trong tố tụng hành chính là kết quả của hoạt động xét xử sơ thẩm.
1.3. Ý nghĩa thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Việc Luật TTHC 2015 ghi nhận và xác định rõ thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm trong q trình giải quyết VAHC có những ý nghĩa sau đây:
Đối với Tòa án
Trong tố tụng hành chính, việc giải quyết một VAHC của Tịa án có ý nghĩa
rất quan trọng. Theo đó, các quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là cơ sở
để Tịa án xác định được quyền hạn của mình khi giải quyết một VAHC cụ thể trên
thực tế. Hiểu rõ được quyền hạn Luật định, Tòa án sẽ tránh được những sai lầm khi
giải quyết VAHC như tuyên án trái thẩm quyền, vượt quá thẩm quyền, vượt quá yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện. Những sai lầm này có thể khiến cho bản án,
quyết định của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến bị hủy án.
Bên cạnh đó, các quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm cũng đóng vai
trị là căn cứ để Tòa án đưa ra các phán quyết khi giải quyết VAHC. Quyền và lợi
ích hợp pháp đã bị xâm hại của người khởi kiện, người có quyền, lợi ích liên quan
có được khơi phục hay khơng phần lớn nằm ở thẩm quyền quyết định của HĐXX sơ
thẩm. Các phán quyết của HĐXX sơ thẩm được đưa ra là kết quả của việc vận dụng
các quy định của Luật TTHC về thẩm quyền trong quá trình giải quyết VAHC. Nắm
vững các quy định này, HĐXX sơ thẩm sẽ có được những định hướng đúng đắn để
có thể tiến hành giải quyết VAHC cho từng trường hợp cụ thể.
Mặt khác, việc vận dụng đúng pháp luật các quy định về thẩm quyền của

HĐXX sơ thẩm cịn có ý nghĩa quan trọng khi phán quyết được đưa ra từ việc sử
dụng thẩm quyền của Hội đồng sẽ là căn cứ có thể được xem xét ở các giai đoạn
tiếp theo như phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có). Nếu HĐXX sơ thẩm
vận dụng đúng đắn quy định về thẩm quyền để ra phán quyết đúng pháp luật giải
quyết triệt để VAHC thì các giai đoạn tố tụng tiếp theo sẽ khơng gặp nhiều khó
khăn có thể tiết kiệm được thời gian, công sức và cả vật chất cho người khởi kiện.
Ngược lại, “nếu chất lượng xét xử thấp, thì nhiều trường hợp phải hủy án giao cho
Tòa sơ thẩm xét xử lại dẫn đến kéo dài thời gian tố tụng, tốn kém về vật chất, gây
tâm lý không tốt cho các đương sự”23.

23

Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.315.

15


Ngồi ra, có thể nói việc vận dụng đúng thẩm quyền trong tố tụng hành chính
cịn giúp nâng cao năng lực chun mơn, tích lũy kinh nghiệm và trau dồi thêm kiến
thức cho đội ngũ Thẩm phán, thư ký Tòa án, Hội thẩm nhân dân.
Đối với người khởi kiện
Khi tham gia vào q trình tố tụng hành chính, người khởi kiện, người có
quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đều mong muốn rằng yêu cầu của họ sẽ được Tòa
án giải quyết tốt nhằm khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Để
giải quyết VAHC, có hai con đường mà người khởi kiện có thể lựa chọn đó là khiếu
nại lên chủ thể có thẩm quyền hoặc khởi kiện VAHC. Người khởi kiện khi hiểu rõ
các quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm có thể tự nhận biết được yêu cầu
của mình sẽ được giải quyết tốt nhất bằng phương thức nào. Qua đó lựa chọn cho
mình con đường phù hợp để bảo vệ lợi ích bị xâm phạm. Nắm được các quy định về

thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm, người khởi kiện sẽ nhanh chóng xác định được
phạm vi thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm. Phạm vi thẩm quyền cho phép HĐXX sơ
thẩm được quyền kiểm tra tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện, các quyết
định giải quyết khiếu nại và cả những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Phạm vi xem xét giải quyết các đối tượng khởi kiện trong VAHC là tiền đề, cơ sở
quan trọng tạo điều kiện để HĐXX sơ thẩm có thể đưa ra các phán quyết đối với
các đối tượng khởi kiện nhằm giải quyết đúng đắn VAHC. Người khởi kiện khi
xem xét, cân nhắc, lựa chọn con đường đi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình sẽ có được sự lựa chọn tối ưu nhất nếu hiểu được phạm vi và thẩm quyền của
HĐXX sơ thẩm trong tố tụng hành chính.
Một khi người khởi kiện đã hiểu rõ các quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm, họ sẽ có sự cân nhắc trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện sao cho phù hợp
nhất có thể với các thẩm quyền luật định đó của HĐXX sơ thẩm. Bởi lẽ, nếu yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện được đưa ra vượt ra khỏi các thẩm quyền của
HĐXX sơ thẩm thì chủ thể này cũng khơng thể giải quyết u cầu đó. Ví dụ, u
cầu khởi kiện được đưa ra lại là yêu cầu xem xét tính hợp lý của đối tượng khởi
kiện hoặc yêu cầu HĐXX sơ thẩm phán quyết một vụ việc vượt quá thẩm quyền
luật định thì trong trường hợp này HĐXX sơ thẩm không thể giải quyết được yêu
cầu của người khởi kiện.
Đối với các đương sự khác
Ngoài các ý nghĩa vừa nêu, quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm cịn
có ý nghĩa góp phần nâng cao trách nhiệm của người bị kiện. Khi ban hành các
QĐHC, thực hiện các HVHC, người bị kiện sẽ phải cân nhắc, xem xét kĩ lưỡng để
tránh trường hợp bị kiện dẫn đến bị hủy quyết định, bị tuyên hành vi là trái pháp
16


×