Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ TỐ CHINH

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ TỐ CHINH

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
CỦA CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính, Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ MINH KHÔI

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp


và nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Đỗ Minh Khôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, chính
xác.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Tố Chinh


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA
CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC .................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà
nước ........................................................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước ........7
1.1.2. Đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước .......11
1.2. Quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân trong quản lý nhà nước ...........................16
1.2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước .............16
1.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quản lý nhà nước ......................16
1.2.3. Hình thức và thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước ........17
1.2.4. Phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp và trường hợp miễn trừ cung cấp
thông tin trong quản lý nhà nước .........................................................................................18
1.3. Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước ..........................20
1.3.1. Chủ thể có quyền tiếp nhận thơng tin trong quản lý nhà nước..........................20
1.3.2. Chủ thể có trách nhiệm cơng khai thơng tin trong quản lý nhà nước ...............21
1.3.3 Hình thức và thủ tục công khai thông tin trong quản lý nhà nước .....................21
1.3.4. Phạm vi thông tin được công khai và những thông tin không thuộc trường hợp
nhà nước công bố công khai .................................................................................................22
1.4. Các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong

quản lý nhà nước.................................................................................................................24
1.4.1. Ban hành Luật Tiếp cận thông tin .....................................................................24
1.4.2. Quy định trách nhiệm công khai thông tin trong quản lý nhà nước ..................26
1.4.3. Quy định cách thức, thủ tục thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin ...................26
1.4.4. Quy định việc khiếu nại, khởi kiện liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của
công dân trong quản lý nhà nước .........................................................................................27
1.4.5. Quy định các biện pháp xử lý hành vi vi phạm quyền tiếp cận thông tin của
công dân ................................................................................................................................30
1.4.6. Quy định biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân .........................................................................32
1.5. Vai trị của pháp luật về quyền tiếp cận thơng tin của công dân trong quản lý nhà
nước ......................................................................................................................................33
1.5.1. Đối với các quyền công dân khác ......................................................................33
1.5.2. Đối với nền kinh tế .............................................................................................33


1.5.3. Đối với xã hội.....................................................................................................34
1.5.4. Đối với hoạt động quản lý nhà nước .................................................................35
1.5.5. Đối với công tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng .....................................36
1.5.6. Đối với q trình hội nhập quốc tế ....................................................................37
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CƠNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN ...........................................................................40
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong
quản lý nhà nước.................................................................................................................40
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tìm kiếm thông tin của công dân trong
quản lý nhà nước ..................................................................................................................40
2.1.2. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tiếp nhận thông tin của công dân
trong quản lý nhà nước .........................................................................................................46
2.1.3. Thực trạng các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công

dân trong quản lý nhà nước ..................................................................................................54
2.2. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản
lý nhà nước ..........................................................................................................................60
2.2.1. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân trong
quản lý nhà nước ..................................................................................................................60
2.2.2. Tình hình thực thi pháp luật về quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong
quản lý nhà nước ..................................................................................................................62
2.3. Một số hạn chế về thực trạng pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật về quyền
tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước ................................................65
2.4. Phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công
dân trong quản lý nhà nước ...............................................................................................68
2.4.1. Quan điểm định hướng về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý
nhà nước ...............................................................................................................................68
2.4.2. Giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý
nhà nước ...............................................................................................................................71
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................80


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của con người, khái niệm
quyền tiếp cận thông tin xuất hiện vào giữa thế kỷ XIII, trong Luật về tự do
báo chí của Thụy Điển ban hành năm 1766, tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có khái niệm chung về quyền tiếp cận thông tin. Tuyên ngôn Nhân quyền
Liên hợp quốc 1948 quy định: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do
phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền khơng bị ai can thiệp vì
những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin

tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc
gia”. Điều 3 Dự thảo lần 4 Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam quy định:
“Tiếp cận thông tin là đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp, trích dẫn nội
dung của hồ sơ, tài liệu”. Như vậy, nội hàm quyền tiếp cận thông tin của mỗi
quốc gia là khác nhau nhưng nhìn chung các nước đều thừa nhận quyền tiếp
cận thông tin là quyền cơ bản của con người, cho phép công dân của nước đó
có quyền yêu cầu tiếp cận các văn bản của cơ quan nhà nước.
Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay được quy định tại Điều
69 Hiến pháp 1992 và trong một số văn bản quy phạm pháp luật như: Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe trẻ em, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Tuy
nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật này chỉ quy định về trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước trong việc công khai, minh bạch tổ chức, hoạt động của
ngành, lĩnh vực mình quản lý mà chưa quy định về trình tự, thủ tục để công
dân thực hiện quyền tiếp cận hồ sơ, tài liệu do cơ quan nhà nước nắm giữ. Do
chưa có Luật Tiếp cận thông tin nên nhiều người dân chưa biết về quyền này,
họ chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động khi nhà nước công bố công khai
trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Về phía cán bộ, công chức khi nhận
được yêu cầu cung cấp thông tin thì họ có tâm lý né tránh do khơng biết


2

quyền hạn của mình đến đâu và việc cung cấp thơng tin có hợp pháp khơng.
Trong xã hội hiện đại, nhu cầu về thơng tin là rất lớn, có thể so sánh với thức
ăn, nước uống hàng ngày của chúng ta. Việc thơng tin bị bưng bít, khơng
cơng khai trước cơng chúng tạo ra hệ quả rất to lớn, đó là tình trạng lạc hậu,
nghèo đói, bất bình đẳng, thiếu dân chủ của một quốc gia, nghiêm trọng hơn
là tình trạng tham nhũng, quan liêu, cửa quyền…dẫn đến khiếu nại, tố cáo,

kiện tụng tràn lan, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
Vì vậy, những quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin là hết sức
cần thiết và có vai trị to lớn trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước
dân chủ, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền tiếp cận thơng tin
cịn là cơ sở, điều kiện để thực hiện các quyền dân sự, chính trị, kinh tế khác
như quyền học tập, quyền tự do kinh doanh, quyền nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật, phát minh, sáng chế, quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe…
Ngày 15/11/2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2008/NQQH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009, trong đó giao
Chính phủ chủ trì soạn thảo dự án Luật Tiếp cận thông tin. Tuy nhiên cho đến
nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên Chính phủ vẫn chưa trình Dự án
Luật Tiếp cận thơng tin. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về quyền tiếp cận
thông tin trong bối cảnh hiện tại là hết sức cần thiết và có thể đóng góp một
phần vào q trình xây dựng Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin. Từ những cơ
sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về quyền tiếp
cận thông tin của công dân trong quản lý Nhà nước” để nghiên cứu một cách
có hệ thống và chuyên sâu ở cấp độ luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Điều 69 Hiến
pháp 1992, nhưng cho đến nay quyền tiếp cận thơng tin vẫn cịn khá mới mẻ
với nhiều người, các cơng trình nghiên cứu về quyền tiếp cận thơng tin cịn
hạn chế, đa số là các bài viết trên tạp chí như: tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Khoa học pháp lý… Một số bài viết điển hình như: “Nội dung cơ bản của
Luật Tiếp cận thông tin một số nước” của TS. Nguyễn Thị Kim Thoa,


3

“Quyền tiếp cận thông tin: Quy định quốc tế và đặc điểm chung của luật một
số nước” của TS. Tường Duy Kiên, “Quyền được thơng tin từ góc độ bảo

đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam”
của TS. Vũ Văn Nhiêm, “Pháp luật về bảo đảm quyền được thông tin của
công dân và việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin” của GS.TS. Nguyễn
Đăng Dung, “Quyền tiếp cận thông tin-điều kiện thực hiện các quyền con
người và quyền công dân” của PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, “Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quyền được tiếp cận thông tin” của
GS.TS. Trần Ngọc Đường…. Ngoài ra, để chuẩn bị cho Dự thảo Luật Tiếp
cận thông tin, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo quốc tế “Xây dựng Luật Tiếp
cận thông tin tại Việt Nam” vào ngày 6,7 tháng 5/2009 tại Hà Nội và Hội thảo
“Luật Tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới” vào
tháng 8/2009 tại Nha Trang. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ, có đề tài “Bảo đảm
pháp lý về quyền được thông tin của công dân trong quản lý nhà nước về đất
đai” của tác giả Lê Thị Hồng Nhung. Các cơng trình, bài viết trên chỉ nghiên
cứu một khía cạnh hoặc vấn đề nào đó của quyền tiếp cận thơng tin, ví dụ như
nội hàm quyền tiếp cận thơng tin, so sánh pháp luật về quyền tiếp cận thông
tin của một số nước, quyền tiếp cận thông tin trong quản lý đất đai, góp ý dự
thảo Luật Tiếp cận thơng tin… Vì vậy, đề tài “Pháp luật về quyền tiếp cận
thông tin của công dân trong quản lý nhà nước” lần đầu tiên được nghiên cứu
một cách hệ thống, chuyên sâu dưới cấp độ luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài tập trung chủ yếu vào các mục đích sau:
- Xây dựng khái niệm, đặc điểm, nội dung của quyền tiếp cận thông tin
của cơng dân trong quản lý nhà nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực thi pháp
luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước.
- Đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thơng tin
của công dân trong quản lý nhà nước.



4

3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền tiếp cận thơng tin của
cơng dân nói chung và quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý
nhà nước nói riêng.
- Phân tích vai trị của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công
dân trong quản lý nhà nước đối với các quyền công dân khác, trong hoạt động
quản lý nhà nước, đối với xã hội và quá trình hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận thơng tin của công
dân trong quản lý nhà nước thông qua một số văn bản pháp luật như: Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật
Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Quy hoạch đơ thị.
- Phân tích tình hình thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của
công dân trong quản lý nhà nước. Thực hiện khảo sát nhằm tìm hiểu đánh giá
của người dân về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về quyền tiếp cận
thơng tin của công dân trong quản lý nhà nước.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng pháp
luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước, cụ thể
là quyền tìm kiếm và tiếp nhận thơng tin liên quan đến hoạt động chấp hành,
điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động quản lý nhà
nước theo nghĩa hẹp, nghĩa là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước. Đề tài khơng nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động của
cơ quan lập pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp và các cơ quan, tổ chức khác khơng phải là cơ quan

hành chính nhà nước.
Đề tài tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật của Việt Nam và so
sánh với pháp luật một số nước về quyền tiếp cận thông tin của công dân


5

trong quản lý nhà nước (thông qua một số văn bản pháp luật: Luật Phòng,
chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Quy hoạch đô thị,
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…) không đi sâu nghiên
cứu thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
6. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: phương pháp lịch sử, phân tích, chuyên gia, tổng hợp, so sánh,
khảo sát, thống kê…
Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu các Công ước quốc tế và pháp luật
của một số nước về quyền tiếp cận thông tin trong từng giai đoạn lịch sử khác
nhau để thấy một phần quá trình hình thành, phát triển của Luật Tiếp cận
thơng tin.
Phân tích: Đây là phương pháp được sử dụng xuyên suốt luận văn, tác
giả đặt vấn đề, đưa ra các khái niệm và tìm hiểu bản chất, thuộc tính của nó,
ngồi ra, tác giả cịn tìm ra những điểm hạn chế, nguyên nhân, tồn tại và đưa
ra giải pháp hoàn thiện.
Phỏng vấn chuyên gia: Gặp gỡ, trao đổi và tiếp thu ý kiến của các
chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp, các tác giả đã từng nghiên cứu
pháp luật về quyền tiếp cận thông tin.
Điều tra bảng hỏi: Lập một danh sách câu hỏi và gửi đối tượng khảo sát
để nắm được nhận thức, nhu cầu và thái độ của họ đối với việc tìm kiếm
thơng tin tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu “Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của
công dân trong quản lý nhà nước”, tác giả mong muốn đóng góp một phần
cơng sức vào việc nghiên cứu quyền con người, quyền công dân đặc biệt là
quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam.
Đề tài có thể làm nguồn tài liệu cho những ai có nhu cầu hoặc quan tâm
đến quyền tiếp cận thơng tin của công dân trong quản lý nhà nước và đóng
góp một phần vào việc hồn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin tại


6

Việt Nam mà cụ thể là Dự thảo Luật Tiếp cận thơng tin đang được Bộ Tư
pháp chủ trì soạn thảo.
8. Kết cấu của đề tài
Phần nội dung của luận văn được kết cấu thành 2 chương
Chương 1. Những vấn đề chung về quyền tiếp cận thông tin của công
dân trong quản lý nhà nước.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về quyền tiếp cận
thông tin của công dân trong quản lý nhà nước và giải pháp hoàn thiện.


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA
CÔNG DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân
trong quản lý nhà nước
1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý

nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân
- Theo từ điển tiếng Việt, thông tin là “điều hoặc tin được truyền đi cho
biết, sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới các hình thức khác nhau, cho
biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó”1. Thơng tin là
một thuật ngữ khá trừu tượng, có nội hàm rộng và có thể phân thành nhiều
loại, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau cả hữu hình lẫn vơ hình như:
sách, báo, tập tin, thẻ nhớ, băng, đĩa, cơ sở dữ liệu trên trang web, ý tưởng....
Thông tin có thể được phân loại như sau:
+ Căn cứ vào nội dung, thông tin gồm: thông tin về kinh tế, văn hóa, xã
hội, pháp luật...
+ Căn cứ vào người sở hữu, tạo ra, thông tin gồm: thông tin của Nhà
nước, thông tin của cá nhân, thông tin của tổ chức...
Tóm lại, thơng tin là điều được truyền đi cho biết, có thể làm tăng thêm
sự hiểu biết, kiến thức của một người.
- Thuật ngữ tiếp cận được hiểu là: “từng bước, bằng những phương
pháp nhất định, tìm hiểu một vấn đề, cơng việc nào đó”2.
Như vậy, tiếp cận thơng tin là dùng những phương pháp, cách thức
nhất định để đến gần, tiếp xúc nhằm tìm hiểu những thơng tin nào đó.
- Quyền tiếp cận thơng tin, quyền được thơng tin, quyền được biết là
những tên gọi khác nhau nhưng có cùng ý nghĩa. Trong đó, quyền tiếp cận
thơng tin chủ yếu nhấn mạnh tính chủ động của cơng dân trong việc tìm kiếm,
tiếp nhận thơng tin cịn thuật ngữ quyền được thơng tin, quyền được biết thì
chủ yếu nhấn mạnh tính chủ động của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm
quyền được thông tin của công dân.
1
2

Trung tâm từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt 2011, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr. 1226.
Trung tâm từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt 2011, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr. 1269.



8

Quyền tiếp cận thông tin xuất hiện lần đầu tiên trong Luật về tự do báo
chí của Thụy Điển 1766 và sau đó, khi Tun ngơn thế giới về quyền con
người ra đời thì quyền tiếp cận thơng tin mới được biết đến rộng rãi như một
trong những quyền cơ bản của con người. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người 1948 quy định “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và
bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như
tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ
phương tiện truyền thơng nào và khơng có giới hạn về biên giới” 3. Đến năm
1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ra đời cũng quy định
“1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà khơng bị ai can
thiệp. 2. Mọi người đều có quyền tự do ngơn luận. Quyền này bao gồm tự do
tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thơng tin, ý kiến, khơng phân biệt lĩnh
vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình
thức nghệ thuật, thơng qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy
theo sự lựa chọn của họ”4. Tính đến năm 2009, đã có hơn 86 quốc gia trên
thế giới ban hành Luật tiếp cận thông tin hay Luật được thông tin5.
Cho đến nay, các Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia chưa đưa ra
một khái niệm thống nhất về quyền tiếp cận thông tin mà chỉ đề cập đến nội
hàm, các nguyên tắc của quyền tiếp cận thơng tin. Có hai quan điểm khác
nhau về nội hàm của quyền tiếp cận thông tin, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội hàm quyền tiếp cận thông tin bao
gồm ba quyền: quyền tiếp nhận thông tin, quyền tìm kiếm thơng tin và quyền
phổ biến thơng tin6. Trong đó, tự do tìm kiếm thơng tin thể hiện sự chủ động
của mỗi cá nhân trong việc yêu cầu, đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị nắm
giữ thông tin cung cấp thông tin mà cá nhân, cơng dân đó quan tâm. Ngược
lại, tự do tiếp nhận thông tin thể hiện sự chủ động của cơ quan nhà nước trong

việc cung cấp thông tin định kỳ cho cơng chúng kể cả khi cơng dân khơng có
u cầu. Quyền tự do phổ biến thông tin là khả năng cá nhân, công dân được
3

Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.12.
4
Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.17.
5
Nguyễn Thị Hạnh (2009), “Sự cần thiết ban hành Luật Tiếp cận thơng tin”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(17), tr. 19-27.
6
Chu Thị Thái Hà (2009), “Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp cận thơng tin”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp (17), tr. 31- 37.


9

truyền đạt thơng tin mà mình đang nắm giữ cho mọi người mà khơng có bất
kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay các hình thức đưa tin7.
Theo quan điểm thứ hai, nội hàm quyền tiếp cận thông tin chỉ bao gồm
hoạt động tìm kiếm và tiếp nhận thơng tin8. Hoạt động phổ biến thơng tin, tìm
kiếm và tiếp nhận thông tin nằm trong một khái niệm rộng hơn, đó là quyền
thơng tin (hay tự do thơng tin).
Theo quan điểm của tác giả, quyền tìm kiếm thơng tin, tiếp nhận thơng
tin và phổ biến thơng tin có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể hỗ trợ
nhau. Trong xã hội công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hiện nay, hoạt
động phổ biến thông tin rộng rãi cũng góp phần bảo đảm quyền tiếp nhận
thơng tin của cơng dân. Ngược lại, nhờ bảo đảm quyền tìm kiếm thơng tin và

tiếp nhận thông tin mà cá nhân, công dân có được thơng tin và truyền đạt, phổ
biến lại cho những người khác. Tuy nhiên, quyền phổ biến thông tin lại liên
quan chặt chẽ và là một phần của quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí. Do
đó, tác giả chỉ nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin với nội hàm gồm quyền
tìm kiếm thơng tin và tiếp nhận thơng tin.
Tóm lại, quyền tiếp cận thơng tin là quyền cơ bản của con người và của
công dân, quyền này bao gồm quyền tìm kiếm thơng tin và quyền tiếp nhận
thông tin và quyền này chỉ được bảo đảm khi cơ quan Nhà nước thực hiện
nghĩa vụ của mình trong việc cung cấp thơng tin khi có u cầu cũng như
cơng khai thơng tin ngay cả khi khơng có u cầu trừ những trường hợp
ngoại lệ do pháp luật quy định.
1.1.1.2. Phân biệt giữa quyền tìm kiếm thơng tin và quyền tiếp nhận
thơng tin
Quyền tìm kiếm thơng tin và quyền tiếp nhận thơng tin có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau. Khi thông tin được công bố công khai
rộng rãi để mọi người được biết thì khơng cần thiết phải u cầu cung cấp
thơng tin nữa, ngược lại, việc cung cấp thơng tin cũng góp phần công khai
thông tin ra công chúng. Tuy nhiên, giữa quyền tìm kiếm thơng tin và quyền
tiếp nhận thơng tin có những điểm khác biệt, cụ thể:

7

Tường Duy Kiên (2008), “Quyền tiếp cận thông tin: Qui định quốc tế và đặc điểm chung của Luật một số
nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (112 – 114).
8
Lê Thị Hồng Nhung (2011), “Tiếp cận quyền tiếp cận thơng tin dưới góc độ quyền con người”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp (5), tr. 22-27.


10


Một là, tính chủ động, bị động của các chủ thể trong việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của mình. Trong quyền tìm kiếm thơng tin, người tìm kiếm
thơng tin phải chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước nắm giữ thơng tin cung
cấp thơng tin cịn cơ quan nhà nước ở vị trí bị động, có nghĩa vụ cung cấp
thơng tin khi có yêu cầu. Ngược lại, trong quyền tiếp nhận thông tin, cơ quan
nhà nước phải chủ động công bố cơng khai thơng tin ra cơng chúng cịn người
tiếp nhận thông tin chỉ tiếp nhận thông tin một cách bị động dù có nhu cầu
hay khơng.
Hai là, sự khác biệt về nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong quyền tiếp
nhận thơng tin và quyền tìm kiếm thơng tin. Trong quyền tiếp nhận thơng tin,
cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm
công khai thông tin đến công chúng (xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư công
nghệ thông tin, xây dựng danh mục thông tin phải công khai..). Các biện pháp
này rất chung chung, không tác động trực tiếp lên chủ thể tiếp nhận thơng tin.
Ngược lại, quyền tìm kiếm thơng tin thể hiện nghĩa vụ trực tiếp của cơ quan
nhà nước, nghĩa là khi công dân yêu cầu cung cấp thông tin thì cơ quan nhà
nước có nghĩa vụ phải cung cấp thơng tin cho cơng dân đó, nếu khơng cung
cấp thì phải đưa ra lý do.
Ba là, mối quan hệ giữa thơng tin và chủ thể tìm kiếm, tiếp nhận thông
tin. Thông tin trong quyền tiếp nhận thông tin chủ yếu phát sinh trong q
trình quản lý nhà nước nói chung, có thể liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức
trong xã hội. Ngược lại, thơng tin trong quyền tìm kiếm thông tin thông
thường liên quan đến đời sống xã hội của một cá nhân cụ thể, do đó, trong
một số trường hợp chủ thể phải chứng minh mối quan hệ với thông tin yêu
cầu cung cấp.
1.1.1.3. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý
nhà nước
- Quyền tiếp cận thông tin, trong các văn kiện quốc tế được ghi nhận là
quyền con người, nghĩa là quyền tự nhiên của mỗi cá nhân từ khi họ sinh ra

đến khi chết. Nếu đặt trong mối quan hệ với Nhà nước thì quyền tiếp cận
thơng tin là quyền cơng dân, điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia, tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... của nước mình, có trách nhiệm
ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này trên thực tế. Ngược lại, công dân


11

cũng có phải đáp ứng một số điều kiện và có những nghĩa vụ nhất định khi
thực hiện quyền này.
- Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng là “toàn bộ mọi hoạt động của Nhà
nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các
nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước”9. Theo nghĩa này, chủ thể của hoạt động
quản lý nhà nước bao gồm tất cả các cơ quan của bộ máy nhà nước gồm hệ
thống cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hoạt động quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động chấp hành
hiến pháp, luật và điều hành trên cơ sở hiến pháp và các luật đó. Chủ thể của
quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp chủ yếu là toàn bộ hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ và các cơ quan phái sinh từ
chúng, các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc10. Hoạt động quản lý nhà nước
trong đề tài này được hiểu là hoạt động quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp.
Hoạt động chấp hành, điều hành làm phát sinh nhiều thông tin liên
quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân, một số thơng tin cịn đem lại lợi
ích cho người sở hữu nó nhưng những thơng tin này thường khó tiếp cận.
Ngồi ra, q trình quản lý nhà nước dễ xảy ra tình trạng tham nhũng, lạm
quyền, quan liêu…. James Madison, Tổng thống thứ tư của Hoa Kỳ đã nói:
“Một Chính phủ của đại chúng mà khơng có thơng tin hoặc khơng có phương
tiện nào để có được những thơng tin đó thì chỉ là đoạn mở đầu của một tấn
hài kịch hoặc bi kịch hoặc cả hai”11. Do đó, việc nghiên cứu quyền tiếp cận
thông tin trong quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là rất cần thiết.

- Tóm lại, quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà
nước là một trong những quyền cơ bản của con người và của công dân, quyền
này bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận thơng tin liên quan đến hoạt động
chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý
nhà nước

9

Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.19.
10
Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.20.
11
Nguyễn Đăng Dung (2010), “Pháp luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân và việc xây dựng
Luật Tiếp cận thơng tin”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (3+4), tr. 87-90.


12

- Quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước là một
trong những quyền cơ bản của con người và của công dân
Theo học thuyết về các quyền tự nhiên, quyền con người là quyền tự
nhiên của mỗi người, đơn giản vì họ là con người, quyền này có từ khi sinh ra
đến khi chết, khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo, dân tộc, giới tính… và
bình đẳng đối với tất cả mọi người. Theo Văn phịng Cao ủy Liên hợp quốc
về quyền con người thì “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn

hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entilements) và tự do cơ bản
(fundamental freedoms) của con người”12. Tuy có nhiều khái niệm, cách hiểu
khác nhau nhưng nhìn chung, quyền con người là giá trị chung của nhân loại,
được cộng đồng quốc tế công nhận và bảo vệ. So với khái niệm quyền con
người, khái niệm quyền cơng dân có phạm vi hẹp hơn và xác định hơn, thể
hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Quyền công dân là khả năng
công dân được thực hiện những hành vi nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi
ích của bản thân theo quy định của pháp luật.
Quyền con người, quyền cơng dân có thể chia thành các nhóm: quyền
dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền tiếp cận thơng tin thuộc
nhóm quyền chính trị, được ghi nhận tại Tun ngơn thế giới về quyền con
người và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Quyền tiếp cận
thơng tin là quyền cơ bản của con người, của công dân và nó là một trong
những quyền quan trọng nhất đối với cá nhân con người và công dân; được
ghi nhận trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất (Hiến pháp) và các văn
kiện pháp lý quốc tế quan trọng khác.
- Quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước đóng
vai trị quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền
công dân khác
Mối quan hệ giữa quyền tiếp cận thông tin với các quyền con người,
quyền công dân khác là mối quan hệ tương hỗ, việc thực hiện quyền này sẽ
thúc đẩy việc thực hiện các quyền còn lại. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin giúp con người biết được các quyền, nghĩa vụ cơ bản của mình, đồng thời,
12

/>

13

có những thơng tin quan trọng, cần thiết để thực hiện các quyền con người,

quyền công dân khác. Các thông tin dù rất nhỏ nhưng đều có thể là tiền đề để
thực hiện quyền con người, quyền cơng dân vì thông tin là một phần quan
trọng, không thể thiếu trong cuộc sống. Ví dụ, để thực hiện quyền bầu cử thì
cơng dân phải có thơng tin về điều kiện bầu cử, thời gian, địa điểm bầu cử,
cách thức bỏ phiếu, quan trọng nhất là thông tin về các ứng cử viên để lựa
chọn ra người phù hợp, đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại cơ
quan nhà nước. Để thực hiện quyền được học tập thì phải có thơng tin về
trường học, chương trình giảng dạy, đào tạo, tuyển sinh; để thực hiện quyền
kinh doanh thì phải có thơng tin về điều kiện kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh
doanh; chính sách thuế… Ngồi ra, thơng tin còn mang lại kiến thức, sự hiểu
biết cho con người, giúp họ có cách xử sự, hành vi thích hợp; đặc biệt, có
những thơng tin cịn mang lại lợi ích cho người sở hữu nó, nếu họ biết cách
tận dụng thơng tin đó.
Ngược lại, việc thực hiện các quyền con người, quyền cơng dân khác
cũng góp phần bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Để thực hiện
quyền tiếp cận thông tin, trước hết công dân phải được học tập, giới thiệu và
có những hiểu biết nhất định về quyền tiếp cận thơng tin. Ngồi ra, họ phải
được tự do đi lại, tự do cư trú, tự do ngơn luận, tự do báo chí... để có điều
kiện nói lên, phản ánh yêu cầu của mình cũng như tiếp xúc với các thông tin
do cơ quan Nhà nước công bố cơng khai. Do đó, việc cơng nhận, thực hiện,
bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công dân phải gắn liền với các quyền dân
sự, chính trị khác.
- Quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước bao
gồm quyền tìm kiếm thơng tin và quyền tiếp nhận thông tin phát sinh trong
hoạt động chấp hành, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước
Quyền tìm kiếm thơng tin thể hiện sự chủ động của công dân trong việc
yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nắm giữ thông tin cung cấp thông tin họ
mong muốn. Quyền tiếp nhận thông tin thể hiện sự chủ động của cơ quan nhà
nước trong việc công bố, cơng khai các thơng tin, tài liệu khơng thuộc bí mật
nhà nước và các trường hợp miễn trừ trước công chúng kể cả khi khơng có

u cầu. Giữa quyền tìm kiếm thơng tin và tiếp nhận thơng tin có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, việc thực hiện quyền này sẽ góp phần thực hiện quyền kia
và ngược lại. Cụ thể, khi nhà nước công khai các thông tin liên quan đến hoạt


14

động quản lý nhà nước đầy đủ, kịp thời cho cơng dân sẽ góp phần làm giảm
lượng đơn thư, điện thoại u cầu cung cấp thơng tin, qua đó, giảm gánh nặng
cho cơ quan nhà nước. Ngược lại, việc đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin
của công dân cũng là một hình thức cơng khai thơng tin cho cơng dân.
Thơng tin cơng dân được tìm kiếm, tiếp nhận là những thông tin phát
sinh trong hoạt động chấp hành, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính
Nhà nước. Trong đó, hoạt động chấp hành là hoạt động thực hiện trên thực tế
các luật và các văn bản mang tính chất luật của Nhà nước, các văn bản pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên nói chung. Hoạt động điều hành là hoạt
động dựa trên cơ sở luật để chỉ đạo trực tiếp các đối tượng bị quản lý 13. Hoạt
động chấp hành, điều hành diễn ra liên tục, hàng ngày, hàng giờ, có tác động
sâu sắc và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mọi cá nhân, tổ chức trong xã
hội. Những thông tin phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước rất phong
phú, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, giáo dục, y tế, đất đai… và có liên quan chặt chẽ đến đời sống mỗi
cơng dân từ khi sinh ra đến khi chết đi cũng như trong suốt quá trình sinh
sống, học tập, lao động.
Hoạt động lập pháp hay hoạt động làm luật cũng phát sinh những thông
tin mà công dân quan tâm như: thông tin về hoạt động làm luật, sửa đổi luật;
các dự thảo Luật cần lấy ý kiến; các văn bản Luật đã được thông qua... Tuy
nhiên, số lượng Luật, Pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành hàng năm không nhiều, những thông tin này không ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống, sinh hoạt của người dân như những thông tin trong hoạt

động quản lý nhà nước. Đối với những thông tin phát sinh trong hoạt động xét
xử, kiểm sát thường ít được đơng đảo người dân quan tâm vì nó gắn liền với
những cá nhân cụ thể khi xảy ra tranh chấp hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật. Do đó, nhu cầu tiếp cận thơng tin trong hoạt động quản lý nhà nước là
nhu cầu thường xuyên của đại bộ phận cá nhân, tổ chức, trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
- Quyền tiếp cận thông tin của công dân trong quản lý Nhà nước chỉ
được bảo đảm khi cơ quan Nhà nước thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình
13

Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.25


15

Quyền tiếp cận thông tin là quyền của công dân và gắn liền với nghĩa
vụ bảo đảm thực hiện của Nhà nước, nếu quyền khơng gắn liền với nghĩa vụ
thì chỉ là quyền trên giấy. Do đó, để đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông
tin của công dân, Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm xây dựng các biện
pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Đây là trách nhiệm hay
nghĩa vụ gián tiếp của Nhà nước vì nó khơng trực tiếp mang lại thơng tin cho
công dân nhưng tạo ra các điều kiện thuận lợi để cơng dân được tìm kiếm,
tiếp nhận các thơng tin mình quan tâm. Các biện pháp bảo đảm đó là: xây
dựng cơ chế pháp lý (ban hành Luật hoặc các văn bản pháp lý có giá trị khác
để ghi nhận quyền tiếp cận thông tin của công dân), cơ sở vật chất (trụ sở cơ
quan, bộ phận tiếp dân, trang thông tin điện tử, bảng niêm yết thông tin…),
con người (bố trí, đào tạo nhân sự phụ trách các hoạt động liên quan đến
quyền tiếp cận thơng tin)… Ngồi ra, Nhà nước còn phải thực hiện một loại

nghĩa vụ đặc biệt đó là cung cấp thơng tin cho cơng dân. Nghĩa vụ này đặc
biệt vì Nhà nước, bằng một hành động cụ thể, trực tiếp đem lại thông tin cho
người u cầu. Ví dụ, trong quyền học tập của cơng dân, Nhà nước thực hiện
các trách nhiệm bảo đảm như xây dựng trường học, đào tạo đội ngũ giáo viên,
quản lý hoạt động xuất bản sách giáo khoa, chính sách miễn giảm học phí cho
các đối tượng… chứ Nhà nước không trực tiếp mang kiến thức đến cho một
người cụ thể nào đó. Tuy nhiên, trong quyền tiếp cận thơng tin, khi công dân
gửi đơn yêu cầu cung cấp thông tin và u cầu đó là hợp pháp thì cơ quan
Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho cơng dân. Nghĩa vụ
này rất quan trọng vì nếu Nhà nước đã thực hiện trách nhiệm xây dựng các
biện pháp bảo đảm nhưng một công chức Nhà nước hay một cơ quan Nhà
nước bất kỳ không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thơng tin thì quyền tiếp cận
thơng tin của công dân cũng không được bảo đảm. Ngược lại, nếu Nhà nước
không thực hiện tốt các biện pháp bảo đảm thì quyền tiếp cận thơng tin của
cơng dân cũng bị khó khăn, cản trở. Ví dụ, Nhà nước không quy định thủ tục,
thời hạn cung cấp thông tin thì cơ quan Nhà nước có thể trì hỗn, chậm cung
cấp thơng tin cho cơng dân.
Tóm lại, quyền cơng dân không tách rời nghĩa vụ của Nhà nước. Trong
quyền tiếp cận thơng tin, ngồi trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo đảm
chung như đối với các quyền công dân khác thì Nhà nước cịn thực hiện nghĩa
vụ đặc biệt là cung cấp thơng tin cho cơng dân khi có yêu cầu.


16

1.2. Quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân trong quản lý nhà
nước
Quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân trong quản lý nhà nước là khả
năng công dân được tìm kiếm, tiếp xúc các thơng tin, tài liệu do cơ quan hành
chính nhà nước tạo ra hoặc nắm giữ.

1.2.1. Chủ thể có quyền u cầu cung cấp thơng tin trong quản lý nhà
nước
Hầu hết các quốc gia đều công nhận chủ thể có quyền u cầu cung cấp
thơng tin trước hết là công dân, tuy nhiên, một số nước cho phép người nước
ngồi, người khơng có quốc tịch cũng được quyền yêu cầu cung cấp thông tin
nhưng với phạm vi hạn chế hơn.
Pháp luật một số nước cũng quy định điều kiện đối với chủ thể yêu cầu
cung cấp thông tin là phải nêu rõ lý do hoặc chứng minh mối quan hệ với
thông tin yêu cầu cung cấp; nộp đơn yêu cầu đến đúng cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trả phí cung cấp thơng tin và tn thủ những trình tự, thủ tục luật
định. Cụ thể, Luật về tự do tiếp cận các văn bản hành chính của Cộng hòa
Pháp năm 1978 quy định về việc chỉ cung cấp tài liệu cho người có liên quan
trong trường hợp tài liệu đó có thể gây ảnh hưởng đến sự riêng tư và bí mật
của hồ sơ cá nhân, bí mật về y tế hoặc bí mật về thương mại, sản xuất 14.
Trong trường hợp này, chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin phải chứng minh
mối quan hệ với thơng tin u cầu cung cấp.
1.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước
Phạm vi chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thơng tin rất rộng, bao gồm: cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, các cơ quan, tổ chức
khác có sử dụng ngân sách nhà nước, thậm chí Nam Phi cịn quy định nghĩa
vụ cung cấp thơng tin của chủ thể tư nhân trong một số trường hợp. Tuy
nhiên, đối với thông tin trong quản lý nhà nước, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp
thơng tin trước hết là cơ quan hành chính nhà nước nơi nắm giữ hoặc tạo ra
thơng tin mà cơng dân đang tìm kiếm. Do đó, một trong những điều kiện để
được cung cấp thông tin là chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin phải nộp đơn
đến đúng cơ quan có thẩm quyền. Luật về tiếp cận thông tin của các cơ quan
hành chính của Nhật Bản quy định: “Khi có một u cầu cung cấp văn bản
14

Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông

tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.355.


17

hành chính, ngoại trừ những trường hợp mà trong đó có bất kỳ thơng tin nào
đề cập trong các mục dưới đây (sau đây gọi chung là “các thông tin khơng
cơng khai hóa”) hàm chứa trong các văn bản hành chính được yêu cầu cung
cấp, người đứng đầu cơ quan hành chính phải cung cấp những văn bản này
cho người yêu cầu”15. Cơ quan hành chính được giải thích bao gồm: cơ quan
thuộc Chính phủ, Văn phịng Chính phủ, cơ quan quản trị Hồng cung, Ủy
ban Kiểm tốn và một số cơ quan được thành lập theo các điều khoản của
Luật về thành lập Văn phịng Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền quốc gia,
Luật về cơ quan quản trị Hồng cung.
1.2.3. Hình thức và thủ tục u cầu cung cấp thơng tin trong quản lý
nhà nước
Hình thức u cầu cung cấp thông tin chủ yếu bằng văn bản và gửi trực
tiếp đến cơ quan có thẩm quyền hoặc gửi qua đường bưu điện, fax, thư điện
tử. Một số nước quy định yêu cầu cung cấp thông tin phải thể hiện dưới dạng
văn bản (Úc, Canada…) còn một nước cho phép yêu cầu cung cấp thông tin
bằng miệng, điện thoại. Luật Thúc đẩy tiếp cận thông tin của Nam Phi quy
định yêu cầu cung cấp thông tin bằng miệng được thực hiện như sau: “quan
chức thông tin của một chủ thể công cộng phải biên soạn lại lời yêu cầu bằng
miệng theo hình thức văn bản và phải cung cấp cho người yêu cầu một bản
sao của văn bản đó”16. Ngồi ra, Luật Thúc đẩy tiếp cận thơng tin của Nam
Phi còn cho phép ủy quyền yêu cầu cung cấp thơng tin nhưng phải có giấy từ
chứng minh tư cách pháp lý của người được ủy quyền.
Người yêu cầu cung cấp thông tin nộp yêu cầu cung cấp thông tin tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hay cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin. Sau
khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin, cơ quan được yêu cầu phải cung

cấp thông tin cho người yêu cầu trong thời hạn do pháp luật quy định, nếu
thông tin phức tạp, khơng có sẵn thì cơ quan được u cầu có thể gia hạn
trong một khoảng thời gian nhất định. Trường hợp thông tin được yêu cầu
cung cấp thuộc trường hợp miễn trừ thì người được u cầu có quyền từ chối
yêu cầu cung cấp thông tin nhưng phải thông báo cho người yêu cầu và nêu rõ
lý do.
15

Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.275.
16
Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 218.


18

Người u cầu cung cấp thơng tin có thể được cung cấp thơng tin miễn
phí hoặc phải trả một khoản phí nhất định, đây là khoản chi phí cho việc in
ấn, sao chụp, tài liệu, tìm kiếm, xử lý thơng tin, chuyển hồ sơ, tài liệu… Ví
dụ, Điều 29 Luật Tự do thông tin năm 1982 của Úc quy định về phí tiếp cận
thơng tin như sau: “Nếu theo các quy định một cơ quan hoặc Bộ trưởng quyết
định rằng một người nộp đơn phải trả một khoản phí (khơng phải phí nộp
đơn) liên quan tới việc tiếp cận hoặc được cung cấp tài liệu, cơ quan hoặc Bộ
trưởng phải gửi cho người đó một thơng báo bằng văn bản trong đó nêu rõ:
a) Rằng người nộp đơn có trách nhiệm phải trả một khoản phí cho việc
đó;
b) Cơ quan hoặc Bộ trưởng đã ước tính số tiền phải trả, và cơ sở để
tính số tiền đó;
c) Người nộp đơn có thể cho rằng khoản phí được ước tính là khơng

chính xác, hoặc cần phải giảm bớt hay miễn”17.
1.2.4. Phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp và trường hợp miễn trừ
cung cấp thông tin trong quản lý nhà nước
- Thông tin được yêu cầu cung cấp là những thông tin đáp ứng các điều
kiện sau đây:
+ Do cơ quan hành chính nhà nước ban hành hoặc tiếp nhận, ví dụ:
thơng tin của Chính phủ (Canada), tài liệu do cơ quan hành chính tiếp nhận
hoặc ban hành trong quá trình hoạt động (Đan Mạch), văn bản hành chính
(Nhật Bản, Pháp)…
+ Khơng phải là những thơng tin có sẵn (thơng tin đã được cơ quan
hành chính nhà nước cơng bố cơng khai, có thể tìm thấy dễ dàng thơng qua
mạng internet, sách, báo…).
+ Không thuộc trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin.
Thông thường, Luật Tiếp cận thông tin không liệt kê cụ thể thông tin
được yêu cầu cung cấp vì nếu sử dụng phương pháp liệt kê dễ dẫn đến thiếu
sót và làm hạn chế quyền của cơng dân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
khó xác định thơng tin có thuộc trường hợp miễn trừ cung cấp hay khơng
hoặc thơng tin dễ bị cơ quan hành chính nhà nước từ chối cung cấp thì Luật
quy định cụ thể để dễ áp dụng. Luật Tiếp cận thông tin của các cơ quan hành
17

Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.402.


19

chính (Nhật Bản) quy định: “Các thơng tin dưới đây có thể được cung cấp: a)
Những thơng tin được chuẩn bị để đưa ra công khai, theo quy định trong
pháp luật hoặc tập quán. b) Những thông tin được cho rằng cần thiết phải

cơng khai hóa nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khỏe, tài sản hoặc nghề nghiệp
của một người. c) Trong trường hợp cá nhân được nói đến là một quan chức
chính phủ…”18.
- Trường hợp miễn trừ cung cấp thông tin
Quyền tiếp cận thông tin cho phép công dân được tiếp cận các hồ sơ,
tài liệu của cơ quan nhà nước nhưng không phải bất kỳ loại hồ sơ, tài liệu nào
cũng được phép tiếp cận. Mỗi quốc gia đều đặt ra các trường hợp ngoại lệ hay
trường hợp miễn trừ mà khi rơi vào trường hợp này thì cơ quan nhà nước có
quyền từ chối cung cấp thơng tin. Việc quy định các trường hợp miễn trừ cho
thấy quyền tiếp cận thông tin chỉ bị giới hạn trong những trường hợp do pháp
luật quy định, cơ quan nhà nước không được quyền từ chối cung cấp thông tin
mà khơng có lý do chính đáng. Các trường hợp miễn trừ cụ thể:
+ Tơn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác
Đây là trường hợp miễn trừ được pháp luật quốc gia cũng như pháp luật
quốc tế ghi nhận, theo đó, cơng dân có quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá
thông tin nhưng không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác như: quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền bí mật
đời tư, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở… Quy định này góp phần ngăn
ngừa tình trạng lợi dụng quyền tiếp cận thông tin để xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, hạ thấp uy tín của người khác.
+ Bảo vệ an ninh quốc gia
Trường hợp việc kiếm, tiếp nhận và phổ biến thơng tin có thể gây mất
ổn định chính trị, rối loạn an ninh quốc gia thì cơ quan có trách nhiệm cung
cấp thơng tin có quyền từ chối cung cấp thơng tin, cá nhân, tổ chức nếu cố
tình vi phạm thì có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Các trường hợp miễn trừ khác
Ngoài hai trường hợp miễn trừ cơ bản nêu trên, các quốc gia còn đặt ra
một số trường hợp miễn trừ khác như:
18


Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông
tin, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 277.


20

Thông tin mà việc cung cấp sẽ gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an tồn
xã hội, tính mạng, sức khỏe, mơi trường… Ví dụ việc cung cấp địa điểm sinh
sống của các lồi động, thực vật q hiếm có thể làm ảnh hưởng đến mơi
trường sống của chúng vì dựa trên thơng tin đó người ta có thể tìm đến thăm
quan, đánh bắt, chặt phá, hủy hoại môi trường.
Thông tin mà việc cung cấp sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế,
chính sách tài chính, tiền tệ của quốc gia. Điển hình của trường hợp này là
việc rị rỉ thông tin xăng lên giá, kết quả là người dân đổ xô đi mua xăng về
dự trữ, gây tâm lý không hay trong xã hội và ảnh hưởng đến nền kinh tế do
các cá nhân, tổ chức đầu cơ xăng, đợi lên giá bán ra kiếm lợi nhuận.
Thông tin có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ ngoại giao
giữa các quốc gia với nhau và với các tổ chức quốc tế. Vào giữa năm 2010,
một nhà báo người Úc, người sáng lập trang web Wikileaks đã cho công bố
các báo cáo liên quan đến cuộc chiến ở Afghanistan, Iraq cũng như những
bức điện, công hàm, tài liệu mật của Mỹ trên website Wikileaks, đồng thời
gửi đến một số tờ báo nổi tiếng của Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nhà. Mặc
dù Mỹ đã tạo ra nhiều sức ép để ngăn chặn vụ việc này, tuy nhiên hậu quả của
nó là ảnh hưởng lâu dài đến mối quan hệ ngoại giao của Mỹ và các nước
khác.
Thông tin nếu tiết lộ sẽ ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố, xét xử,
thực thi pháp luật… Quy định này nhằm bảo đảm không cản trở hoạt động
của cơ quan làm nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và q trình đấu tranh ngăn
ngừa, phịng chống tội phạm, bảo đảm tội phạm phải được phát hiện, ngăn
ngừa và xử lý theo quy định của pháp luật.

1.3. Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà
nước
Quyền tiếp nhận thông tin của công dân trong quản lý nhà nước là khả
năng công dân nhận được những thông tin, tài liệu do cơ quan hành chính nhà
nước tạo ra, nắm giữ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
1.3.1. Chủ thể có quyền tiếp nhận thông tin trong quản lý nhà nước
Chủ thể tiếp nhận thông tin trong quản lý nhà nước rất rộng, bao gồm
cá nhân (cơng dân, người nước ngồi, người khơng quốc tịch), cơ quan, tổ
chức... Thông thường, pháp luật không quy định giới hạn cũng như điều kiện
đối với chủ thể tiếp nhận thơng tin. Ngược lại, trong quyền tìm kiếm thông


×