Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Địa vị pháp lý của hợp tác xã trong hoạt động kinh doanh thương mại theo luật hợp tác xã năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.83 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tác giả luận văn Thái Trường An

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC XÃ
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANHTHƯƠNG MẠI THEO LUẬT HỢP TÁC XÃ
NĂM 2003

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên Ngành: LUẬT
Mã số: 603850

KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN


-2-

Lời nói đầu

1. Tính thời sự của đề tài
Hợp tác xã là thành quả của nền văn minh nhân loại, được khởi nguồn và
xuất phát từ mong muốn, ước mơ về một xã hội dân chủ, công bằng, một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người dân lao động,
những người nghèo, những người yếu thế. HTX là loại hình kinh tế với đầy tính
nhân văn như trung thực, cởi mở, trách nhiệm với xã hội và quan tâm đến cộng
đồng. V.I Lê-nin đã từng nói “HTX chính là một chủ nghĩa xã hội thu nhỏ”.


Những tư tưởng cơ bản về HTX đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận
từ rất sớm trong tác phẩm “Đường cách mệnh”. Ngay sau khi nước Việt nam dân
chủ cộng hoà được thành lập, HTX đã bắt đầu được xây dựng và phát triển.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay HTX vẫn thực sự đóng vai trị to lớn không thể
thiếu trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Hội nghị trung ương V khố IX thơng qua Nghị quyết về “tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trong đó khẳng định “ phát
triển kinh tế tập thể là con đường giải quyết mâu thuẩn giữa sản xuất nhỏ, manh
mún và sản xuất hàng hố lớn trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước”. Nghị quyết cũng khẳng định: “ kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa
dạng mà nịng cốt là hợp tác xã”.
Hợp tác xã là mơ hình kinh tế hoạt động rất đa dạng và phong phú. Trong
bối cảnh phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mơ
hình kinh tế hợp tác xã được Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng và khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển, bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp của hợp tác xã theo qui định của pháp luật, bảo đảm áp dụng thống
nhất, nghiêm chỉnh, đầy đủ các qui định của Luật hợp tác xã năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Nhằm đảm bảo nền kinh tế thị trường phát triển


-3-

đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải
đóng vai trị chủ đạo. Vì vậy cũng cố và phát triển hợp tác xã là một u cầu có
tính chính trị, kinh tế và xã hội.
Ngày 24/3/2007 Hội đồng lý luận TW nhiệm kỳ 2006 – 2010 đã khai mạc
kỳ họp thứ nhất. Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh phát biểu và đề nghị giới lý luận
nước ta tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận then chốt, ( có năm vấn đề
lớn) trong lĩnh vực kinh tế có một nội dung là: nghiên cứu lý luận , tổng kết thực
tiễn các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.

Hợp tác xã là một mơ hình sản xuất kinh doanh, hoạt động như một loại
hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân.
Hoàn thiện cơ chế pháp lý, ban hành các chính sách tạo động lực, đổi mới
mơ hình tổ chức, phuơng thức hoạt động, xác định địa vị pháp lý của hợp tác xã
trong kinh doanh-thương mại khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn là một
đòi hỏi từ thực tiễn khách quan cho việc hoàn thiện pháp luật, xây dựng và phát
triển hợp tác xã.
Tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh chính là yếu tố tồn tại và phát
triển của hợp tác xã thông qua đó khẳng định vai trị của hợp tác xã trong nền
kinh tế nhất là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Ở nước ta, với nền kinh tế nông nghiệp là phổ biến và vẫn cịn ở trình độ
thấp, sức lao động dồi dào trong khi nguồn vốn còn hạn chế thì hình thức hợp tác
xã thực sự trở thành một trong các phương pháp tối ưu. Để những người có điều
kiện hạn chế có thể liên kết với nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh tăng
sức cạnh tranh, tồn tại và phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp nơng
thơn. Câu hỏi đặc ra là vì sau Đảng, Nhà nước ta đặc biệt qua tâm và có nhiều
chính sách ưu đãi để HTX phát triển thế nhưng trong thời gian qua vẫn chưa
phát triển tốt, lý do là từ cơ sở pháp lý hay do mơ hình chưa phù hợp, hay do tư
tưởng hồi nghi về mơ hình kinh tế hợp tác? .Từ thực tế tỉnh nhà (Vĩnh Long) có


-4-

hơn 70% kinh tế nông nghiệp, làm thế nào để liên kết người sản xuất - hình
thành nên những vùng nguyên liệu lớn có chất lượng và ổ định, để cung ứng cho
thị trường và xuất khẩu. Cách tốt nhất là người dân phải họp tác với nhau, theo
các mô hình kinh tế hợp tác mà đỉnh cao là HTX. Chính vì vậy mà tác giả chọn
đề tài “Địa vị pháp lý của HTX trong kinh doanh- thương mại, theo Luật HTX
năm 2003” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. Vì trên thực tế Luật HTX
2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến áp dụng

trên thực tiễn hiệu quả không cao. Với mong muốn rằng khi nghiên cứu sẽ tìm ra
những bất cập về lý luận, những vướng mắt thực tiễn, nhằm đề xuất những giải
pháp thích hợp cho việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật và trong việc ban
hành các chính sách về HTX góp phần thúc đẩy HTX ngày càng phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu
Lịch sử phát triển HTX nước ta trải qua nhiều bước thăng trầm. Giai đoạn
đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường,
HTX kiểu cũ đã khơng cịn phù họp, phần lớn làm ăn kém hiệu quả, số giải thể,
số tồn tại về hình thức. Do ảnh hưởng tư tưởng HTX kiểu cũ nên xã hội lúc bấy
giờ khơng cịn “mặn” với mơ hình kinh tế hợp tác, thậm chí hiện nay có người
cho rằng HTX đang “chết” dần. Vì vậy ít có đề tài nghiên cứu về HTX. Thế
nhưng từ khi Việt Nam dần hình thành kinh tế thị trường và đạc biệt sau khi gia
nhập WTO, phần đông trong xã hội nhận ra rằng HTX là cần thiết, sẽ phát triển
đó là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Từ đó các nhà nghiên
cứu đã quan tâm nhiều hơn về HTX, có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu
khoa học như: nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX, các đề tài
về mơ hình HTX kiểu mới, mơ hình HTX làm ăn có hiệu quả ở một số tỉnh…
Về góc độ pháp lý hiện chưa có nhiều đề tài nghiên cứu, Tại trường Đại Học
Luật TP. Hồ Chí Minh có hai đề tài nghiên cứu về hợp tác xã của hai học viên
lớp cao học luật khoá 1 và khoá 5: Đề tài pháp luật hợp tác xã Việt Nam thực


-5-

trạng và hướng hoàn thiện (tác giả Nguyễn Thanh Lê). Đề tài được nghiên cứu
vào thời điểm chưa ban hành luật hợp tác xã năm 2003. Tác giả có nhiều quan
điểm mới, những đề xuất kiến nghị phù hợp với luật hiện hành. Đề tài thứ hai:
Những điểm mới của luật hợp tác xã 2003 (tác giả Trần An khánh) nội dung
chính của đề tài là tác giả so sánh giữa các qui định pháp luật trước khi ban hành
Luật hợp tác xã 2003, so sánh với những qui định trong Luật hợp tác xã năm

2003 và chỉ ra những điểm mới. Có nhiều đề tài luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên
cứu về HTX nhưng phạm vi nghiên cứu là về mơ hình HTX kiểu mới, phần lớn
là lý luận, ít đề cập về mặt pháp lý. Tóm lại chưa có đề tài nào nghiên cứu về địa
vị pháp lý của hợp tác xã trong kinh doanh-thương mại có tính chuyên sâu về lý
luận và trên thực tiễn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về địa vị pháp lý của hợp tác xã trong hoạt
động kinh doanh-thương mại, các chính sách đối với hợp tác xã, thực tiễn áp
dụng pháp luật và hoạt động của hợp tác xã. Các luận văn cao học các bài viết về
hợp tác xã, một số tài liệu nước ngồi có liên quan, Tài liệu các lớp tập huấn, hội
thảo, thực tiễn hoạt động của hợp tác xã trên một số lĩnh vực cụ thể trên địa bàn
một số tỉnh Đồng bằng sông cửu long.
Phạm vi nghiên cứu: các qui định của Luật về hợp tác xã năm 1996, 2003,
các văn bản hướng dẫn thi hành về: mơ hình, thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ
chức lại, giải thể, phá sản, các chính sách hỗ trợ hợp tác xã.
4 . Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận:
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hợp tác xã, nhận định của Mác-Lênin
về hợp tác xã, tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã, quan điểm pháp lý một số
nước về HTX, các văn bản pháp luật về hợp tác xã qua các thời kỳ trước và sau
khi đổi mới, hợp tác xã một số nước trên thế giới


-6-

Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp duy vật biện chứng,
phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp với phương pháp thống kê,
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích mơ tả…, dựa trên quan điểm,
đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước. Trong đó, phương pháp phân tích các

quy phạm pháp luật, phương pháp nghiên cứu pháp lý dựa trên các tiêu chí xã
hội và phương pháp luật học so sánh được coi là những phương pháp chủ đạo,
được áp dụng trong quá trình thực hiện bản luận văn này.
5. Kết quả đạt được.
Hoàn thiện cơ sở lý luận về tư cách chủ thể của hợp tác xã, hoàn thiện pháp
luật, đề ra những chính sách ưu đãi phù họp tạo động lực phát triển hợp tác xã.
Với kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác
tuyên truyền, phổ biến Luật HTX năm 2003 và các văn bản có liên quan cho các
lớp bồi dưỡng về HTX và cho các xã viên, cơ sở kiến nghị sửa đổi Luật HTX
năm 2003 và các chính sách.
6. Bố cục luận văn
Chương 1:
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
HỢP TÁC XÃ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH-THƯƠNG MẠI.

Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC XÃ THEO LUẬT
HỢP TÁC XÃ NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ ĐẢM BẢO TĂNG CƯỜNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC
XÃ TRONG ĐIỀU KỊÊN HỘI NHẬP.


-7-

Chương 1:
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP
TÁC XÃ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH-THƯƠNG MẠI


1.1. Khái niệm niệm chung về địa vị pháp lý của HTX.
1.1.1 Sự ra đời và quan điểm pháp lý về HTX
Sự ra đời của HTX và mục tiêu, vai trị kinh tế-xã hội của nó:
Đầu thế kỷ XIX ( đặc biệt trong năm 1840 ), nhiều họp tác xã ở các nước
Châu Âu đã được hình thành trên cơ sở tổ chức giản đơn. Năm 1844 một nhóm
cơng nhân ở Rochdale – Vương quốc Anh đã thành lập HTX tiêu dùng, cùng
thời gian nầy những người lao động Pháp đã tổ chức thành lập một số HTX sản
xuất nông nghiệp. Đến thế kỷ XIX, HTX nhiều nước trên thế giới đã phát triển
mạnh cả về số lượng và chất lượng, nên đã xuất hiện nhu cầu họp tác và chia sẽ
quốc gia. Xuất phát từ thực tế đó, năm 1889, ông Vansitar Wil - Tổng thư ký liên
hiệp HTX toàn quốc Vương quốc Anh đã đứng ra thành lập Liên minh HTX
quốc tế ngày 19-8-1895, viết tắt là ICA, đến nay thu hút trên 96 quốc gia và
vùng lãnh thổ là thành viên Liên minh HTX quốc tế, với gần 1 tỷ xã viên, có
tiếng nói quan trọng trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Việt Nam là thành viên của
tổ chức nầy.
Phong trào HTX Việt Nam hình thành từ cuối những năm 50 đầu những
năm 60 thế kỷ XX. Trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ, cứu nước cùng với
kinh tế quốc doanh, kinh tế HTX đã đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển
chung của đất nước và phát triển kinh tế nơng thơn góp phần quan trọng vào
cơng cuộc giải phóng Miền nam thống nhất đất nước.
Ngay từ khi cịn bơn ba đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã quan tâm đến
tổ chức kinh tế hợp tác xã. Trong cuốn Đường cách mệnh viết năm 1927, sau khi
phân tích những lợi ích của HTX, Bác hồ nhấn mạnh: “ Tục ngữ An Nam có


-8-

những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng
nên non, nhiều cây nhóm lại nên hòn núi cao”. Lý luận về HTX điều ở trong
những điều ấy”. Bác nói về tính chất của HTX là tổ chức kinh tế - xã hội, nó

khác hội bn vì khơng thuần t kinh tế, nhưng khác hội từ thiện vì nó khơng
thuần t xã hội.(1) Một kết luận hết sức quan trọng của Bác khi nói về nguyên
tắc tự nguyện cũng như về bản chất của HTX là: “Cách tổ chức HTX phải dựa
trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và phải đi dần từ thấp đến cao”.
Từ khi HTX nước ta chưa hình thành Bác Hồ đã khẳng định một nguyên tắc hết
sức cơ bản về HTX là nguyên tắc tự nguyện. Bác đã chỉ ra con đường phát triển
bền vững của HTX là phải phát triển dần từ thấp đến cao.
Trong suốt q trình đó dù bận trăm cơng nghìn việc, Bác Hồ vẫn quan tâm
theo dõi phong trào HTX, động viên kịp thời những HTX gương mẫu, những
điển hình tiên tiến, đồng thời uốn nắn những hạn chế.
Qua quá trình phát triển HTX đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử.
Hiện tại HTX vẫn đã và đang tiếp tục phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Các nước công nghiệp phát triển là
cái nôi ra đời và phát triển HTX gần 200 năm qua trên thế giới.
Về mặt kinh tế, HTX đã phát triển đa dạng cả về nội dung, hình thức và
ngành nghề hoạt động, là thể chế tập họp những người sản xuất nhỏ, tạo thành
sức mạnh đảm bảo cho những người sản xuất nhỏ có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh thị trường, nhất là khi bị các doanh nghiệp lớn chèn
ép. HTX còn thực hiện tốt chức năng vừ giúp đỡ các thành viên phát triển kinh
tế, cải thiện đời sống, vừa tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh chung đáp ứng
nhu cầu xã hội.

(1)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về họp tác xã Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 2001 tr 8


-9-

Về mặt chính trị-tư tưởng, HTX là trào lưu xã hội chống lại thống trị của tư

bản, đề cao giá trị con người vào thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp và được
duy trì phát triển cho đến ngày nay.
Về mặt văn hoá xã hội, HTX là tổ chức giúp các cá nhân hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau trong lao động và đời sống, phát huy hoạt động cộng đồng, đề cao tinh
thần tương trợ, đoàn kết và đặc biệt là giáo dục cộng đồng.
HTX nước ta thành lập trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá trước đây đều
là “HTX tồn xã” (1) nghĩa là tất cả gia đình trong một xã đều là xã viên HTX.
Phần lớn sự thành lập các HTX lúc bấy giờ không phù họp với nguyện vọng của
xã viên, chủ yếu là dựa trên việc tập thể hố một cách gượng ép, nếu khơng
muốn nói là “cưỡng bức”, tư liệu sản xuất của hộ gia đình. Như vậy nếu chúng ta
xét từ góc độ ngun tắc tự nguyện thì việc họp tác hố như vậy đã không xuất
phát từ nhu cầu của người nông dân, nếu chúng ta xem quan hệ họp tác nầy là
quan hệ sản xuất thì nó lại khơng phù họp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Lúc bấy giờ tư cách chủ thể của HTX nước ta không rõ ràng, trước nhất là chưa
có luật điều chỉnh và sự thành lập HTX chủ yếu là theo kế hoạch và theo các
mệnh lệnh hành chính. Về tài sản giữa xã viên và họp tác xã cũng chưa tách
bạch, sản xuất kinh doanh lại theo chỉ tiêu kế hoạch, nói tóm lại trong thời điểm
đó chủ yếu chịu sự can thiệp từ phía Nhà nước. Chính từ những nguyên nhân
như vậy đã làm cho HTX ngày một yếu kém. Do vậy khi chuyển từ nền kinh tế
tập trung sang kinh tế thị trường thì cơ chế đó lại càng khơng phù họp, dẫn đến
nhiều HTX hoạt động kém hiệu quả phải giải thể, tồn tại về hình thức. Đảng,
Nhà nước đã có nhiều biện pháp cũng cố và phát triển mơ hình kinh tế họp tác
trong suốt thời gian qua, sự thật có lúc cịn lơ là, nhưng thời gian gần đây sự chỉ
đạo có tính quyết liệt hơn của cả hệ thống chính trị vì vậy hiện nay đã có dấu
hiệu phục hồi và phát triển tính đến 01/7/2007 cả nước có 17.138 HTX, thu hút
(1)


- 10 -


khoản 8 triệu xã viên là cá nhân, hộ gia đình và các thành phần kinh tế 1. Tổng
hợp báo cáo phân loại HTX 54 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong
13.544 HTX có 6379 HTX nơng nghiệp (chiếm 47,1%), 3180 HTX công nghiệp
(chiếm 23%), 753 quỹ Tín dụng nhân dân (chiếm 5,6%), cịn lại là các HTX lâm
nghiệp, thuỷ sản, xây dựng…. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã nội chủ nghĩa thì mơ hình kinh tế tập thể là phương tiện và là điều
kiện để đạt đến mục tiêu. Vai trị đó càng thể hiện rõ trên thực tế, vai trò nổi bậc
quan trọng hàng đầu của HTX là thúc đẩy kinh tế của khoản 8 triệu xã viên trong
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và tăng thu nhập. Năm 2006 HTX đóng góp
khoản 6,61% trong tổng GDP của cả nước, giá trị tăng của toàn bộ khu vực kinh
tế tập thể ước tính chiếm khoản 15% GDP cả nước trong giai đoạn 2000-2006 là
một tỷ lệ không nhỏ.
Vai trị trong lĩnh vực văn hố xã hội: Riêng khu vực HTX thu hút trên 10
triệu lao động, bao gồm lao động làm thuê trong HTX và lao động là xã viên.
Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, lao động khu vực kinh tế tập thể tập
trung chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản chiếm tới 96% tổng số lao
động, còn lại trong các lĩnh vực khác chiếm tỷ lệ không đáng kể như: xây dựng
0,07%, dịch vụ 4%.
Thơng qua việc đạt được lợi ích chung về kinh tế, xã viên HTX gắn kết
hơn với nhau, dần mở rộng các sinh hoạt cộng đồng, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau
trong hoạt động sản xuất-kinh doanh và đời sống, cải thiện đời sống văn hoá.
Nhiều xã viên đã ổn định được hoạt động kinh doanh vận tải của mình nhờ dịch
vụ hỗ trợ của HTX dịch vụ vận tải. Ở nhiều tỉnh HTX vận tải đảm nhiệm tới
80-90% nhu cầu vận chuyển nội tỉnh.

1

số liệu của vụ Hợp tác xã Bộ kế hoạch đầu tư – tài liệu hội thảo tại TP cần Thơ 20/10/2007



- 11 -

Hoạt động của HTX đang có xu hướng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực
như giáo dục, y tế, mơi trường, văn hố, từ đó tác động tích cực trở lại kinh tế xã
viên, góp phần cải thiện mọi mặt đời sống xã viên và đời sống cộng đồng.
Việc phát triển cộng đồng, nhất là ở nông thôn góp phần quan trọng trong
giải quyết vấn đề xã hội, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương trợ lẫn
nhau trong đời sống, giúp đỡ gia đình khó khăn, xây dựng, phát triển cộng đồng.
Có thể nói họp tác là một tất yếu khách quan của xã hội loài người, từ khi
xuất hiện lồi người đã có sự họp tác, qua quá trình phát triển của lịch sử thì sự
họp tác đó thể hiện ở những trình độ khác nhau.
Hình 1: Khái lược lịch sử phát triển của “hợp tác” và “hợp tác xã”
HTX-Hợp tác trở
thành văn hoá phổ
biến, là tương lai
của XH hiện đại: xã
hội hợp tác

Trình độ phát triển.

Hợp tác trở thành
tư tưởng, được
hiện thực hố
thơng qua tổ chức
HTX
Hợp tác trở
thành mặt kia
của cạnh tranh
thị trường


Hợp tác như
là một nhu
cầu cho cải
thiện lợi ích
vật chất, tinh
thần
Hợp tác
như là một
bản năng
sinh tồn
của con
người trước


- 12 -

Các quan điểm, ghi nhận về pháp luật khác nhau về HTX trong một số nước.
Hợp chủng quốc hoa kỳ:(1)
Dân số hợp chủng quốc Hoa kỳ vào khoản 278.058.881 người ( tháng 7
năm 2001), thu nhập bình quân 36.200 USD/ người ( năm 2000 ). HTX đầu tiên
của Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1810. Đến năm 2001, Hoa Kỳ có 47000
HTX , với 120 triệu xã viên. Như vậy tính bình qn trên dân số thì trong 100
cơng dân Mỹ có 40 cơng dân là xã viên HTX.
Khu vực HTX trở thành một loại hình kinh tế quan trọng thứ tư của hoa
Kỳ. Chính phủ ban hành luật và điều lệ về HTX để giúp các HTX đạt được
những mục tiêu kinh tế và xã hội. Địa vị pháp lý của HTX hoa kỳ được xác định
là bình đẳng với các loại hình kinh doanh khác, Chính phủ Hoa Kỳ ln có chính
sách ưu đãi cho loại hình kinh tế HTX.
Năm 2000 Bộ nơng nghiệp Hoa Kỳ có chương trình hổ trợ cho các Trung
tâm phát triển HTX 4 triệu USD và Tổng thống Hoa Kỳ đã đề nghị tăng lên 6

triệu USD trong năm ngân sách tài chính 2001. Hội đồng quốc gia HTX nơng
nghiệp, là cơ quan tư vấn, nơi các tổ chức thành viên bày tỏ ý kiến của mình.
Hội đồng nầy sẽ tham vấn cho các quan chức chính phủ về chính sách có ảnh
hưởng đến thành viên của HTX.
Viện HTX Hoa Kỳ là nơi tổ chức, đào tạo cho cán bộ, xã viên cho các
HTX nông nghiệp trong cả nước.
Ấn Độ(1)
Nhận thức rõ vai trị của HTX chiếm vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực nền
kinh tế quốc dân, Chính phủ Ấn Độ coi sự hỗ trợ HTX như là một nguyên tắc.

(1)

Xem phong trào HTX Quốc tê qua gần hai thế kỷ. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Tác giả Nguyễn Ty. Tr 89.
Xem phong trào HTX Quốc tê qua gần hai thế kỷ. Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2002. Tác giả Nguyễn
Ty. Tr 35, 36.
(1) )


- 13 -

Pháp lệnh đầu tiên về HTX của Chính phủ Ấn Độ được ban hành vào năm 1904,
Luật HTX được hồn chỉnh và thơng qua vào năm 1912.
Ban đầu, HTX Ấn Độ được coi như là một phong trào tín dụng nhằm giảm
bớt sự khó khăn cho cộng đồng nơng dân nghèo bằng việc hỗ trợ tín dụng cần
thiết để nâng cao sản xuất nông nghiệp. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập, các
HTX được coi là bộ phận quan trọng để làm thay đổi nền kinh tế đất nước và sự
quan tâm của Chính phủ đối với lĩnh vực HTX, được thừa nhận là một công cụ
cơ bản đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu quốc gia.
Chính Phủ Ấn Độ thành lập cơng ty quốc gia phát triển HTX. Công ty nầy
đang thực hiện nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ

nông sản, hàng tiêu dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời có các dự án
phát triển ở các vùng nơng thơn lạc hậu.
Chính phủ áp dụng các biện pháp hữu hiệu để phát triển toàn diện khu vực
HTX. Chính phủ đang xem xét một chính sách quốc gia mới đối với HTX và
Luật HTX mới sẽ tạo điều kiện cho các HTX, có thể thực hiện tốt hơn chức năng
của HTX và hầu như không có sự kiểm sốt và can thiệp từ bên ngồi. Theo
chính sách mới của Chính phủ, việc xúc tiến xuất khẩu, thiết lập các cơ sở chế
biến hàng nông sản trong khu vực HTX địi hỏi phải có sự đổi mới công nghệ và
phát huy các nguồn nguyên liệu nên, Chính phủ sẽ có chính sách ưu tiên.
Một chiến lược đã được xác định và đang thực hiện nhằm phát triển HTX ở
Ấn độ là:
- Sửa đổi Luật HTX, tạo cho HTX tự chủ và năng động hơn.
- Thực hiện các cải cách về cơ cấu nhằm cung cấp môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của HTX.
- Chấn chỉnh hệ thống tín dụng HTX.
- Tạo thêm một mạng lưới thông tin về sự tương hỗ giữa những
người nghèo nông thôn với các tổ chức HTX.


- 14 -

- Bảo đảm trách nhiệm của các liên đoàn HTX đối với các đơn vị
thành viên.
Trung Quốc.(1)
HTX cung tiêu Trung Quốc là các tổ chức kinh tế hợp tác, nơng dân là lực
lượng chính. Hiện nay có khoản 180 triệu hộ nông dân là xã viên HTX chiếm
80% tổng số hộ nơng dân tồn quốc. Tổng số vốn cổ phần là 24.5 tỷ nhân dân tệ.
Có 31 liên đoàn HTX cấp tỉnh, 21.000 liên đoàn cấp thành phố, 29.500 cấp cơ
sở, 10.000 họp tác xã chuyên ngành. Số cán bộ, nhân viên là 4.55 triệu.
Các hoạt động chính của HTX cung tiêu Trung Quốc:

- Hướng dẫn nhà nông trong việc phát triển sản xuất hàng hoá, hỗ trợ
kinh tế nơng nghiệp, có 200.000 cán bộ kỷ thuật hỗ trợ nông dân, thành
lập trên 4.300 cơ sở sản xuất qui mô lớn.
- Cung ứng dịch vụ kinh doanh như: mua, lưu kho, phân phối, cung ứng
và phân tích đất, phân bón, sử dụng thuốc trừ sâu.
- Hoạt động tiêu thụ: các trung tâm thu mua nơng sản, có hơn 2.500 trung
tâm thu mua lớn.
- Kinh doanh bán buôn, bán lẻ.
- Chế biến và sản xuất: sản xuất và chế biến nông sản là ngành phát triển
nhanh của HTX cung tiêu có trên 6.100 nhà máy.
- Tái chế phế liệu: các HTX có một mạng lưới rộng khắp đất nước gồm
hơn 100.000 trung tâm thu mua phế liệu, tuyển trên 800.000 người.
- Kho bãi và chuyên chở: HTX cung tiêu hình thành một hệ thống lưu
kho và vận chuyển hồn chỉnh gồm hơn 103 triệu m2 kho tổng hợp,
58,76 triệu m2 kho chứa hàng ngồi trời, kho lạnh tổng cơng xuất 1,134

(1) )

Xem phong trào HTX Quốc tê qua gần hai thế kỷ. Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2002. Tác giả Nguyễn
Ty. Tr 214-223


- 15 -

triệu tấn, hơn 200.000 xe máy, hơn 2.000 tàu vận tải và 213,85km
đường sắt chuyên dụng.
- Ngành dịch vụ.
- Khoa học công nghệ.
- Giáo dục đào tạo: các HTX Trung Quốc thành lập gần 1000 cơ sở giáo
dục, có hơn 120 trường dạy nghề.

- Hợp tác quốc tế: là thành viên của ban lãnh đạo Liên minh HTX quốc tế
( ICA )
Hiện nay các HTX cung tiêu Trung Quốc không ngừng cũng cố để tăng
cường chức năng phục vụ nông nghiệp của họ, điều chỉnh cơ cấu các ngành, mở
rộng các phạm vi kinh doanh và phục vụ, hỗ trợ nền kinh tế thị trường tiến vào
thế kỷ XXI với một thái độ tích cực.
HTX Trung Quốc hiện rất phát triển nhưng đến nay chưa có Luật HTX,
nhưng Chính phủ Trung Quốc dành sự giúp đỡ, hỗ trợ về vật chất để duy trì phát
triển HTX trong kế hoạch phát triển đất nước hàng năm. Về địa vị pháp lý của
HTX ở Trung Quốc được xác định là bình đẳng với các loại hình kinh doanh
khác. Khi thành lập cũng phải theo những trình tự thủ tục pháp lý bắt buộc.
1.1.2 Họp tác xã trong pháp luật Việt nam qua các giai đoạn phát triển.
Quan điểm về kinh tế HTX và địa vị pháp lý của nó trong giai đoạn
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trước thời kỳ đổi mới do chế độ kinh tế nước ta là tập trung, bao cấp nên
HTX được thành lập trên cơ sở sự chỉ đạo của Đảng, thông qua mệnh lệnh hành
chính và các chỉ tiêu-kế hoạch.
Mơ hình HTX thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp có
một số đặc trưng cơ bản sau:
-

Khơng được quy định bởi khung pháp lý có hiệu lực chung ổn định lâu dài
như Luật, Nghị định.


- 16 -

-

Việc thành lập HTX được thực hiện theo các quyết định hành chính nhà

nước theo trình tự từ cấp cơ sở (xã) đến trung ương.

-

Xã viên về nguyên tắc tham gia họp tác trên tinh thần tự nguyện, nhưng
thực tế là áp đặc hành chính nhà nước.

-

Mơ hình HTX thực chất là tập thể hóa tư liệu sản xuất, tổ chức sản xuất
chung tập thể, khơng tính tới nhu cầu chung, sự tự nguyện của xã viên và
yêu cầu về hiệu quả sản xuất.

-

Tổ chức và hoạt động của HTX được chỉ đạo một cách tập trung, thống
nhất từ trung ương tới cấp cơ sở về các mặt; cung ứng nguyên nhiên vật
liệu đầu vào cho sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất, qui định giá cả và
tiêu thụ.

-

Họp tác xã còn là tổ chức xã hội, có trách nhiệm về đời sống xã hội như:
nhà trẻ, dịch vụ y tế....

Như vậy xét về góc độ pháp lý, HTX kiểu cũ mang tính chất quốc doanh, “nửa
nhà nước”, tuyệt đối hố vai trị tập thể, sở hữu tập thể và sản xuất tập thể, đi đôi
với việc hầu như phủ định vai trò kinh tế xã viên (kinh tế hộ và kinh tế cá thể),
phủ định sở hữu cá thể, trong bối cảnh chung của cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp.

Khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mơ hình HTX kiểu cũ khơng
cịn phù họp cho sự tồn tại và phát triển. Để cũng cố và tạo khuông khổ pháp lý
tạo động lực để HTX phát triển, Quốc hội đã ban hành Luật HTX 1996. Về mơ
hình HTX theo Luật HTX năm 1996 có các đặc điểm cơ bản sau:
Theo Luật HTX năm 1996 tại điều 1 qui định: “HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp sức, góp vốn lập ra theo
qui định pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả cao hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ


- 17 -

và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”. Định
nghĩa trên bao hàm các nội dung:
-

HTX là tổ chức kinh tế tự chủ.

-

Xã viên là người lao động tham gia tự nguyện.

-

Xã viên có nhu cầu lợi ích chung.

-

Xã viên cùng góp sức, góp vốn.


-

Xã viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.

Về quan hệ pháp lý trong HTX thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau đây:
Quan hệ sở hữu: cùng góp vốn nên xã viên là đồng chủ sở hữu HTX.
Quan hệ lao động-sở hữu: quy định, cùng góp vốn, góp sức. Qui định như vậy là
chưa rõ về mặt pháp lý. Vì góp vốn đi đơi với góp sức, hay chỉ góp sức mà
khơng cần góp vốn.
Quan hệ kinh tế giữa xã viên HTX-thị trường không rõ ràng. Qui định giúp nhau
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện
đời sống. Qui định như vậy chưa định hướng rõ thị trường của HTX, qui định
của Luật là chưa rõ là của xã viên hay của HTX. Trong quan hệ HTX và xã
viên, chưa xác định ai là chủ thể chính: xã viên hay HTX.
Quy định: xã viên có nhu cầu, lợi ích chung, nhưng khơng qui định rõ là HTX có
nhằm đáp ứng, nhu cầu, lợi ích chung nầy hay khơng.
Quan hệ quản lý, phân phối cũng không rõ ràng. Do không rõ ràng về quan hệ
lao động, quan hệ kinh tế giữa HTX-xã viên-thị trường.
Quy định về mơ hình HTX tại Luật HTX 1996 làm cho HTX gần giống mơ hình
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Luật chưa quy định rõ sự khác
biệt giữa HTX với doanh nghiệp, chưa thể hiện rõ đặc trưng của HTX. Luật
cũng chưa quy định một cách rõ ràng mục tiêu của HTX. Qua thời gian thực
hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế, và chưa thúc đẩy được sự phát triển.


- 18 -

Quốc hội đã tiến hành sửa đổi và ban hành Luật HTX năm 2003 thay thế Luật
HTX 1996. Điều 1 Luật HTX năm 2003 có những nội dung cơ bản sau:

sung, bỏ 7 điều và giữ nguyên 9 điều. Luật HTX năm 2003 có các nội dung cơ
bản sau:
Làm rõ bản chất của HTX và chính sách nhà nước dối với HTX theo tư duy mới:
Một nội dung quan trọng được sửa đổi là về định nghĩa HTX. Trong Luật HTX
năm 1996 định nghĩa HTX là “tổ chức kinh tế tự chủ”, nhưng qua tổng kết 6
năm thực hiện thấy rằng, trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn đang còn bị các cơ
quan quản lý nhà nước xem như các tổ chức vừa là cơng cụ của chính quyền cơ
sở, vừa là tổ chức nặng tính xã hội, có nghĩa phục vụ chính quyền và cộng đồng
theo ý muốn của họ.(1)Luật HTX sửa đổi đã qui định: “ HTX là tổ chức kinh tế
tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của Luật này… HTX hoạt động như một
loại hình DN, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của
HTX theo qui định của pháp luật”. Theo định nghĩa trên, HTX được tổ chức theo
các nguyên tắc về tính tự nguyện, dân chủ và bình đẳng về lợi ích và trách nhiệm
của mỗi đối tượng tham gia HTX, đồng thời làm rõ bản chất HTX là một loại
hình DN, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm,về các nghĩa vụ tài chính của
mình và bình đẳng với các loại hình DN khác trong q trình hoạt động. Qua đó
đã tạo ra cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX và chính các xã
viên HTX đổi mới nhận thức về loại hình tổ chức kinh tế nầy, xoá bỏ tư tưởng
coi HTX nặng về tổ chức xã hội, là bộ phận, là cánh tay của bộ máy cơng quyền.
Định nghĩa mới cịn xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX là phải
biết tự khẳng định mình là tổ chức kinh tế tự chủ, biết hoạt động nhanh nhạy,
biết cạnh tranh để tồn tại trong cơ chế thị trường.
(1)

tư liệu từ internet.


- 19 -


Trong quan hệ nội bộ, HTX là tổ chức mang tính tập thể và cộng đồng cao theo
các nguyên tắc đặc thù mà Luật HTX qui định: Các đối tượng tham gia là xã
viên HTX điều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, Đại hội xã viên có
quyền quyết định cao nhất, tại đó các xã viên có quyền cùng nhau quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của HTX, mỗi người một phiếu biểu quyết khơng
phụ thuộc vào mức độ vốn góp, xã viên HTX cùng nhau xây dựng một HTX
trên cơ sở cùng góp vốn, góp sức dưới nhiều hình thức theo quai định của Điều
lệ của từng HTX. Việc góp vốn vào HTX khơng mang mục đích thu lời mà là
trách nhiệm của xã viên, tạo ra kinh tế tập thể ban đầu khi HTX mới thành
lập…khi HTX hoạt động có lãi thì sau khi trích nộp thuế, lãi phải được ưu tiên
trích lập quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, số còn lại mới được trích lập quỹ khác và
chia theo vốn góp của xã viên đối với dịch vụ do HTX tạo ra.
Để làm rõ tính tự chủ của HTX Luật qui định HTX có quyền lựa chọn ngành
nghề kinh doanh. Thực tế cho thấy rằng kinh tế HTX là khu vực có nhiều người
nghèo tham gia nên khả năng cạnh tranh thấp, vì vậy Luật qui định nhà nước sẽ
có một số chính sách riêng phù họp với từng giai đoạn phát triển để hỗ trợ HTX
khắc phục khó khăn có thể tham gia thị trường, phát triển, mang lại lợi ích cho
đông đảo những người lao động nghèo tham gia HTX.
-

Theo qui định Luật HTX năm 1996 thì đối tượng tham gia HTX chỉ là:
“những người lao động”, như vậy đã có hạn chế các đối tượng. Luật HTX
năm 2003 thì mở rộng đối tượng tham gia như cán bộ công chức, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, kể cả các pháp nhân.

-

Về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh đã được đơn giản hố, tạo sự
thơng thốn và bình đẳng giữa HTX và DN trong đăng ký kinh doanh,

giảm bớt những thủ tục và quy định khơng cần thiết mà vẫn bảo đảm tính
chặt chẽ trong đăng ký kinh doanh.


- 20 -

-

Luật HTX mới bỏ qui định về điều lệ mẫu và bổ sung nhiều nội dung quan
trọng trong qui định điều lệ HTX, bỏ qui định Chính phủ ban hành điều lệ
mẫu cho từng ngành riêng, đồng thời bổ sung một số nội dung, giúp HTX
thuận lợi hơn khi HTX xây dựng điều lệ của mình, những bổ sung thêm là:
điều kiện, thủ tục, cách thức tham gia vào HTX của các đối tượng, về
quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của các xã viên, nguyên tắc và đối
tượng đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc,
mức vốn góp tối thiểu, điều kiện trả lại vốn, thể thức quản lý và sử dụng
tài sản, vốn không chia của HTX, nguyên tắc trả cơng, chia lãi theo cơng
sức vốn góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX, xử lý
các khoản lỗ, cơ cấu tổ chức quản lý HTX, chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn của ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, chủ nhiệm HTX, Ban kiểm
soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc của HTX, người đại
diện theo pháp luật của HTX, chế độ xử lý vi phạm Điều lệ và nguyên tắc
giải quyết tranh chấp nội bộ, thể thức sửa đổi điều lệ. Ngoài ra, để giúp
HTX viết điều lệ, Luật qui định Chính phủ ban hành ba loại mẫu hướng
dẫn điều lệ HTX, đó là mẫu hướng dẫn điều lệ HTX nơng nghiệp, quỹ tín
dụng nhân dân, HTX phi nơng nghiệp. Các mẫu nầy sẽ được thiết kế các
chỉ dẫn cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu và mang tính hướng dẫn để HTX tham
khảo khi viết điều lệ.

Một điểm mới trong quản lý điều hành là đã tách ra khỏi chức năng điều hành.

Đã qui định trong HTX phải tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành,
nhưng không nhất thiết phải tổ chức hai bộ máy riêng biệt. Việc quyết định bố
trí một bộ máy thực hiện cả hai chức năng hay tách riêng thành hai bộ máy để
thực hiện từng chức năng là do hội nghị thành lập HTX hoặc Đại hội xã viên
HTX quyết định. Luật không qui định loại nào tổ chức một bộ máy và loại nào
tổ chức hai bộ máy. trường họp HTX không quyết định tổ chức riêng bộ máy


- 21 -

quản lý và bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy vừa quản lý vừa điều
hành HTX là chủ nhiệm HTX. Chủ nhiệm HTX phải là xã viên HTX do Đại hội
xã viên bầu. Trường họp HTX quyết định tổ chức riêng bộ máy quản lý và điều
hành thì Luật qui định bộ máy quản lý là Ban quản trị với người đứng đầu là
trưởng Ban quản trị. Bộ máy điều hành là Ban chủ nhiệm với người đứng đầu là
Chủ nhiệm HTX. Trong trường họp nầy HTX có thể thuê Chủ nhiệm giữ chức
năng điều hành HTX. Đổi mới như vậy đã tạo ra khung pháp lý cho HTX từ
quyết định lựa chọn mơ hình tổ chức quản lý cho phù họp với trình độ phát triển
của mình, đáp ứng được tình hình phát triển HTX hiện nay, với nhiều trình độ,
qui mơ và khả năng quản lý khác nhau. Riêng đối với Liên hiệp HTX Luật lại
qui định phải tách rõ hai bộ máy quản lý và điều hành. Bộ máy quản lý là Hội
đồng quản trị, người đứng đầu là Chủ tịch HĐQT. Bộ máy điều hành là Ban
giám đốc, người đứng đầu là giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
-

Trong Luật mới đã làm rõ tài sản và vốn không chia của HTX: Luật mới
qui định HTX phải hình thành vốn và tài sản chung khơng chia, được hình
thành từ các nguồn vốn do Nhà nước trợ cấp, quà biếu, tặng của các tổ
chức, cá nhân và trích một phần từ quỹ phát triển HTX. Khi giải thể, HTX
không chia cho xã viên vốn và tài sản chung do Nhà nước trợ cấp mà

chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý. Đối với vốn và tài sản
chung của HTX được hình thành từ các nguồn vốn của HTX và công sức
của các xã viên, quà biếu thì do Đại hội xã viên quyết định. Qui định như
vậy đã làm rõ yêu cầu các HTX phải quan tâm đến vốn và tài sản thuộc sở
hữu tập thể.

-

Qui định mới của Luật HTX năm 2003 đã làm rõ vị trí, chức năng của
Liên minh HTX: theo qui định của Luật năm 1996 thì liên minh HTX
được qui định là “tổ chức phi chính phủ”. Xét về bản chất thì Liên minh
HTX là một tổ chức phi chính phủ, nhưng qui định như vậy đã tạo ra một


- 22 -

tâm lý không thuận đối với nhiều HTX, Liên hiệp HTX về việc tham gia
tổ chức Liên minh HTX. Vì vậy Luật HTX năm 2003 qui định “Liên minh
HTX là tổ chức kinh tế - xã hội”, “ Nhà nước tạo điều kiện để liên minh
HTX ở trung ương và địa phương hoạt động theo qui định của pháp luật”,
và “Chính phủ qui định cụ thể mối quan hệ cơng tác giữa liên minh HTX
với chính quyền các cấp” theo dó Liên minh HTX sẽ tiếp tục đổi mới trở
thành tổ chức Hiệp hội của các HTX và Liên minh HTX trong tương lai.
-

Luật HTX 2003 làm rõ quản lý nhà nước đối với HTX: để tăng cường và
làm rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với HTX, trong đó có nội dung rất
quan trọng là tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho cán bộ
quản lý HTX. Qui định Chính phủ thống nhất quản lý chung về nhà nước
đối với HTX, các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp trong phạm vi,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản
lý nhà nước đối với HTX.

-

So với Luật HTX năm 1996, thì Luật mới đã làm rõ các chính sách của
Nhà nước đối với HTX gồm nhiều nội dung như: Nhà nước ban hành và
thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển HTX về đào
tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, đất đai, tài chính, tín dụng, xây
dựng, quỹ hổ trợ phát triển HTX, áp dụng khoa học công nghệ, tiếp thị và
mở rộng thị trường, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Riêng chính sách Bảo hiểm xã hội cho xã viên và người lao động trong
HTX được qui định theo hướng: HTX có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội
theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc của Nhà nước cho xã viên là cá
nhân và người lao động làm việc thường xuyên cho HTX, nhưng để phù
họp với điều kiện của các HTX, Luật qui định: Đại hội xã viên sẽ quyết
định đối tượng cụ thể được đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo
hiểm xã hội bắt buộc của Nhà nước. Riêng HTX nơng nghiệp thì Luật mới


- 23 -

qui định: “ Chính phủ qui định cụ thể chính sách ưu đãi phù họp với đặc
thù và trình độ phát triển trong từng thời kỳ”. Qui định trên là căn cứ pháp
lý để Chính phủ nghiên cứu, ban hành các chế độ cụ thể cho từng chính
sách phù họp với điều kiện nước ta trong từng giai đoạn.
Tóm lại Luật HTX năm 2003 đã làm rõ hơn về bản chất và các nguyên tắc HTX,
vừa nâng cao địa vị pháp lý của HTX để bình đẳng với các loại hình doanh
nghiệp khác trong tham gia thị trường để phát triển, vừa bảo đảm những đặc thù
riêng


trong thành lập, tổ chức, quản lý và phân phối kết quả sản xuất, kinh

doanh.
Quan điểm về kinh tế HTX và địa vị pháp lý của nó trong giai đoạn phát
triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
HTX là một tinh hoa của nhân loại, trải qua quá trình phát triển gàn 200
năm, đóng góp đặc biệt quan trọng đối với phát triển của nhân loại về tất cả các
mặt: kinh tế, chính trị, văn hố của sự phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm quốc tế về HTX và truyền bá vào nước ta. Bác đã nhấn mạnh, HTX phải
mang lại lợi ích thiết thực cho xã viên, người khơng than gia HTX khơng được
hưởng lợi, có như vậy tạo sự hấp dẫn của HTX đối với nhân dân. Mặt khác Bác
đề cao tính bình đẳng của xã viên HTX.
Nhìn lại chặn đường Đổi mới kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác trong bối cảnh
chung của Đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chủ trương và
đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế tập thể hoàn toàn phù họp với tư
tưởng Hồ Chí Minh về HTX. Đặc biệt, Đảng ta đã kế thừa và phát huy tư tưởng
Hồ Chí minh rõ nét trong việc xác định ngày càng rõ hơn mô hình pháp lý HTX
và ý nghĩa chính trị, cũng như tầm vóc quan trọng của kinh tế tập thể, đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


- 24 -

Phát triển kinh tế tập thể là chủ trương đúng đắn, nhất quán xuyên suốt,
mang tầm cương lĩnh trong tất cả các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ X và các Đại hội trước đó, nhất là từ đại hội Đảng lần thứ VI đã
đề ra chủ trương đưa “kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Nghị quyết Đại hội VI nêu

rõ: “Phát triển kinh tế họp tác ở nước ta khơng chỉ nhằm mục đích kinh tế, mà
cịn có mục tiêu xã hội”. Chỉ thị 68-CT/TW của Ban bí thư khố VII nêu luận
điểm: “ kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế tất yếu khách quan trong quá trình
phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần theo định hướng xã hơi chủ
nghĩa”.
Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta sớm đổi mới tư duy về kinh tế
tập thể phù họp với yêu cầu phát triển của đất nước và đường lối đổi mới của
Đảng, đối với mơ hình HTX gắn liền với giải phóng kinh tế hộ xã viên, làm kinh
tế thành viên thành kinh tế tự chủ, dần khẳng định vai trò hạt nhân, trung tâm
của xã viên, kinh tế xã viên, chuyển hướng chức năng của HTX sang phục vụ
kinh tế xã viên, HTX hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt
động của mình, thực hiện nguyên tắc xã viên tự nguyện tham dự HTX. Nhà
nước chuyển sang vai trò xây dựng khung pháp luật, chính sách cho HTX hoạt
động và hỗ trọ HTX.
Nghị quyết số 13 Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng Khoá
IX về đổi mới, phát triển và nâng cao kinh tế tập thể là Nghị quyết lần đầu tiên
của Đảng về kinh tế tập thể kể từ khi tiến hành đường lối đổi mới kể từ năm
1986. Nghị quyết khẳng định: “kinh tế tập thể lấy lợi ích làm chính,…đánh giá
hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế-chính
trị-xã hội, cả hiệu quả của tập thể và các thành viên”.
Các Nghị quyết của Đảng đề cập khá cụ thể các ngun tắc, nội dung chính
của mơ hình pháp lý HTX, tiệm cận sát với mơ hình phổ biến trên thế giới. Nghị


- 25 -

quyết số 10-NQ/TW của Bộ chính trị khố VI về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp ngày 5/4/1988 đã nêu: “ HTX, tập đoàn sản xuất là tổ chức kinh tế tự
nguyện của nông dân, lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hướng dẫn, giúp đỡ
của Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tự quản lý, chịu trách nhiệm về hiệu

quả sản xuất kinh doanh, có tư cách páp nhân, bình đẳng trước pháp luật với các
đơn vị kinh tế khác, có trách nhiệm phát huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất
XHCN. Nghị quyết VI đã rất sớm đề ra nhiệm vụ: sớm nghiên cứu ban hành
Luật về HTX.
Nghị quyết Đại hội VII và các Đại hội sau đó nhấn mạnh các nguyên tắc
HTX: Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi, cơng khai, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác
và phát triển cộng đồng, phát huy và kết họp hài hoà sức mạnh của tập thể, phát
triển từ thấp đến cao, một hộ gia đình có thể tham gia nhiều HTX khác nhau và
có quyền rút ra khỏi HTX theo điều lệ.
Nghị quyết đại hội VII đã bước đầu đề ra mơ hình HTX tiêu dùng theo
chuẩn mực quốc tế : “Ở nông thôn trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự
chủ của hộ xã viên, các HTX hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực mà
hộ xã viên khơng có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh tập
thể, cùng chính quyền và các đồn thể chăm lo các vấn đề xã hội và xây dựng
nông thôn mới. Trong nơng nghiệp trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia
đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và HTX cung ứng dịch vụ, vật tư
và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại”. Tuy nhiên chủ
trương nầy chưa được thể chế hoá trong luật HTX 1996 và Luật HTX 2003.
Chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể là hoàn toàn
đúng đắng, được minh chứng bởi thực tiễn quốc tế về phát triển HTX 200 năm
qua và thực tiễn phát triển HTX ở nước ta, hồn tồn phù họp với tư tưởng Hồ
Chí Minh về HTX.


×