Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHIÊN TỒ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Cảnh Hợp
Học viên: Nguyễn Thanh Quyên
Lớp: Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Khóa 23

Thành phố Hồ Chí Minh, ......


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài “Phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính” là cơng trình do chính tác giả
tìm hiểu, nghiên cứu và xây dựng nên. Mọi kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học khác được sử dụng trong Luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng và
được trích dẫn phù hợp theo quy định. Nội dung của cơng trình khơng sao chép bất kỳ
Luận văn hay tài liệu nào.
Tác giả xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của đề tài.

Tác giả

Nguyễn Thanh Quyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Luật TTHC năm 2015: Luật Tố tụng hành chính năm 2015


Luật TTHC năm 2010: Luật Tố tụng hành chính năm 2010
HĐXX: Hội đồng xét xử


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính ................. 6
1.1.2. Ý nghĩa của phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính ...................................... 10
1.2. Những quy định chung về phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính ................ 11
1.2.1. Yêu cầu chung về phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính ............................. 11
1.2.2. Thủ tục bắt đầu phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính ................................ 27
1.2.3. Thủ tục tranh tụng...................................................................................... 30
1.2.4. Thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm vụ án hành chính ................................... 39
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHIÊN TỒ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
VÀ VẤN ĐỀ HỒN THIỆN
2.1. Các u cầu chung về phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính ....................... 47
2.2. Thủ tục bắt đầu phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính ................................. 57
2.3. Thủ tục tranh tụng .......................................................................................... 59
2.4. Thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm vụ án hành chính .................................... 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Xét xử sơ thẩm là việc Tòa án đưa vụ án thuộc thẩm quyền ra xét xử tại
phiên tịa khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định nhằm xác định rõ bản chất
của vụ án, trên cơ sở các chứng cứ, để từ đó ra bản án, quyết định đúng pháp luật
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức. Trong đó,
phiên tồ sơ thẩm là hình thức tổ chức hoạt động xét xử nên có ý nghĩa quan trọng
trong q trình giải quyết vụ án hành chính. Do khi phiên tịa kết thúc cũng là lúc vụ
án được giải quyết bằng bản án, quyết định chính thức của HĐXX. Mặt khác, phiên
tịa sơ thẩm cũng có thể là thủ tục mở ra một giai đoạn tố tụng khác là xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, phiên tịa sơ
thẩm vụ án hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết nhanh
chóng và khách quan vụ án hành chính. Thứ nhất, với đương sự, đặc biệt là người
khởi kiện sẽ là cơ hội chứng minh yêu cầu của họ đưa ra là phù hợp với sự thật
khách quan và đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, thủ tục tranh luận tại phiên
tòa sơ thẩm còn tạo điều kiện cho người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cùng với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trao đổi trực tiếp,
thẳng thắn về các vấn đề của vụ án với người bị kiện trong mối quan hệ bình đẳng.
Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với các đương sự và góp phần giải quyết tốt các
tranh chấp trong vụ án. Đồng thời, khi phiên tòa sơ thẩm diễn ra, người tham gia tố
tụng và những người tham dự phiên tịa có điều kiện tiếp cận pháp luật tố tụng hành
chính nói riêng và pháp luật nói chung. Thứ hai, với hoạt động tố tụng thì phiên tồ
sơ thẩm được xem là cấp xét xử thứ nhất cũng là lần đầu tiên Tịa án có thẩm quyền
chính thức xem xét một cách toàn diện yêu cầu khởi kiện và các yêu cầu khác trong
vụ án hành chính. Vì để thực hiện chức năng xét xử, đưa ra phán quyết công bằng
và thuyết phục thì địi hỏi mọi diễn biến tại phiên tồ phải tuân theo một trình tự,
thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Đây là nơi mà Tòa
án sẽ tiến hành xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ
án để đưa ra phán quyết cuối cùng về tính hợp pháp của các khiếu kiện hành chính.
Chính vì phiên tồ sơ thẩm có vai trị quan trọng trong q trình giải quyết
vụ án hành chính nên pháp luật tố tụng hành chính, từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006) cho



2

đến Luật TTHC năm 2010 và hiện nay là Luật TTHC năm 2015 đã dành nhiều Điều
luật quy định về trình tự, thủ tục tiến hành phiên tồ sơ thẩm. Hiện nay, phiên tịa sơ
thẩm vụ án hành chính được ghi nhận tại Chương XI của Luật TTHC năm 2015,
gồm 03 Mục, từ Điều 148 đến Điều 197 với nhiều nội dung kế thừa các quy định
của Luật TTHC năm 2010 như nguyên tắc tiến hành phiên tòa, nội quy phiên tòa,
thành phần HĐXX sơ thẩm, thủ tục hỏi, thủ tục tranh luận, nghị án, tuyên án…
Song song đó, Luật TTHC năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng về
hình thức bố trí phịng xử án, sự có mặt và phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa
sơ thẩm, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm…
Những sửa đổi, bổ sung này đã tạo ra bước ngoặt mới trong cơng tác xét xử các vụ
án hành chính của Tịa án nhân dân. Tuy vậy, một số quy định của Luật TTHC năm
2015 liên quan đến các quy định về yêu cầu chung, thủ tục bắt đầu phiên toà, thủ
tục tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính vẫn cịn nhiều vướng mắc, bất
cập chưa được khắc phục triệt để, một số quy định mới cũng cần được hướng dẫn,
giải thích rõ ràng. Vấn đề này dẫn đến các phiên tòa xét sơ thẩm vụ án hành chính
hiện nay tồn đọng nhiều vướng mắc. Hậu quả của những thực trạng này khơng dừng
lại ở sự thiếu chính xác của bản án, quyết định sơ thẩm do HĐXX ban hành tại
phiên tòa mà hơn hết còn gây mất lòng tin của xã hội vào Tòa án. Đồng thời tạo tâm
lý e ngại trong việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính của người dân. Vì
vậy, cần có một hệ thống quy định pháp luật hồn chỉnh về phiên tịa sơ thẩm vụ án
hành chính cũng như có sự quan tâm đúng mức đến yếu tố con người trong hoạt
động tiến hành phiên tịa.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chế định về phiên toà sơ thẩm vụ
án hành chính một cách khoa học, tồn diện để củng cố niềm tin của Nhân dân vào
cơ quan nhà nước là thực sự cần thiết trong công cuộc cải cách tư pháp và cải cách
hành chính phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện

nay. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Phiên toà sơ thẩm vụ án hành
chính” để nghiên cứu với mong muốn góp phần hoàn thiện về mặt lý luận cũng như
những quy định của pháp luật thực định để hoàn thiện phiên toà sơ thẩm vụ án hành
chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình khoa học, nhiều tác giả quan tâm, nghiên
cứu vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau liên quan đến xét xử sơ thẩm và phiên
tồ xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Đầu tiên có thể kể đến Luận văn Thạc sĩ “Một


3

số vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả
Hồng Thị Hoa Lê thực hiện năm 2011, cùng với Luận văn Thạc sĩ của tác giả
Phạm Thị Yến Mai “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh” bảo vệ năm 2013. Hay các Luận văn Cử nhân “Giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Liễu Hạnh thực hiện năm
2009; “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Trương Thị Hương, bảo vệ
năm 2013; “Phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Lê Thuỵ Anh
Thư, bảo vệ năm 2015; “Phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Dũng Thị
Mỹ Thẩm, bảo vệ năm 2016.
Một số cơng trình khác nghiên cứu trực tiếp hơn về các vấn đề của phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thể hiện dưới hình thức các bài viết đăng trên tạp
chí khoa học như: “Xét hỏi tại phiên tịa hành chính sơ thẩm” của tác giả Phạm
Cơng Hùng, Tạp chí Tịa án nhân dân số 24/2010; “Luật Tố tụng hành chính năm
2010 và vấn đề nâng cao hiệu quả xét xử hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay” của tác giả Nguyễn Văn Quang, Tạp chí Nghề luật số 04/2011; “Một số vấn
đề về trình tự, thủ tục và kỹ năng xét xử vụ án hành chính tại phiên tịa sơ thẩm”
của tác giả Phạm Cơng Hùng, Tạp chí Tịa án nhân dân số 02/2012; “Bàn về sự có
mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tịa, phiên họp trong tố tụng hành chính” của

tác giả Lê Việt Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 07/2013; “Về phạm vi thẩm quyền của Hội
đồng xét xử khi xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Phạm Tiến Niệm, Tạp
chí Kiểm sát số 16/2013; “Về phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên
họp giải quyết án hành chính” của tác giả Lê Việt Sơn, Tạp chí Kiểm sát số
16/2013; “Thủ tục hỏi tại phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính theo Luật Tố tụng
hành chính năm 2015” của tác giả Lê Việt Sơn, Tạp chí Tịa án số 14/2017.
Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả nhận thấy hiện nay chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu chun sâu, tồn diện và có tính hệ thống về phiên tồ sơ thẩm vụ
án hành chính. Vì vậy, tác giả mong muốn chế định phiên tồ sơ thẩm vụ án hành
chính cần được tổng kết, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để hoàn thiện, góp phần nâng
cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở nước ta trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và quy định của pháp
luật tố tụng hành chính về phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Trên cơ sở
đó, đánh giá về các quy định và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét
xử tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nhằm rút ra những hạn chế,


4

vướng mắc đồng thời nêu lên một số giải pháp hồn thiện, từ đó góp phần xây dựng
hệ thống pháp luật hồn thiện, nâng cao chất lượng phiên tịa sơ thẩm vụ án hành
chính trong thời gian tới.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật tố tụng hành chính về phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính được
quy định trong Luật TTHC năm 2015. Trên cơ sở đó, đánh giá về các quy định và
việc áp dụng các quy định trên trong thực tiễn xét xử tại các phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính cụ thể và rút ra những hạn chế, vướng mắc đồng thời nêu lên
một số giải pháp khắc phục, từ đó góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hồn
thiện, nâng cao chất lượng phiên tịa sơ thẩm trong thời gian tới. Để đạt được mục

đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và pháp lý về phiên toà sơ
thẩm vụ án hành chính.
Thứ hai, nêu lên thực trạng và đưa ra những kiến nghị bước đầu hoàn thiện
Luật Tố tụng hành chính, đồng thời nâng cao hiệu quả phiên tồ sơ thẩm vụ án hành
chính.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài hướng đến nghiên cứu về các vấn đề xoay quanh phiên tịa sơ thẩm vụ
án hành chính bằng việc nêu lên khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tịa. Qua
đó phân tích, đánh giá ở khía cạnh pháp lý về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính.
Luận văn đi sâu và tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận cùng các quy định
của pháp luật cũng như thực trạng về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính. Về mặt
pháp lý, một phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính cần thực hiện dựa trên các quy
định chung về phiên tòa sơ thẩm, diễn biến phiên tòa và thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm. Về mặt thực tiễn, Luận văn làm sáng tỏ những bất cập cịn tồn tại trong q
trình áp dụng quy định pháp luật tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những đường lối,
định hướng của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ “đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải
quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án” trong chiến lược cải cách tư pháp giai
đoạn hiện nay, liên hệ với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu lý luận pháp luật tố tụng hành chính kết hợp
với việc đi sâu phân tích những vấn đề thực tế. Luận văn vận dụng những phương


5

pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, đánh giá tổng kết thực tiễn để giải
quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn.

5. Bố cục của Luận văn
Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài; tình hình nghiên cứu đề tài; mục đích
nghiên cứu; giới hạn phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Phần nội dung: gồm 02 Chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính và vấn đề hồn
thiện


6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ PHIÊN TỒ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên toà sơ thẩm vụ án hành
chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính
Thứ nhất, khái niệm phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính
Thủ tục xét xử sơ thẩm bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó, phiên
tịa sơ thẩm giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Phiên tòa được hiểu là“nơi diễn ra hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân”1. Như vậy, hoạt động xét xử ln gắn liền với
phiên tịa, đây là hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và được tiến
hành bởi “cơ quan có vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp”2 là Tòa án. Một vụ
án hành chính sẽ được xét xử sơ thẩm cơng khai trước phiên tịa khi có đủ các điều
kiện luật định. Cụ thể, “việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm là thủ tục bắt buộc trong
trình tự tố tụng hành chính để giải quyết vụ án khi khơng có căn cứ đình chỉ, tạm
đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật”3.
Khoa học pháp lý hiện nay vẫn chưa tồn tại một định nghĩa chính thức về
phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Phiên tồ là lần
họp để xét xử của Tịa án, sơ thẩm là xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp
xét xử thấp nhất, xét xử là xem xét và xử các vụ án”4. Như vậy, khái niệm trên cho

rằng phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính là lần đầu xét xử một vụ án hành chính.
Khái niệm này đơn giản nhưng khơng phản ánh bản chất cơng việc của Tịa án khi
chỉ nói đây là lần đầu xét xử vụ án hành chính. Cịn theo Từ điển Luật học thì
“Phiên tồ là hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tịa án dưới sự điều khiển của
Chủ toạ phiên toà là một Thẩm phán, sơ thẩm là lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét
xử tại một Tịa án có thẩm quyền. Công tác xét xử ở Việt Nam được thực hiện theo
chế độ hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm”5. Khái niệm này rõ ràng hơn khái
niệm nêu trên nhưng chưa chính xác và chưa phản ánh được bản chất của phiên toà
1

Nguyễn Duy Lẫm (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB. Giáo dục, Hà Nội, tr.270.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
3
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.289.
4
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 779, 869 và 1148.
5
Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ biên) (1999), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 372 và
434.
2


7

sơ thẩm vụ án hành chính vì định nghĩa trên vẫn cho rằng phiên toà sơ thẩm là lần
đầu tiên đưa vụ án ra xét xử, địa điểm xét xử là tại Tịa án có thẩm quyền và chủ thể
điều khiển phiên toà là Thẩm phán. Theo tác giả Nguyễn Duy Lẫm thì “Phiên tồ là
nơi diễn ra hoạt động xét xử của Tịa án nhân dân”6. Trong khi đó, tác giả Nguyễn

Mạnh Hùng lại cho rằng sơ thẩm là việc “xét xử vụ án ở Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện
mà bản án do các Tòa án này tuyên xử có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình
tự phúc thẩm trong thời hạn do luật định”7.
Các giải thích trên thể hiện cách nhìn nhận đa chiều về phiên tồ sơ thẩm vụ
án hành chính nhưng vẫn chưa thực sự chính xác và đầy đủ. Vì các khái niệm này
chỉ đề cập một cách chung chung khi cho rằng phiên toà sơ thẩm là phiên toà xét xử
lần đầu hoặc xét xử lại vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm để đưa ra phán quyết bằng bản
án hoặc quyết định sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Theo chúng tơi, phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính là hình thức tiến
hành hoạt động xét xử vụ án hành chính tại cấp sơ thẩm lần đầu hoặc lần tiếp sau
khi tòa án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm trả hồ sơ vụ án lại để xét xử sơ thẩm.
Đây là một trong những giai đoạn tố tụng giữ vị trí độc lập trong tồn bộ q trình
giải quyết vụ án hành chính.
Thứ hai, đặc điểm của phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính
Một là, phiên tồ sơ thẩm là một hình thức tiến hành hoạt động ở giai đoạn
giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính. Q trình giải quyết một vụ án hành chính bao
gồm nhiều giai đoạn tố tụng liên tiếp nhau, từ thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử
sơ thẩm và phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án, kết thúc bằng bản án hoặc
quyết định của Tòa án và giai đoạn đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tịa án thi hành trên thực tế. Mỗi giai đoạn đều có vai trị và ý nghĩa nhất định
đối với quá trình giải quyết vụ án hành chính. Trong đó, giai đoạn xét xử sơ thẩm
được xem là giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng hành chính. Trong giai đoạn
này, Tịa án thực hiện hoạt động xét xử để giải quyết vụ án hành chính một cách
khách quan và tồn diện, kết quả cuối cùng là đưa ra bản án hoặc quyết định về vụ
án hành chính. Có thể thấy, Luật TTHC năm 2010 và Luật TTHC năm 2015 đều
không quy định một chương riêng về giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính (bao gồm
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử sơ thẩm), trong khi lẽ ra phải chia thành một
phần hoặc chương về giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hành chính, trong đó
6
7


Nguyễn Duy Lẫm (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB. Giáo dục, Hà Nội, tr.270
Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 373


8

gồm cả chuẩn bị xét xử. Ví dụ, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu Tòa án
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (theo quy định tại Điều 143 Luật TTHC năm
2015) thì vụ án sẽ không được đưa ra xét xử sơ thẩm nhưng đây cũng được xem là
việc giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm. Như vậy, phiên tòa sơ thẩm không đồng
nghĩa với thủ tục sơ thẩm hay giai đoạn sơ thẩm mà phiên toà sơ thẩm chỉ là một
giai đoạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Chính vì vậy mà Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 gọi giai đoạn này là giai đoạn “xét xử hình sự” bao gồm cả
“chuẩn bị xét xử”. Cụ thể, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục xét
xử sơ thẩm thành một chương riêng (chương XXI) – Xét xử sơ thẩm, bao gồm quy
định về các mục Thẩm quyền của Tòa án các cấp; Chuẩn bị xét xử; Các quy định
chung về thủ tục tố tụng tại phiên toà; Thủ tục bắt đầu phiên toà; Thủ tục tranh
tụng; Nghị án và tuyên án. Trong khi đó, việc xét xử sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 được quy định hẳn thành một phần riêng (Phần thứ 2) – Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, bao gồm các quy định về Khởi kiện và thụ
lý; Thủ tục hoà giải và chuẩn bị xét xử; Phiên toà sơ thẩm.
Hai là, phiên toà sơ thẩm là khâu giải quyết chính thức lần đầu hoặc lần tiếp
sau khi tịa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trả hồ sơ vụ án để xét
xử lại theo thủ tục sơ thẩm8. Theo đó, tại phiên tồ sơ thẩm, các chủ thể có thẩm
quyền sẽ tiến hành những hoạt động tố tụng khác nhau như chuẩn bị khai mạc phiên
toà, khai mạc phiên toà, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng (nếu
có), thủ tục thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện thủ tục tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm cho đến thủ tục nghị án, tuyên án, cấp, trích lục bản án, sửa chữa,
bổ sung bản án, quyết định của Tòa án. Đây là khâu giải quyết chính thức lần đầu

hoặc lần tiếp sau vụ án hành chính từ khi vụ án phát sinh và đồng thời cũng là khâu
mở ra các hoạt động xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm hay xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy,
phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính có thể được tiến hành sau khi khởi kiện và thụ
lý vụ án lần đầu tiên (xét xử sơ thẩm lần đầu) hoặc cũng có thể được tiến hành sau
Khoản 3 Điều 241 – Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm “Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc phải thu
thập chứng cứ mới quan trọng mà Tịa án cấp phúc thẩm khơng thể bổ sung ngay được”; Khoản 3 Điều 272 Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm “Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để
xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại” và Khoản 2 Điều 285 – Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm “Hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Luật này quy định”.
8


9

khi bản án, quyết định sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Hội đồng giám đốc
thẩm huỷ để xét xử sơ thẩm lại.
Ba là, mục đích của phiên tồ sơ thẩm là đưa ra phán quyết về tính hợp pháp
của đối tượng khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Tại phiên toà sơ thẩm, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện công khai và đầy đủ nhất. Trên cơ sở
đó, Tịa án sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án nhằm xác
định tính hợp pháp, tính có căn cứ của quyết định hành chính, hành vi hành chính;
xác định có hay khơng có thiệt hại do các đối tượng khởi kiện trái pháp luật gây ra.
Từ đó, HĐXX sẽ đưa ra quyết định chính thức về yêu cầu của đương sự sau khi tiến
hành tất cả thủ tục cần thiết như hỏi, tranh luận, đánh giá chứng cứ… Bản án của
Tòa án cấp sơ thẩm khi có hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra thi hành nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bốn là, phiên tồ sơ thẩm là phương thức để xác minh, đánh giá chính thức,
cơng khai các chứng cứ, tài liệu và tình tiết của vụ án. Giai đoạn xét xử sơ thẩm trải

qua lần lượt các thủ tục như khai mạc, bắt đầu phiên tòa; hỏi, tranh luận; nghị án và
tuyên án được thực hiện bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố
tụng. Thông qua phiên tồ sơ thẩm, Tịa án sẽ kiểm tra tồn diện và đánh giá cụ thể
đối với toàn bộ chứng cứ, tài liệu do các đương sự cung cấp hoặc do Tòa án thu
thập được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc xem xét các chứng cứ, tài liệu trong
giai đoạn này có vai trị quan trọng vì cho dù hoạt động thu thập các chứng cứ ở
những giai đoạn trước đó có tồn diện, đầy đủ đến đâu mà không được xem xét,
đánh giá, chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì vụ án hành chính cũng sẽ
không được giải quyết. Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính là phương tiện
chứng minh, đóng vai trị khơng nhỏ trong việc tìm ra sự thật khách quan và bản
chất vụ án. Hoạt động kiểm tra, xác minh có mục tiêu đầu tiên là xác định tính hợp
pháp và giá trị của tài liệu, chứng cứ trong việc giải quyết vụ án. Do vậy, việc kiểm
tra, xác minh và đánh giá phải được tiến hành một cách chính thức, cơng khai, trừ
trường hợp có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính
đáng của đương sự và theo đúng thủ tục luật định tại phiên tịa, nếu khơng sẽ khơng
đảm bảo được giá trị chứng minh. Do đó, “các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự
cung cấp hoặc do Tòa án thu thập được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ có thể
dùng làm căn cứ để HĐXX sơ thẩm nghị án, ra bản án hoặc các quyết định khác khi


10

nó được xem xét tại phiên tịa”9. Chính vì vậy, mọi tài liệu, chứng cứ phải được
xem xét, đánh giá cơng khai và trực tiếp tại phiên tồ sơ thẩm.
1.1.2. Ý nghĩa của phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính
Thứ nhất, đối với đương sự.
Một là, đương sự có cơ hội chứng minh cho yêu cầu của mình đưa ra là phù
hợp với sự thật khách quan và đúng quy định của pháp luật. Thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm tạo điều kiện cho người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan cùng với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trao đổi trực tiếp,
thẳng thắn về các vấn đề của vụ án với người bị kiện trong mối quan hệ bình đẳng.
Thơng qua phiên tịa, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng được bảo vệ bằng
việc áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác nhất.
Hai là, thơng qua xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Tịa án sẽ phát huy tính
dân chủ, bình đẳng thực sự giữa cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ
quan đó với cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện trong vụ án hành chính nhằm bảo
đảm việc xem xét các khiếu kiện đúng trình tự pháp luật.
Thứ hai, đối với hoạt động tố tụng
Một là, phiên tòa sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất cũng là lần đầu tiên cơ quan
có thẩm quyền chính thức xem xét một cách toàn diện các yêu cầu trong vụ án hành
chính. Hướng giải quyết vụ án được đưa ra tại phiên tịa cũng chính là kết luận của
tồn bộ q trình tố tụng hành chính đã thực hiện từ khi thủ tục giải quyết vụ án
hành chính được khởi động. Song song đó, từ việc tham gia phiên tòa sơ thẩm,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký sẽ có cơ hội trau dồi trình
độ chun mơn nghiệp vụ của mình. Đặc biệt, các thành viên HĐXX có thể nâng
cao kỹ năng xét xử khi vận dụng những quy định pháp luật một cách mềm dẻo, linh
hoạt vào từng vụ án hành chính cụ thể. Sau mỗi phiên tịa, người tiến hành tố tụng
sẽ tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn, nhận ra những thiếu sót để thực hiện nhiệm vụ
tốt hơn trong hoạt động nghề nghiệp về sau.
Hai là, trong giai đoạn này các quy định của Luật Tố tụng hành chính về
những nguyên tắc cơ bản trong xét xử, thẩm quyền của HĐXX, trình tự, thủ tục của
phiên tịa sơ thẩm được áp dụng. Chẳng hạn như nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng
lời nói được thể hiện rõ nét hay các thủ tục hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án được
tuân thủ một cách triệt để nhằm bảo đảm quá trình xét xử diễn ra đúng trình tự và
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.291.
9



11

thủ tục do pháp luật quy định. Kết quả của các hoạt động tố tụng như nghiên cứu hồ
sơ vụ án, thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử được đánh giá cơng
khai tại phiên tịa sơ thẩm. Vì vậy, việc xét xử của Tịa án trong giai đoạn này phải
đảm bảo tính khách quan, độc lập, có căn cứ, hạn chế tình trạng kháng cáo, kháng
nghị, từ đó rút ngắn thời gian, cơng sức, giảm tải cơng việc cho Tịa án.
1.2. Những quy định chung về phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính
1.2.1. u cầu chung về phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính
Thứ nhất, xét xử trực tiếp, bằng lời nói (Điều 152)
Một là, xét xử trực tiếp. HĐXX sẽ trực tiếp xem xét tài liệu, kiểm tra tính
hợp pháp và sự chính xác của các chứng cứ đã thu thập được để đánh giá hệ thống
các chứng cứ của vụ án hành chính một cách khách quan và tồn diện. Mặt khác,
thủ tục hỏi được tiến hành trực tiếp giữa chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng như xem xét, hỏi về việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện và việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc tồn
bộ u cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định đầy đủ
những tình tiết của vụ án. Từ đó, HĐXX sẽ xác định được các tình tiết của vụ án,
đánh giá tính chất pháp lý của các tình tiết đó một cách khách quan, toàn diện để ra
phán quyết giải quyết vụ án theo đúng sự thật khách quan và các quy định của pháp
luật.
Hai là, xét xử bằng lời nói. Lời khai của đương sự được họ trình bày tại
phiên tịa có giá trị để Tịa án sử dụng vào việc đối chiếu với các chứng cứ đã được
thu thập, đánh giá. Mặt khác, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
phải dùng lời nói trong khi tham gia hỏi để làm rõ những vấn đề chưa đầy đủ hoặc
có mâu thuẫn, các bên đương sự dùng lời nói để thể hiện quan điểm của mình về
việc giải quyết vụ án trong quá trình tranh tụng. Cụ thể, HĐXX xem xét, đánh giá
chứng cứ, xác định tình tiết của vụ án và giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật hay người tham gia tố tụng trình bày về yêu cầu, ý kiến của mình tại phiên tòa.
Luật TTHC năm 2015 đã bỏ quy định xét xử liên tục. Xét xử liên tục theo

quy định của Luật TTHC năm 2010 yêu cầu các thành viên của HĐXX phải xét xử
vụ án từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên toà, nghĩa là các hoạt động tại phiên tịa
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được tiến hành nối tiếp nhau, không bị gián đoạn


12

từ khi bắt đầu đến khi kết thúc10. Thế nhưng thực tiễn xét xử cho thấy quy định xét
xử liên tục là không khả thi và mâu thuẫn với các quy định khác, bởi lẽ pháp luật
quy định cho phép trong một số trường hợp nhất định thì HĐXX được quyền hỗn
phiên tồ11. Vì vậy, Điều 152 của Luật TTHC năm 2015 đã bỏ đi nguyên tắc xét xử
liên tục trong các nguyên tắc xét xử tại phiên toà sơ thẩm vụ án hành chính. Có thể
thấy, quy định này của Luật TTHC năm 2015 giống với quy định tại Điều 225 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng lại khác với quy định trong tố tụng hình sự. Cụ
thể, tại Điều 250 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định việc xét xử phải
trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên
tòa.
Thứ hai, thời hạn mở phiên toà (Điều 149); Địa điểm tổ chức phiên toà (Điều
150); Hình thức bố trí phịng xử án (Điều 151); Nội quy phiên toà (Điều 153)
Một là, thời hạn mở phiên tồ. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì
Tịa án phải căn cứ vào quyết định này để tiến hành mở phiên toà, trong trường hợp
mở lại phiên tồ sau khi hết thời hạn hỗn phiên tồ thì Tịa án căn cứ vào thời gian,
địa điểm đã ghi trong giấy báo mở lại phiên toà. Trước đó, Luật TTHC năm 2010 đã
gộp chung thời hạn mở phiên toà vào thời hạn chuẩn bị xét xử. Đến Luật TTHC
năm 2015 đã tách quy định thời hạn mở phiên toà vào thời hạn chuẩn bị xét xử
thành hai điều luật riêng biệt. Việc quy định thành một điều luật riêng và chuyển
vào quy định trong chương về phiên toà sơ thẩm cho thấy sự quan trọng của thời
hạn mở phiên toà sơ thẩm, tránh vi phạm về thời gian làm cho vụ án kéo dài, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thời điểm tính thời gian để mở
phiên tồ là ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời gian này được tính liên

tục kể cả ngày nghỉ và ngày lễ.

Khoản 2 Điều 126 “Việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành
viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà. Trong trường hợp
đặc biệt, việc xét xử có thể tạm ngừng nhưng khơng q 05 ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét
xử vụ án được tiếp tục”.
11
Điều 136. Hỗn phiên tồ
“1. Các trường hợp phải hỗn phiên tồ:
a) Các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 129, khoản 1 Điều 130, khoản 1 Điều 131, khoản 2
Điều 135 của Luật này;
b) Thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người phiên dịch bị thay đổi mà khơng có
người thay thế ngay;
c) Người giám định bị thay đổi;
d) Cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tồ.
2. Trường hợp hỗn phiên toà được quy định tại khoản 2 Điều 133 và khoản 2 Điều 134 của Luật này.”
10


13

Hai là, địa điểm mở phiên toà. Theo quy định tại Điều 150 Luật TTHC năm
2015 thì phiên tồ phải được mở tại trụ sở Tịa án, vì đây là nơi được trang bị đầy
đủ cơ sở vật chất để phục vụ cơng tác xét xử của Tịa án. Tuy nhiên, Tịa án cũng có
thể mở phiên tồ ngồi trụ sở nhưng phải đảm bảo tính trang nghiêm và hình thức
phòng xử án như trên. Quy định mới này cho thấy tầm quan trọng của địa điểm và
hình thức mở phiên tồ, bởi lẽ, thực tiễn xét xử đã có trường hợp Tịa án vi phạm về
địa điểm và hình thức phiên tồ, ảnh hưởng đến tính tơn nghiêm và chất lượng xét
xử cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ba là, hình thức bố trí phịng xử án. Phịng xử án phải được thiết kế theo

đúng quy định tại Điều 151 Luật TTHC năm 2015. Theo đó, Quốc huy phải được
treo chính giữa phía trên phịng xử án và phía trên chỗ ngồi của HĐXX. Ngồi ra,
phịng xử án phải có các khu vực được bố trí riêng cho HĐXX, Kiểm sát viên, Thư
ký phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
những người tham gia tố tụng khác và người tham dự phiên tòa.
Bốn là, nội quy phiên toà. Luật TTHC năm 2015 quy định độ tuổi được vào
phòng xử án; về việc người tham gia phiên toà phải chấp hành việc kiểm tra an
ninh, cấm mang các tài liệu, vật cấm vào phiên toà, trang phục tham gia phiên toà;
yêu cầu mọi người đứng dậy khi HĐXX vào phòng xử án và mọi người trong phịng
xử án phải tơn trọng sự điều khiển của Chủ toạ phiên toà. Đây là quy định hợp lý
nhằm đảm bảo tính trang nghiêm của phiên tồ sơ thẩm.
Như vậy, giống với các vụ án dân sự (Điều 222, Điều 223, Điều 224 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015) và vụ án hình sự (Điều 256, Điều 257, Điều 300 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015), vụ án hành chính chỉ có thể được giải quyết một cách
đúng đắn, khách quan khi có sự chuẩn bị một cách chu đáo và nghiêm túc. Do đó,
ngồi việc tn thủ các ngun tắc chung thì phiên tồ sơ thẩm phải được tiến hành
đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc
trong giấy báo mở lại phiên toà trong trường hợp hỗn phiên tồ cũng như hình thức
bố trí phịng xử án và nội quy phiên toà.
Thứ ba, thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án hành chính (Điều 154)
HĐXX là chủ thể giữ vai trò quan trọng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính. Bởi vì HĐXX chịu trách nhiệm điều khiển và có thẩm quyền quyết định
tồn bộ vấn đề của vụ án tại phiên tòa. Đặc biệt, HĐXX sẽ phải dựa vào các tình
tiết, diễn biến cụ thể trong suốt phiên tòa để ban hành quyết định, bản án sơ thẩm
giải quyết vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng. Theo


14

quy định của Luật TTHC năm 2015, thành phần HĐXX sơ thẩm bao gồm một

Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong một số trường hợp, Điều 154 Luật
TTHC năm 2015 cho phép thành phần HĐXX sơ thẩm có thể gồm năm thành viên
với hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Quy định này được áp dụng đối với
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng và vụ án
phức tạp. Luật TTHC năm 2015 đã không quy định trường hợp xét xử đối với khiếu
kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nhưng
bổ sung thêm trường hợp “vụ án phức tạp” mà không gộp chung thành một căn cứ
với “khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng” như
quy định của Luật TTHC năm 2010. Đây là quy định phù hợp, bởi lẽ khiếu kiện này
luôn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, các Thẩm phán này
đều là Thẩm phán trung cấp và cao cấp có trình độ và kinh nghiệm nên HĐXX
khơng cần thiết phải có 05 thành viên. Tách “vụ án phức tạp” thành trường hợp
riêng mà không gộp chung với “khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan
đến nhiều đối tượng” như trước đây. Đây là quy định hợp lý, vì thực tiễn cho thấy,
với một số vụ án hành chính tuy khơng phải là khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh nhưng cũng rất phức tạp, khó giải quyết.
Quy định này của Luật TTHC năm 2015 giống với quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự (Điều 11) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 254). Các Luật và
Bộ luật này đều quy định thành phần của HĐXX sơ thẩm bao gồm Thẩm phán và
Hội thẩm nhằm cân bằng giữa tính chuyên nghiệp của Thẩm phán và tính đại diện
cho Nhân dân của Hội thẩm.
Thứ tư, sự có mặt của người tiến hành tố tụng
Một là, sự có mặt của thành viên HĐXX và Thư ký Tòa án (Điều 155)
Đầu tiên là sự có mặt của thành viên HĐXX. Phiên tịa sơ thẩm địi hỏi sự có
mặt đầy đủ thành viên HĐXX để đảm bảo thủ tục tố tụng được tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật, vụ án được giải quyết chính xác. Với tư cách là tập thể có

thẩm quyền chủ trì phiên tịa và quyết định cách thức giải quyết vụ án, thành viên
HĐXX cần có mặt đầy đủ tại phiên tòa để thực hiện đúng nguyên tắc xét xử tập thể
và quyết định theo đa số. Sự vắng mặt bất kì thành viên nào của HĐXX cũng sẽ gây


15

ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động giải quyết vụ án và không đảm bảo được thủ tục tố
tụng. Trong trường hợp thành viên HĐXX vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham
gia phiên tịa nhưng có thành viên dự khuyết tham gia phiên tịa từ đầu thì thành
viên dự khuyết có thể thay thế họ tham gia phiên tịa. Do yêu cầu đặt ra đối với
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là phải được tiến hành liên tục, điều này
đồng nghĩa với sự tham gia liên tục của thành viên HĐXX. Chính vì vậy, khi họ
vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tịa và có thành viên dự khuyết
nhưng khơng tham gia phiên tịa từ đầu thì cũng khơng được phép thay thế người
tiến hành tố tụng. Nếu khơng có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án khơng chính xác,
khách quan vì họ khơng nắm bắt được tất cả tình tiết, diễn biến của vụ án. Như vậy,
trường hợp các chủ thể trên vắng mặt và khơng có thành viên dự khuyết hoặc có
thành viên dự khuyết nhưng thành viên này khơng tham gia phiên tịa ngay từ đầu
thì phiên tịa phải bị hỗn lại.
Tiếp theo là sự có mặt của Thư ký phiên toà. Bên cạnh HĐXX, Thư ký cũng
giữ vai trị quan trọng tại phiên tịa, vì đây là người tiến hành tố tụng được Chánh án
Tòa án phân công tham gia hoạt động tố tụng “Thư ký là cộng sự rất quan trọng
của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng và trong việc thực hiện
chức năng xét xử của Tịa án nói chung”12. Tại phiên tịa, Thư ký phiên tồ có
nhiệm vụ giúp HĐXX hồn thành tốt vai trị của mình thơng qua các hoạt động như
phổ biến nội quy phiên tòa; kiểm tra và báo cáo với HĐXX về sự có mặt, vắng mặt
và lý do của những người được triệu tập tham gia phiên tòa; ghi biên bản phiên
tòa… Đây là những cơng việc buộc phải được thực hiện trong phiên tịa sơ thẩm vụ
án hành chính. Vì vậy, sự có mặt của Thư ký phiên toà cũng là điều bắt buộc. Bên

cạnh đó, xuất phát từ vị trí của Thư ký tại phiên tịa chỉ mang tính hỗ trợ cơng việc
của HĐXX, đảm bảo hoạt động tố tụng tuân thủ pháp luật về mặt thủ tục nên trường
hợp Thư ký phiên tồ vắng mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia phiên tịa có thể
tiến hành thay thế chủ thể này mà khơng địi hỏi người thay thế phải tham gia phiên
tịa từ đầu, vì việc thay thế Thư ký khơng ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Người thay thế Thư ký phiên toà trong trường hợp này khơng
nhất thiết phải tham gia phiên tồ ngay từ đầu.
Như vậy, giống như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Điều 226) và Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 288), sự có mặt của các thành viên HĐXX và Thư
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.125.
12


16

ký là bắt buộc trong các phiên toà sơ thẩm. Nếu họ vắng mặt mà khơng có người
khác thay thế thì HĐXX phải hỗn phiên tồ.
Hai là, sự có mặt của Kiểm sát viên (Điều 156)
Điều 156 Luật TTHC năm 2015 quy định Kiểm sát viên được Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp phân cơng có nhiệm vụ tham gia phiên tịa. Trong trường
hợp Kiểm sát viên vì lý do nào đó vắng mặt thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử. Tương
tự, với phiên tòa xét xử sơ thẩm khiếu kiện về danh sách cử tri nếu đại diện Viện
kiểm sát cùng cấp vắng mặt thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử bình thường (Điều 200
Luật TTHC năm 2015). Như vậy, quy định của Điều 156 Luật TTHC năm 2015
giống với quy định tại Điều 232 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về sự có mặt
của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, quy định này của Luật TTHC
năm 2015 lại khác với quy định tại Điều 289 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì theo quy định tại Điều luật này thì sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tồ sơ
thẩm vụ án hình sự là bắt buộc13.

Thứ năm, sự có mặt của người tham gia tố tụng và thủ tục xét xử vắng mặt
tất cả những người tham gia tố tụng
Một là, sự có mặt của đương sự (Điều 157)
Theo quy định tại Điều 157 Luật TTHC năm 2015, sự có mặt của đương sự
tại phiên tịa là bắt buộc khi được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất. Nếu họ vắng
mặt mà khơng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì HĐXX ra quyết định hỗn phiên
tồ. Cụ thể, đối với đương sự, người đại điện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ thì sự có mặt của họ tại phiên tịa là rất cần thiết. Đây là những chủ thể
có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án hành chính. Khi
Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tịa. Như vậy,
nếu đương sự trong vụ án có người đại diện thì có thể chỉ cần sự có mặt của người
đại diện mà khơng buộc phải có mặt của cả đương sự lẫn người đại diện. Quy định
này tạo được sự linh hoạt cho đương sự trong việc tham gia phiên tịa. Trường hợp
Điều 289. Sự có mặt của Kiểm sát viên
“1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xử tại phiên
tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hỗn phiên tịa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp
thì có thể có nhiều Kiểm sát viên. Trường hợp Kiểm sát viên không thể có mặt tại phiên tịa thì Kiểm sát viên
dự khuyết có mặt tại phiên tịa từ đầu được thay thế để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên
tòa”.
2. Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà
khơng có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hỗn phiên tịa.”
13


17

khơng có mặt tại phiên tịa thì phải có đơn đề nghị xét xử vắng mặt để chứng minh
rằng họ chấp nhận việc Tòa án tiến hành xét xử vụ án mà khơng có sự tham gia của
mình và việc xét xử vắng mặt là không xâm phạm quyền lợi của họ. Tòa án triệu tập

hợp lệ lần thứ hai thì đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bắt buộc phải có mặt và sự vắng mặt chỉ được chấp nhận khi có lý do vì
sự kiện bất khả kháng14.
Quy định này của Luật TTHC năm 2015 tương tự với quy định về sự có mặt
của đương sự trong vụ án dân sự (Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Tuy
nhiên, các quy định này lại có phần khác biệt so với quy định về sự có mặt của bị
cáo và người bị hại tại phiên toà (Điều 290, Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015)15.
Hai là, xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tồ (Điều 158)
Như đã phân tích ở trên, sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm vụ án
hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, không
phải mọi trường hợp đương sự đều bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa. Cụ thể, tại
Điều 157 và Điều 158 Luật TTHC năm 2015 đã dự liệu các trường hợp mà Tòa án
vẫn có thể tiến hành phiên tịa sơ thẩm dù khơng có mặt đương sự. Theo đó, trong
các trường hợp đương sự vắng mặt nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa;
đương sự và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tịa nhưng có đơn đề nghị
Tịa án xét xử vắng mặt; người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
khơng có u cầu độc lập được triệu tập lần thứ hai nhưng vắng mặt khơng vì sự
kiện bất khả kháng mà khơng có người đại diện tham gia phiên tòa hoặc đương sự
vắng mặt tại phiên tòa mà đối tượng khởi kiện là danh sách cử tri thì Tịa án vẫn
tiến hành xét xử sơ thẩm. Việc xét xử vắng mặt đương sự trong các trường hợp trên
đây được phép tiến hành vì khơng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của họ và sự vắng

Khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng
cho phép”.
15
Trong phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong
suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan
thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hỗn phiên

tịa. Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo
khỏi bệnh. Nếu bị cáo trốn thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo. Tịa án
chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong một số trường hợp do Bộ luật quy định. Với người bị hại thì nếu bị
hại hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, HĐXX quyết định hỗn phiên tịa hoặc vẫn tiến
hành xét xử.
14


18

mặt đó cũng khơng có tác động đến việc xác định sự thật vụ án đồng thời đảm bảo
việc giải quyết nhanh chóng vụ án.
Khi đương sự vắng mặt nhưng có người đại diện tham gia phiên tịa thì phiên
tịa vẫn tiến hành vì người đại diện là người được đương sự tin tưởng trao quyền và
có thể thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tịa. Có sự tham gia tố tụng của người đại
diện, đương sự không nhất thiết phải tham gia phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính
mà vẫn có thể n tâm rằng quyền lợi của mình sẽ không bị xâm phạm. Khi cả
đương sự và người đại diện của đương sự đều khơng có mặt tại phiên tịa và có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt thì đồng nghĩa với việc đương sự đồng ý với việc phiên tịa
được tiến hành mà khơng có mặt của họ cũng như người đại diện. Điều này có
nghĩa là họ chấp nhận chịu sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của bản án, quyết
định mà HĐXX tuyên tại phiên tịa mà họ khơng tham gia. Khi đó, hoạt động xét xử
được tiến hành hồn tồn khơng trái với các nguyên tắc của pháp luật tố tụng hành
chính.
Đặc biệt, đối với trường hợp đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt khơng vì sự kiện bất khả kháng mà khơng có người đại diện tham
gia phiên tịa, đồng thời cũng khơng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì pháp luật
vẫn cho phép Tịa án tiến hành xét xử vắng mặt. Quy định này là hợp lý, bởi khi
Tòa án tiến hành triệu tập đương sự lần thứ hai thì sau đó Tịa án cần giải quyết dứt

điểm vụ án. Trong khi đó, người bị kiện, người có quyền và nghĩa vụ liên quan
khơng có yêu cầu độc lập là các chủ thể tham gia bị động trong quá trình giải quyết
vụ án hành chính, họ khơng đưa ra u cầu để Tịa án giải quyết trong quá trình xét
xử. Đồng thời việc vắng mặt khơng có lý do chính đáng và khơng có người đại diện
tham gia phiên tòa thể hiện sự bất hợp tác của các chủ thể trên đối với hoạt động xét
xử và xu hướng từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Vì các lý do đó, trong
trường hợp này Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập một mặt để giải quyết yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập (nếu có); mặt khác việc xét xử vắng mặt này giúp giải quyết hiệu
quả vụ án mà vẫn khơng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người vắng mặt.
Quy định về việc xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tồ
trong vụ án hành chính tương tự với vụ án dân sự (Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự


19

năm 2015) nhưng lại khác với quy định trong phiên tồ về vụ án hình sự như đã
phân tích ở trên.
Ba là, thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng (Điều
168)
Mục đích của việc xét xử vắng mặt đương sự trong các trường hợp quy định
tại Điều 158 là nhằm giải quyết nhanh chóng, kịp thời vụ án hành chính, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cũng như tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự. Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật TTHC năm 2015, trong trường
hợp này, căn cứ để xét xử là các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trình tự và
thủ tục bỏ qua bước hỏi và tranh luận. Do thủ tục hỏi và tranh luận chủ yếu dành
cho đương sự, do vậy nếu như khơng có mặt đương sự thì thủ tục này coi như
khơng cần thiết.
Quy định này của Luật TTHC năm 2015 giống với quy định tai Điều 228 Bộ

luật tố tụng dân sự năm 2015 về sự vắng mặt của đương sự tại phiên toà nhưng
trong vụ án hình sự khơng có chế định này xuất phát từ tính chất của vụ án hình sự,
dân sự và hành chính là khác nhau.
Bốn là, sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
(Điều 159, Điều 160, Điều 161)
Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch có vai trị hồn tồn
khác nhau trong việc giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, điểm chung của
những chủ thể này là họ phải có nghĩa vụ tham gia phiên tồ theo giấy triệu tập của
Tịa án. Tùy thuộc vào tính chất của từng vụ án cụ thể mà Tịa án có thể quyết định
triệu tập những người tham gia tố tụng khác là người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch “Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, việc xác định sự
thật khách quan của vụ án nhiều khi phụ thuộc vào lời khai của người làm chứng,
kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch”16. Vì vậy, sự có mặt
của họ khi được triệu tập có ý nghĩa quan trọng giúp phiên tòa sơ thẩm được tiến
hành thuận lợi, vụ án được giải quyết khách quan, chính xác. Cụ thể:
Đầu tiên, người làm chứng phải tham gia phiên toà để làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án, trình bày những gì mình biết về vụ án, người làm chứng khơng có
trách nhiệm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà trách nhiệm này phải thuộc về
Tòa án và đương sự. Chính vì sự quan trọng này nên nếu người làm chứng vắng mặt
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.324.
16


20

thì HĐXX phải hỗn phiên tồ hoặc tiến hành xét xử bình thường. Trường hợp
người làm chứng vắng mặt tại phiên tồ khơng vì lý do chính đáng và sự vắng mặt
của họ ảnh hưởng đến việc xét xử của vụ án thì có thể bị dẫn giải đến phiên toà theo
quyết định của HĐXX.

Tiếp theo, người giám định cũng có nghĩa vụ tham gia phiên tịa theo giấy
triệu tập của Tịa án nhằm mục đích cung cấp chứng cứ là các nhận xét, đánh giá
bằng văn bản của mình về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu
giám định và đảm bảo giá trị chứng minh của chứng cứ đó qua việc làm rõ những
vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định. Khi người giám định
vắng mặt thì tuỳ theo từng trường hợp mà HĐXX quyết định hỗn phiên tịa hoặc
vẫn tiến hành xét xử. Thông thường, HĐXX sẽ ra quyết định hỗn phiên tồ khi kết
luận giám định về các tình tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án
chưa rõ ràng hoặc mâu thuẫn với các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án mà không thể
khắc phục được nếu khơng có sự có mặt của người giám định để làm rõ hoặc đại
diện Viện kiểm sát, đương sự không đồng ý với kết luận giám định.
Cuối cùng, người phiên dịch tham gia vào vụ án hành chính với tư cách là
người dịch ngơn ngữ khác ra Tiếng Việt và ngược lại; họ tham gia tố tụng theo yêu
cầu của các đương sự hoặc theo giấy triệu tập của Toà án. Như vậy, khi vụ án có
người tham gia tố tụng khơng sử dụng được tiếng Việt hoặc là người câm, người
điếc sử dụng dấu hiệu riêng thì tại phiên tịa cần sự có mặt của người phiên dịch để
dịch từ ngôn ngữ, dấu hiệu mà người tham gia tố tụng đó sử dụng ra tiếng Việt và
ngược lại. Trong trường hợp này, người phiên dịch là cầu nối giữa người tham gia
tố tụng với mọi người tại phiên tòa, hỗ trợ hoạt động xét xử có thể tiến hành và đảm
bảo tính chính xác. Sự vắng mặt của người phiên dịch sẽ dẫn đến việc HĐXX
khơng có cơ sở để xác định chính xác lời khai, yêu cầu của người tham gia tố tụng
thuộc trường hợp cần người phiên dịch tại phiên tịa, thậm chí giữa họ và những
người còn lại tham gia phiên tòa khơng thể giao tiếp với nhau. Do đó, Khoản 2 Điều
156 Luật TTHC năm 2015 quy định trong trường hợp người phiên dịch vắng mặt
mà khơng có người khác thay thế thì HĐXX phải ra quyết định hỗn phiên tịa.
Các quy định về sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong tố tụng hành chính cũng tương tự như khi giải quyết vụ án dân sự
(Điều 229, Điều 230 và Điều 231 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) và vụ án hình
sự (Điều 293, Điều 294 và Điều 295 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Thứ sáu, hỗn phiên tồ (Điều 162, Điều 163)



21

Một là, những trường hợp hỗn phiên tịa. Điều 162 Luật TTHC năm 2015
đã liệt kê chi tiết những trường hợp hỗn phiên tịa như sau: (1) Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án mà khơng có
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu để thay thế; (2)
Thư ký Tòa án vắng mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia phiên tịa mà khơng có
người thay thế; Kiểm sát viên vắng mặt mà khơng có Kiểm sát viên dự khuyết tham
gia phiên tịa từ đầu để thay thế; (3) Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự
và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
vắng mặt mà khơng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; người phiên dịch vắng mặt mà
khơng có người khác thay thế; (4) thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký
phiên toà, người phiên dịch bị thay đổi mà khơng có người thay thế ngay; (5) người
giám định bị thay đổi; cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung mà
không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa; (6) vắng mặt người làm chứng, người
giám định. Trừ trường hợp vắng mặt người làm chứng, người giám định, khi rơi vào
một trong các trường hợp còn lại vừa nêu, phiên tòa sơ thẩm bắt buộc phải được
hoãn lại. Lý do của sự bắt buộc này là vì khơng thể khắc phục các trường hợp đó
ngay tại phiên tịa để phiên tịa diễn ra theo đúng thủ tục tố tụng thông thường và
nếu tiến hành xét xử có thể sẽ khiến cho việc giải quyết vụ án hành chính khơng
cơng bằng, khách quan, chính xác. Đối với trường hợp người làm chứng, người
giám định vắng mặt tại phiên tịa thì việc có hỗn phiên tịa hay khơng sẽ do chủ thể
có thẩm quyền xem xét và quyết định. Bởi lẽ tùy thuộc từng vụ án cụ thể mà sự có
mặt của người làm chứng, người giám định có ý nghĩa và mức độ quan trọng khác
nhau. Quy định này thể hiện sự mềm dẻo, tạo điều kiện cho vụ án được giải quyết
nhanh chóng, tránh mất thời gian vì những lý do khơng cần thiết.
Hai là, thẩm quyền và thủ tục hoãn phiên tịa. Thẩm quyền quyết định hỗn
phiên tịa sơ thẩm thuộc về HĐXX “Quyết định hỗn phiên tịa phải được thảo

luận, thơng qua tại phịng nghị án và phải được lập thành văn bản”17. Quyết định
hỗn phiên tịa cần ghi nhận đầy đủ các vấn đề như: ngày, tháng, năm ra quyết định;
tên Tòa án và họ, tên những người tiến hành tố tụng; vụ án được đưa ra xét xử; lý
do của việc hỗn phiên tịa và thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa theo quy định tại
Khoản 2 Điều 167 Luật TTHC năm 2015. Các thông tin này sẽ là cơ sở để xác định
việc tuân thủ các quy định tố tụng có liên quan như căn cứ, thời hạn hỗn phiên
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.303.
17


×