Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Quy định của pháp luật về căn cứ bồi thường trong bảo hiểm tài sản và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.29 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------    ------

BÙI THỊ OANH

Đề tài :
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM
TÀI SẢN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------    ------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Đề tài :
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM
TÀI SẢN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

SVTH: BÙI THỊ OANH
KHÓA :30 - MSSV: 3020135
GVHD: TS. NGUYỄN THANH BÌNH


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHTS

Bảo hiểm tài sản

BLDS

Bộ luật dân sự( 2005)

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

HĐBH

Hợp đồng bảo hiểm

HĐBHTS

Hợp đồng bảo hiểm tài sản

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

LKDBH


Luật kinh doanh bảo hiểm

PLKDBH

Pháp luật kinh doanh bảo hiểm

QHBH

Quan hệ bảo hiểm


MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TÀI SẢN
1.1 Khái quát chung về bảo hiểm tài sản
1.1.1 Khái niệm bảo hiểm tài sản .......................................................................... 3
1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm tài sản ..................................................................... 4
1.2 Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.2.1 Khái niệm...................................................................................................... 7
1.2.2 Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản ..................................................... 8
1.2.3 Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản ..................................... 10
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ BỒI THƯỜNG
TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN
2.1 Quy định của pháp luật về bồi thường trong bảo hiểm tài sản
2.1.1 Khái niệm bồi thường trong bảo hiểm tài sản ........................................... 16
2.1.2 Chủ thể thực hiện nghĩa vụ bồi thường ..................................................... 16
2.1.3 Nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm tài sản ......................................... 16
2.2 Căn cứ bồi thường

2.2.1 Bồi thường theo thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm.
2.2.1.1 Nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận. ......................................... 18
2.2.1.2 Căn cứ bồi thường theo thỏa thuận................................................. 18
2.2.2 Căn cứ bồi thường theo luật định.
2.2.2.1 Số tiền bảo hiểm ............................................................................. 21
2.2.2.2 Giá trị tài sản được bảo hiểm .......................................................... 24
2.2.2.3 Phí bảo hiểm ................................................................................... 27
2.2.2.4 Mức độ tổn thất trên thực tế ........................................................... 29
2.2.2.5 Mức độ lỗi của bên mua bảo hiểm ................................................. 33
2.2.3 Bồi thường trong trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo
hiểm tài sản trùng ................................................................................................. 35
2.2.4 Bồi thường trong trường hợp bên mua bảo hiểm hoặc bên thứ ba có lỗi
trong việc gây ra thiệt hại. ................................................................................... 36


CHƯƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ BỒI THƯỜNG
TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1 Những bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành
3.1.1 Bất cập của pháp luật về căn cứ bồi thường trong trường hợp giao kết hợp đồng
bảo hiểm tài sản trên giá trị..................................................................................... 39
3.1.2 Bất cập của pháp luật về bồi thường trong trường hợp giao kết hợp đồng bảo
hiểm tài sản trùng.................................................................................................... 40
3.1.3 Những bất cập của pháp luật về căn cứ và giới hạn bồi thường................ 42
3.1.4 Bất cập trong việc quy định căn cứ xác định giá trị tài sản ....................... 44
3.2 Thực trạng bồi thường trong bảo hiểm tài sản
3.2.1 Miễn thường .............................................................................................. 45
3.2.2 Thực trạng trong việc xác định số tiền bảo hiểm. ..................................... 47
3.2.3 Thực trạng về phương thức bồi thường ..................................................... 47

3.2.4 Các trường hợp tranh chấp về căn cứ bồi thường...................................... 48
3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về căn cứ bồi thường trong bảo
hiểm tài sản
3.3.1 Kiến nghị sửa đổi pháp luật đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị
................................................................................................................................ 53
3.3.2 Kiến nghị bổ sung quy định của pháp luật đối với bảo hiểm tài sản trùng ..
................................................................................................................................ 53
3.3.3 Kiến nghị bổ sung điều khoản về căn cứ bồi thường thiệt hại khi bên
mua bảo hiểm khơng đóng đủ phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí. ..... 54
3.3.4 Kiến nghị sửa đổi quy định của pháp luật về bồi thường đối với tổn thất
do hao mòn tự nhiên ............................................................................................... 55
3.3.5 Kiến nghị bổ sung quy định của pháp luật về căn cứ xác định giá trị tài sản
................................................................................................................................ 56
3.3.6 Các kiến nghị khác có liên quan nhằm hồn thiện pháp luật về bồi thường trong
bảo hiểm tài sản ...................................................................................................... 56
KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm ra đời và phát triển xuất phát từ nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển và đóng một vai trị quan
trọng trong việc ổn định q trình sản xuất, sinh hoạt. Ở Việt Nam, việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới đã tạo tiền đề cho sự phát
triển mạnh mẽ các nhu cầu đảm bảo bảo hiểm. Bởi trong cuộc sống sinh hoạt và sản xuất
hàng ngày, dù muốn hay khơng thì con người vẫn luôn phải đối mặt với những tổn thất hậu quả của rủi ro và hậu quả này sẽ làm gián đoạn quá trình sản xuất, giảm sút hiệu quả
kinh doanh.
Tham gia vào QHBH nói chung và BHTS nói riêng, mục đích của người mua bảo
hiểm là được DNBH gánh vác thay cho mình phần tổn thất đối với tài sản được mua bảo
hiểm khi có rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, việc bồi thường tổn thất này phải tuân theo một trình
tự, thủ tục nhất định đó là địi bồi thường và giải quyết bồi thường. Số tiền bồi thường của

DNBH cũng phải dựa trên các căn cứ của pháp luật để đảm bảo được sự công bằng hợp lý,
tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm là sự đền bù chính xác về mặt tài chính, đủ để
khắc phục lại tình trạng tài chính ban đầu của người được bảo hiểm như trước khi xảy ra
tổn thất. Để nguyên tắc này được tuân thủ một cách triệt để thì địi hỏi phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh quy định về nghĩa vụ bồi thường và căn cứ bồi thường. Nếu người
được bảo hiểm không được bồi thường đầy đủ tức là mục đích bảo hiểm đã khơng đạt được.
Khi đó sẽ dẫn đến tranh chấp về bảo hiểm, đồng thời cũng làm giảm uy tín, hiệu quả kinh
doanh của DNBH.
Căn cứ bồi thường trong bảo hiểm thương mại nói chung và BHTS nói riêng có vai trị
quan trọng trong việc tính toán số tiền bồi thường. Trong thời gian qua cũng đã có nhiều bài
viết đề cập đến vấn đề về bản chất, vai trò cũng như bất cập của pháp luật kinh doanh bảo
hiểm. Tuy nhiên, nghiên cứu về căn cứ bồi thường vẫn chưa có một đề tài nào được tiếp
cận. Trong các sách giáo trình bảo hiểm của trường Đại học Kinh tế quốc dân, các sách
chuyên khảo của các tác giả GS.TS Trương Mộc Lâm, TS. Phạm Văn Tuyết,… cũng chỉ đề
cập một cách bao quát về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Điều này dẫn đến việc tiếp cận
vấn đề căn cứ bồi thường bị hạn chế.
Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả đã chọn nội dung “Quy định của pháp luật về
căn cứ bồi thường trong bảo hiểm tài sản và hướng hồn thiện” làm đề tài nghiên cứu của
mình với mong muốn được đóng góp một số kiến nghị nhằm đảm bảo nguyên tắc bồi
thường được tuân thủ một cách đúng đắn.

1


2. Phương pháp, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê Nin với phép tư duy biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó cịn có sự kết hợp
với các phương pháp khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng minh để làm rõ các vấn

đề đặt ra của đề tài, lý giải các vấn đề một cách cụ thể.
2.2 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, trình bày các quy định của pháp luật về căn cứ xác định số tiền
bồi thường của DNBH trong BHTS tác giả phân tích một số bất cập của pháp luật và qua đó
đề xuất những kiến nghị góp phần xây dựng, hồn thiện cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt
động KDBH nói chung và kinh doanh BHTS nói riêng được hiệu quả, công bằng.
2.3 Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về căn cứ bồi thường của DNBH trong
BHTS.
- Đánh giá quy định của pháp luật về căn cứ bồi thường trong BHTS.
- Đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về căn cứ bồi thường và các quy định
có liên quan nhằm đảm bảo hoạt động bồi thường trong BHTS được hợp lý, hiệu quả.
2.4 Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động KDBH nói chung, kinh doanh BHTS nói riêng là loại hình kinh doanh rất
phức tạp, đa dạng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
một cách khái quát: “Các quy định của pháp luật về căn cứ bồi thường trong bảo hiểm tài
sản và hướng hồn thiện”, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định số tiền bồi
thường trong BHTS nói chung mà khơng đi vào phân tích căn cứ bồi thường cho từng loại
BHTS cụ thể và khơng đi tính tốn số tiền bồi thường là bao nhiêu.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến căn cứ bồi thường trong BHTS,
nguyên tắc bồi thường thiệt hại và ý nghĩa của việc áp dụng các nguyên tắc đó trong BHTS.
4. Cơ cấu của đề tài, bao gồm:
Phần mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật về căn cứ bồi thường trong BHTS
Chương 3: Những bất cập trong quy định của pháp luật về căn cứ bồi thường trong bảo
hiểm tài sản và hướng hoàn thiện
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


2


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TÀI SẢN
1.1 Khái quát chung về bảo hiểm tài sản
1.1.1 Khái niệm bảo hiểm tài sản
1.1.1.1 Sự cần thiết của bảo hiểm
Trong đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày, con người ln có nguy cơ phải đối
mặt với những tổn thất do rủi ro đem tới. Rủi ro trong ngôn ngữ đời thường được hiểu là sự
không may mắn, xui xẻo, là những mối nguy hiểm không lường trước được. Rủi ro có khả
năng gây ra biến cố khơn lường, dẫn đến nhiều tổn thất to lớn.
Tổn thất là sự thiệt hại một đối tượng nào đó do có một biến cố xảy ra không mong
muốn. Tổn thất phát sinh làm gián đoạn hoạt động kinh doanh, sản xuất. Trên một bình diện
rộng thì tổn thất làm giảm của cải vật chất xã hội, ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất của
tồn bộ nền kinh tế xã hội. Vì vậy, con người ln tìm cách để tránh né, chống lại hoặc
giảm thiểu rủi ro trong khả năng, mức độ có thể.
- Tránh né rủi ro: Là việc thực hiện các biện pháp đề phòng tốt nhất để rủi ro không
xảy ra. Điều này là không thể. Trong cuộc sống hàng ngày nếu ta lựa chọn phương thức này
để né tránh rủi ro này thì nó vẫn có thể dẫn đến một rủi ro khác. Ví dụ: Né tránh cháy nổ
bằng cách khơng để tài sản ở những nơi có lửa, nhưng tài sản vẫn có thể bị mất cắp. Rủi ro
không thể tránh né, mà chấp nhận tự bản thân gánh chịu hậu quả của rủi ro thì khả năng
phục hồi các lợi ích đã mất phải tốn kém cả thời gian, tiền bạc đầu tư lại. Tính về hiệu quả
kinh tế thì đây khơng phải là một giải pháp tối ưu.
- Giảm thiểu rủi ro: Là việc áp dụng các biện pháp làm triệt tiêu các nguy cơ đang tồn
tại mà nó có khả năng làm tăng tổn thất. Tức là phán đốn trước các khả năng có thể gây ra
tổn thất, và làm giảm thiểu khả năng gây ra biến cố mà không thể làm triệt tiêu rủi ro.
- Hốn chuyển rủi ro: Đây là hình thức hốn chuyển tồn bộ hoặc một phần rủi ro cho
một hoặc nhiều chủ thể khác. Hình thức chuyển giao này có thể là chuyển nhượng đơn
thuần hoặc trên nguyên tắc tương hỗ, phân tán rủi ro như: cho thầu lại, lập quỹ chung trong

một cộng đồng. Quỹ này sẽ được dùng để xử lý các rủi ro.
Một trong những phương thức để tái lập lại thế cân bằng, tái tạo lại các quá trình sản
xuất và sinh hoạt bị gián đoạn do có tổn thất là việc hốn chuyển rủi ro thông qua kỹ thuật
bảo hiểm. Kỹ thuật bảo hiểm sẽ giúp quy tụ được một số đông người trong đó chỉ có một số
ít người gặp rủi ro và bị tổn thất. Tức là, thông qua hoạt động của tổ chức bảo hiểm, rủi ro
khi xảy ra cho một số ít người thì hậu quả của nó sẽ được dàn mỏng, chia nhỏ, chuyển cho

3


số đông người cùng gánh chịu. Người mua bảo hiểm sẽ được DNBH bồi thường bằng cách
lấy tiền từ quỹ bảo hiểm do số đông người tham gia bảo hiểm cùng đóng góp để chi trả rủi
ro, bù đắp tổn thất nhằm đảm bảo tính thường xuyên liên tục của các q trình xã hội mà
khơng cần phải để dành một khoản tiền dự trữ quá lớn.
Bảo hiểm không những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi có rủi ro mà cịn có tác
dụng đề phịng rủi ro, tổn thất. Do hoạt động KDBH là một hoạt động kinh doanh kiếm lời.
Để tối đa hố lợi nhuận thì doanh nghiệp phải nhận diện được rủi ro, đánh giá tần suất, mức
độ nghiêm trọng của rủi ro và hình thành nên các giải pháp xử lý rủi ro. Nếu tổn thất được
đánh giá chính xác và có biện pháp hạn chế thiệt hại thì mức độ thiệt hại sẽ giảm, rủi ro
cũng giảm theo.
1.1.1.2 Khái niệm bảo hiểm tài sản
Cơ chế hoạt động của bảo hiểm “là sự đóng góp của số đơng vào sự bất hạnh của số
ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài
chính của những vụ tổn thất.1 Dưới góc độ pháp lý: Bảo hiểm được coi là một hoạt động
kinh doanh tạo lập quỹ tiền tệ của bên bảo hiểm được hình thành từ phí của bên mua bảo
hiểm và dùng quỹ này để tiến hành chi trả cho các sự kiện bảo hiểm. Dưới góc độ KDBH:
“Bảo hiểm được xem là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một
tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, cơng ty đó sẽ bồi thường cho người
được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm”2
LKDBH khơng có điều khoản riêng đưa ra khái niệm về BHTS mà chỉ có điều

khoản khái niệm về KDBH nói chung.3 Tuy nhiên, về bản chất BHTS cũng là một loại hình
KDBH, có đối tượng kinh doanh là tài sản. Tài sản là đối tượng bảo hiểm bao gồm nhiều
chủng loại và có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào hình thái
biểu hiện có thể phân làm tài sản hữu hình và tài sản vơ hình. Căn cứ vào loại hình sở hữu
có thể phân thành tài sản thuộc sở hữu nhà nước, tài sản thuộc sở hữu tư nhân, tài sản thuộc
sở hữu tập thể, tài sản thuộc sở hữu chung,.... Từ đó ta có thể định nghĩa BHTS theo hướng
sau đây: BHTS là một loại hình bảo hiểm theo đó DNBH sẽ tiến hành thu phí bảo hiểm
của người mua bảo hiểm theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị của tài sản và
cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

1

Nguyễn Tiến Hùng ( 2007), Nguyên lý và thực hành bảo hiểm, NXB Tài chính, Tr.23.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân ( 2008), Giáo trình bảo hiểm , NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
Tr.10.
3
Xem khoản 1, điều 3 LKDBH năm 2000.
2

4


1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm tài sản
1.1.2.1 Bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi với tài sản được bảo hiểm, đây là điều kiện để
HĐBHTS có hiệu lực. Nếu bên mua bảo hiểm khơng có quyền lợi bảo hiểm đối với đối
tượng bảo hiểm tức là họ đã mua bảo hiểm cho tài sản của người khác và khi rủi ro bảo
hiểm xảy ra họ có thể nhận được số tiền bồi thường một cách ngẫu nhiên và không bị tổn
thất về mặt lợi ích tài chính do tài sản bị tổn thất, mất mát. Pháp luật quy định như vậy là vì
tài sản ln gắn liền với quyền sở hữu của chủ tài sản. Chủ tài sản là người có đầy đủ ba

quyền năng cơ bản: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Khoản 9
điều 3 LKDBH cũng quy định: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng”. Để bảo vệ tài sản trước những rủi ro dẫn đến tổn thất, đảm bảo
các lợi ích tài chính của mình thì chủ sở hữu có thể tham gia vào QHBH, chuyển giao rủi ro
đáng lẽ mình phải gánh chịu sang cho DNBH thơng qua việc đóng phí bảo hiểm.
Trên thực tế, chủ sở hữu có thể chuyển quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cho người
khác dưới các hình thức như ủy quyền, cho mượn, cho thuê. Nếu tài sản gặp rủi ro dẫn đến
thiệt hại thì những chủ thể này sẽ phải chịu trách nhiệm đối với chủ sở hữu của tài sản về sự
mất mát đó. Xuất phát từ nguyên nhân này mà pháp luật cho phép họ được quyền tham gia
vào quan hệ BHTS.
1.1.2.2 Bảo hiểm tài sản là sự chia sẻ rủi ro thông qua việc tạo lập quỹ bảo hiểm
Theo tác giả Nguyễn Hải Sản: “Rủi ro thường được định nghĩa là xác suất có thể xảy
ra một thiệt hại. Nó là sự may rủi về một hậu quả khơng có lợi hay là sự tiến triển dẫn tới
kết quả gây ra một thiệt hại kinh tế đối với cá nhân hoặc một cơng ty.” 4
Rủi ro là những tình huống bất trắc xảy ra ngoài ý muốn của con người là yếu tố dẫn
đến tổn thất nhất định về mặt vật chất hoặc tinh thần.5 Nói đến rủi ro trong BHTS là nói đến
sự khơng chắc chắn, là khả năng xảy ra tổn thất. Nếu một sự kiện mà biết chắc chắn nó sẽ
xảy ra hoặc khơng xảy ra thì sẽ khơng có rủi ro.
- Theo ngun nhân, rủi ro đối với tài sản có thể được chia thành: Rủi ro bắt nguồn từ
những nguyên nhân khách quan như là: Các sự kiện bất khả kháng, tai nạn bất ngờ hoặc rủi
ro bắt nguồn từ nguyên nhân do hành động của con người (nguyên nhân chủ quan).

4

Nguyễn Hải sản (1996), Quản lý doanh nghiệp, NXB Thống kê Hà Nội, Tr.420.
Xem Nguyễn Thị Thủy (2006), “Các yếu tố chi phối quy định của pháp luật trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí
khoa học pháp lý, ( 04), Tr.9- 17.
5

5



Sự kiện bất khả kháng theo khoản 1, điều 161 BLDS 2005 “là sự kiện xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”
Tai nạn bất ngờ: Là những trường hợp tài sản bị lâm vào các trạng thái như mất tích,
bị phá huỷ, cháy, nổ, đắm tàu, tàu bị đâm va với tàu khác...
Hành động của con người: Trộm cắp, cướp, đình cơng, tịch thu tài sản, hoặc do sự sơ
suất của chính bên mua bảo hiểm làm cho tài sản bị lâm vào tình trạng hư hỏng.
- Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì rủi ro được chia thành: rủi ro thông thường được bảo
hiểm, rủi ro không được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm có điều kiện.
Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Là những rủi ro được DNBH chấp nhận bảo hiểm
trong những điều kiện bảo hiểm thơng thường ví dụ như mất cắp, cháy nổ, va đập...
Rủi ro không được bảo hiểm: Là những rủi ro không được bảo hiểm trong mọi trường
hợp do vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm đạo đức kinh doanh, đạo đức xã hội. Ví dụ
như tài sản do bn lậu mà có, tài sản tổn thất do bị tịch thu, do ác ý của người mua bảo
hiểm.
Rủi ro được bảo hiểm theo một điều kiện riêng: Các rủi ro này chỉ được bảo hiểm nếu
bên mua bảo hiểm và DBNH có ký kết những điều khoản riêng để mở rộng phạm vi bảo
hiểm của DNBH. Để được bảo hiểm cho những rủi ro này thì bên mua bảo hiểm phải trả
thêm một khoản phí nhất định.
Rủi ro là đối tượng kinh doanh của các DNBH, vì vậy nếu khơng có rủi ro thì sẽ
khơng có bảo hiểm. Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh
tổn thất. Như vậy, việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp có vai trị rất
quan trọng để xác định tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay khơng.
Tham gia vào QHBH mục đích hướng tới của DNBH là lợi nhuận. Để có thể chi trả
cho các trường hợp thuộc phạm vi bảo hiểm thì DNBH phải có năng lực tài chính vững
chắc. Năng lực tài chính được thể hiện ở hiệu quả của việc tạo lập quỹ bảo hiểm từ nguồn
phí bảo hiểm của số đơng những người có nhu cầu mua bảo hiểm. Khoản tiền bồi thường
của DNBH cho bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm thường lớn hơn rất nhiều lần so

với khỏan phí mà DNBH nhận được. Để làm được điều này thì hoạt động bảo hiểm thương
mại nói chung, hoạt động kinh doanh BHTS nói riêng phải dựa trên nguyên tắc số đơng bù
số ít. Tổn thất của một hay một số ít người khi gặp rủi ro sẽ được san sẻ cho nhiều người
dựa vào một quỹ chung. Theo nguyên tắc thì càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì mức

6


độ tổn thất được phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu rủi ro của từng thành viên cũng nhẹ
hơn. Do quỹ bảo hiểm tích tụ được lớn, khả năng bồi thường trở lên thuận lợi.
1.1.2.3 Bảo hiểm tài sản là quan hệ bồi thường ngang giá
Mục đích của BHTS là giúp các chủ sở hữu khôi phục hậu quả tổn thất của tài sản
bằng cách bồi thường một giá trị tương xứng với mức độ thiệt hại, đảm bảo lợi ích kinh tế
của bên mua bảo hiểm như trước khi tài sản bị tổn thất. Bên mua bảo hiểm khơng được
kiếm lời thơng qua hình thức mua bảo hiểm. Bồi thường bảo hiểm chỉ đặt ra khi có rủi ro
làm phát sinh sự kiện bảo hiểm và có tổn thất trên thực tế. Số tiền bồi thường trong mọi
trường hợp không được lớn hơn tổn thất thực tế. Thông thường DNBH chỉ bồi thường cho
bên mua bảo hiểm những chi phí thực tế, hợp lý để sửa chữa, thay thế tái tạo lại tài sản như
trước khi bị tổn thất. Trong trường hợp phải thay mới bộ phận của tài sản thì DNBH được
quyền khấu trừ phần giá trị khấu hao của bộ phận tài sản bị thay thế.
1.1.2.4 Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm theo giá trị tài sản
Đối tượng được bảo hiểm của loại hình BHTS là tài sản - đối tượng luôn xác định
được giá trị. Giá trị tài sản đó là giá trị thực tế hay giá thị trường của tài sản. Giá trị của tài
sản cũng là một yếu tố quyết định đến việc thỏa thuận số tiền bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm
chỉ được yêu cầu số tiền bảo hiểm cao nhất bằng với giá trị của tài sản tại thời điểm tham
gia bảo hiểm. Tức các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận số tiền bảo hiểm cho toàn bộ
giá trị tài sản hoặc chỉ một phần giá trị tài sản. Pháp luật không cho phép các bên được giao
kết hợp đồng trên giá trị. Giá trị tài sản còn quyết định đến giới hạn trách nhiệm bồi thường
của DNBH. Khi có tổn thất xảy ra DNBH sẽ bồi thường tối đa không quá giá trị của tài sản
tại thời điểm xảy ra tổn thất.

1.2 Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.2.1 Khái niệm
BLDS Việt Nam năm 2005 tại điều 388 có định nghĩa về hợp đồng như sau: “Hợp
đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.” HĐBH cũng là một dạng của hợp đồng dân sự, nó cũng phải đáp ứng đầy đủ các
quy định của pháp luật dân sự về cả hình thức và nội dung để hợp đồng đó có hiệu lực trên
thực tế.
LKDBH tại điều 12 khoản 1cũng quy định “HĐBH là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo
hiểm và DNBH theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, DNBH trả tiền bảo hiểm
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Ta có thể khái
quát lại như sau:

7


- HĐBHTS là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên mua bảo hiểm và DNBH về các
điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm, nghĩa vụ bồi thường của DNBH khi có sự kiện
bảo hiểm.
- HĐBHTS là hợp đồng song vụ, quyền của bên này là nghĩa vụ mà bên kia phải thực
hiện.
- HĐBHTS là hợp đồng được ký kết dựa trên ngun tắc bình đẳng, thiện chí và trung
thực.
- Các thoả thuận của các bên trong hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật
và không trái đạo đức xã hội.
Như vậy, quan hệ BHTS chỉ thực sự phát sinh khi các bên giao kết HĐBH. Hợp đồng
là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
1.2.2 Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.2.2.1 Hình thức hợp đồng bảo hiểm tài sản
LKDBH điều 14 quy định: HĐBH phải được lập thành văn bản, giấy chứng nhận bảo
hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax là bằng chứng giao kết hợp đồng. Điều này có

nghĩa: Hình thức của hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Pháp luật có quy định
này là xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động KDBH: Sản phẩm bảo hiểm là một loại dịch
vụ đặc biệt - một lời cam kết đảm bảo cho sự an toàn trong tương lai. Các thoả thuận phải
được lập thành văn bản để quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của từng bên trong hợp
đồng, các bên phải coi đó là căn cứ thực hiện các cam kết một cách trung thực và hợp tác.
Quy định hợp đồng phải thành lập bằng văn bản là nhằm mục đích hạn chế trường
hợp khi có tranh chấp xảy ra các bên khơng đưa ra được các căn cứ pháp lý chứng minh cho
việc có tồn tại quan hệ HĐBH giữa các bên. Nó là căn cứ quan trọng để xem xét tư cách,
trách nhiệm của từng bên. Do hợp đồng bằng văn bản diễn đạt chính xác nội dung, ý chí của
các bên khi xác lập và thực hiện hợp đồng. Ở một chừng mực nào đó cịn là cơ sở để bảo
vệ bên mua bảo hiểm trước một giao dịch có tính phức tạp.
1.2.2.2 Về tính chất của hợp đồng bảo hiểm tài sản
HĐBH có một số tính chất chung trong khuôn khổ những quy định của luật pháp về
hợp đồng dân sự, ngồi ra nó cịn có một số tính chất riêng biệt gắn liền với đặc trưng kinh
tế - kỹ thuật của lĩnh vực bảo hiểm.
a. Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng song vụ mở sẵn
HĐBHTS là hợp đồng được ký kết dựa trên sự chấp thuận của bên mua bảo hiểm và
DNBH trên nguyên tắc, tự nguyện, bình đẳng. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia

8


trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia.
Tính chất mở sẵn thể hiện: HĐBHTS là hợp đồng theo mẫu. Các điều khoản bảo hiểm
do DNBH soạn thảo trước (và được Bộ tài chính chấp nhận) mà khơng phải hình thành từ
việc đàm phán trực tiếp. Bên tham gia bảo hiểm có quyền xem xét chấp nhận hay khơng
chấp nhận các điều khoản đó theo ý chí của mình. Đồng ý tham gia vào QHBH là đồng
nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội dung các điều khoản mẫu của DNBH.
Bảo hiểm là hoạt động kinh doanh mang tính chun mơn nghiệp vụ cao. Pháp luật

u cầu thủ tục đăng ký, phê chuẩn đối với các quy tắc bảo hiểm, hợp đồng mẫu là nhằm
mục đích thực hiện chức năng kiểm sốt tính hợp pháp của dịch vụ bảo hiểm, giám sát
nghĩa vụ cung cấp thông tin của DNBH, đề phịng sự bất bình đẳng trong việc cung cấp
thông tin, xâm phạm đến quyền lợi của công chúng.
b. Hợp đồng bảo hiểm tài sản được ký kết dựa trên nguyên tắc trung thực tuyệt
đối
Nguyên tắc trung thực là nguyên tắc cơ bản được áp dụng cho mọi quan hệ kinh tế,
dân sự. Hoạt động bảo hiểm thương mại tạo đã ra một sự hoán chuyển rủi ro từ người được
bảo hiểm sang DNBH dựa trên cơ sở pháp lý là HĐBH. Điều này đã tạo ra một rủi ro mới
đe doạ mối quan hệ giữa hai bên trong hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm là một lời cam kết, liệu
lúc xảy ra tổn thất DNBH có trả tiền bồi thường hay khơng trong khi phí bảo hiểm đã được
đóng. Các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng, liệu có sự
man trá nào từ phía bên mua bảo hiểm hay khơng để hưởng tiền bồi thường. Như vậy, mối
quan hệ giữa hai bên trong HĐBH phải là mối quan hệ gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau
một cách tuyệt đối.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối được hiểu là mỗi bên phải có nghĩa vụ tin tưởng nhau,
khơng được lừa dối nhau, làm cho bên kia hiểu sai mà giao kết hợp đồng. Tại điều 17
LKDBH có quy định: DNBH có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều
kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Bên cạnh đó bên mua
bảo hiểm là người biết chính xác nhất về đối tượng của HĐBH do họ là người sở hữu,
chiếm giữ hợp pháp tài sản nên họ phải có nghĩa vụ khai báo đầy đủ, chính xác mọi thơng
tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm, về rủi ro, về mối đe dọa nguy hiểm hay các trường
hợp làm tăng thêm rủi ro mà họ biết được hoặc đáng lẽ phải biết cho DNBH để thơng qua
các thơng tin đó DNBH có thể đánh giá khả năng rủi ro, có những biện pháp phịng ngừa
hạn chế sớm và áp dụng mức phí bảo hiểm cho phù hợp. Trong trường hợp bên mua bảo

9


hiểm không khai báo đầy đủ, trung thực các thông tin về tài sản có thể dẫn đến hậu quả bị

DNBH từ chối trách nhiệm bồi thường, hoặc đơn phương chấm dứt HĐBH.
c. Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng có bồi thường
Mối quan hệ giữa các bên trong HĐBH là mối quan hệ tiền tệ. Bên mua bảo hiểm phải
trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm. DNBH có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Trách nhiệm bảo hiểm của DNBH chỉ phát sinh khi bên mua bảo hiểm đã
nộp phí (trừ trường hợp có thỏa thuận khác).6 Tức là thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp
đồng không đồng nhất với thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường của DNBH. Dù hợp
đồng đã được giao kết nhưng bên mua bảo hiểm chưa nộp phí thì trách nhiệm bồi thường
của DNBH chưa phát sinh. Bởi vì, HĐBHTS là hợp đồng song vụ, bên mua bảo hiểm chưa
thực hiện nghĩa vụ đóng phí thì cũng chưa thể u cầu DNBH thực hiện trách nhiệm bồi
thường. Đồng thời, phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng để tạo lập
nên quỹ bảo hiểm. Nếu quỹ bảo hiểm chưa lập thì DNBH sẽ khơng có khả năng tài chính để
bồi thường.
d. Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng may rủi
Hợp đồng may rủi là loại hợp đồng không xác định được rõ ràng hiệu quả của hợp
đồng khi ký kết hợp đồng. HĐBHTS là hợp đồng được ký kết để bảo hiểm cho những rủi ro
trong tương lai. Nếu khơng tồn tại rủi ro thì các bên sẽ không tham gia vào quan hệ HĐBH.
Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may, nằm ngoài sự mong muốn của các bên.
DNBH là bên kinh doanh sản phẩm rủi ro, tại thời điểm giao kết rủi ro chưa tồn tại, sản
phẩm mà DNBH đem bán tại thời điểm giao kết HĐBH là lời hứa sẽ thực hiện nghĩa vụ bồi
thường. Nghĩa vụ này của DNBH có phải thực hiện hay khơng cịn phụ thuộc vào việc có
yếu tố rủi ro làm phát sinh sự kiện bảo hiểm hay không. Nếu sự kiện bảo hiểm khơng xảy ra
thì bên mua bảo hiểm khơng nhận được một khoản chi hoàn lại nào của DNBH.
1.2.3 Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản
HĐBH thương mại phải có đầy đủ các điều khoản cơ bản, chủ yếu mà pháp luật quy
định để đảm bảo cho hợp đồng có hiệu lực. Theo quy định tại điều 13 LKDBH, nội dung
của HĐBH nói chung và nội dung của HĐBHTS nói riêng phải có những điều khoản sau
đây:
- Tên, địa chỉ của DNBH, bên mua bảo hiểm
- Đối tượng bảo hiểm

6

Điều 15 LKDBH năm 2000 quy định “ Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi HĐBH đã được giao kết hoặc khi
có bằng chứng DNBH đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác trong HĐBH.”

10


- Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm
- Trách nhiệm bảo hiểm
- Các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
- Thời hạn và phương thức trả tiền bảo hiểm
Ngồi các điều khoản chủ yếu thì các bên có thể thỏa thuận thêm các điều khoản
khác để phù hợp với nhu cầu và đảm bảo lợi ích cho các bên khi tham gia hợp đồng như là
các điều khoản gia hạn đóng phí, căn cứ bồi thường, chuyển nhượng hợp đồng,v.v…
1.2.3.1 Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm tài sản
Tham gia vào quan hệ HĐBHTS bên mua bảo hiểm và DNBH là hai chủ thể bắt buộc
và quan trọng. Bản chất của HĐBHTS là hợp đồng song vụ vì vậy nếu thiếu một trong hai
bên thì sẽ khơng thể hình thành nên QHBH.
a. Doanh nghiệp bảo hiểm
DNBH là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp
luật để KDBH, tái bảo hiểm. DNBH là một pháp nhân. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền
lợi, tránh rủi ro về mặt tài chính cho bên mua bảo hiểm. Theo quy định của PLKDBH tại
điều 59 thì chỉ có các loại hình DNBH sau: DNBH nhà nước; cơng ty bảo hiểm cổ phần;
DNBH liên doanh; DNBH 100% vốn nước ngoài; tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Mục đích của
DNBH khi tham gia vào QHBH là tìm kiếm lợi nhuận thơng qua việc tạo lập quỹ bảo hiểm
từ số đông và thực hiện chi trả bảo hiểm cho những trường hợp thuộc phạm vi được bảo
hiểm.
Lĩnh vực KDBH là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, để thực hiện chức năng KDBH

pháp luật quy định:
- DNBH phải có đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Có vốn điều lệ cao hơn hoặc bằng với vốn pháp định;
- Phải được Bộ tài chính chấp thuận bằng văn bản về việc cho phép thành lập và hoạt
động KDBH.
b. Bên mua bảo hiểm
Theo khoản 6 điều 3 LKDBH, bên mua bảo hiểm là “tổ chức, cá nhân giao kết HĐBH
với DNBH và đóng phí bảo hiểm”. Điều này có nghĩa là: bên mua bảo hiểm là chủ thể trực
tiếp giao kết HĐBH. Đồng thời, để tham gia vào quan hệ hợp đồng BHTS thì bên mua bảo
hiểm phải thỏa mãn các điều kiện:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật dân sự.

11


- Là người có quyền lợi được bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm trong BHTS chỉ có thể là
chủ sở hữu của tài sản hoặc người trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản. Vì vậy, nếu tài sản
được bảo hiểm mà được tặng, cho, để lại thừa kế - tức là có sự thay đổi chủ sở hữu thì bên
mua bảo hiểm và DNBH có thể thoả thuận chấm dứt hợp đồng bảo hiểm hoặc chuyển
nhượng hợp đồng cho người chủ mới.
Trong BHTS, bên mua bảo hiểm cũng đồng thời là người được bảo hiểm và người thụ
hưởng. Nguyên tắc này cũng xuất phát từ chính đặc trưng của BHTS là bên mua bảo hiểm
phải có quyền lợi bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm tham gia vào QHBH tự nguyện, khơng bị ép buộc trong việc ký
kết. Vì vậy bên mua bảo hiểm phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Nghĩa vụ nộp phí là nghĩa vụ chủ yếu của bên mua bảo hiểm, chỉ khi
bên mua bảo hiểm nộp phí bảo hiểm thì mới làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường của DNBH.
1.2.3.2 Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản
BHTS là loại nghiệp vụ chọn tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Tài sản theo điều 40
LKDBH bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.

a. Vật có thực
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, có thể đáp ứng được nhu cầu của con người.
Vật theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, vật ở mọi trạng thái.7 Vật có thực là vật
mà con người có thể nhìn thấy được, xác định được về hình dáng, kích cỡ, trọng lượng và
có thể cầm, nắm được. Tuy nhiên, không phải mọi vật tồn tại trong thế giới khách quan đều
đựợc coi là tài sản. Vật có thực được coi là tài sản thì nó phải là vật có giá trị, có thể đưa
vào lưu thơng dân sự. Vì chỉ khi có thể đưa vào lưu thơng thì con người mới có thể khai
thác được các lợi ích từ nó để phục vụ cho đời sống hàng ngày. Bên cạnh đó, để trở thành
đối tượng của quan hệ BHTS thì vật có thực cịn phải thỏa mãn các điều kiện khác như:
- Là vật xác định được giá trị vật chất và thuộc quyền sở hữu của bên mua bảo hiểm.
Vì để tiến hành mua bảo hiểm cho tài sản các bên phải xác định được giá trị của tài sản. Chỉ
khi xác định được giá trị tài sản thì bên mua bảo hiểm mới có thể đưa ra được số tiền bảo
hiểm chính xác, bảo vệ quyền lợi tài chính cho bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiển
xảy ra.
- Khơng phải là vật mà pháp luật cấm đưa vào lưu thơng vì trái với đạo đức xã hội, vi
phạm quy định của pháp luật về quyền sở hữu.

7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2005),Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
Tr. 193.

12


b. Tiền và các giấy tờ trị giá được thành tiền
BLDS Việt Nam 2005 và LKDBH khơng có định nghĩa về “tiền”. Tiền thường được
nghiên cứu dưới góc độ kinh tế. Tiền là giá trị đại diện cho giá trị của hàng hố và là
phương tiện lưu thơng trong giao dịch dân sự. Thông thường khi xác định giá trị của tài sản
người ta thường quy đổi ra thành tiền. Chính vì vậy mà tiền ln tính tốn được giá trị một

cách chính xác nhất và nó được coi là tài sản đặc biệt.
Các loại giấy tờ có giá như cổ phiếu, giấy ghi nợ,... được coi là tài sản vì bản thân
chúng chứa đựng giá trị kinh tế mà có thể tính tốn thành tiền và có khả năng đưa vào giao
dịch dân sự.
c. Các quyền tài sản
Quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS “Là quyền trị giá được thành tiền và
có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Theo khái niệm này,
ta có thể hiểu quyền tài sản là quyền của chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao
quyền chiếm giữ, sử dụng tài sản yêu cầu người khác thực hiện các nghĩa vụ có giá trị bằng
một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc chuyển giao giá trị của một
vật. Quyền tài sản là những quyền gắn liền với tài sản, khi thực hiện những quyền đó, chủ
sở hữu sẽ có một tài sản.
LKDBH năm 2000 tại điều 3 quy định: “Quyền lợi có thể bảo hiểm là quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản...” Điều này có nghĩa là quyền tài sản là
quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu.
1.2.3.3 Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản và
được ghi trong HĐBH. Trong BHTS, số tiền bảo hiểm phải dựa vào giá trị của tài sản. Các
bên trong HĐBHTS có thể thỏa thuận số tiền bảo hiểm cho toàn bộ giá trị của tài sản, hoặc
một phần giá trị của tài sản. Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm không được vượt quá giá trị tài
sản. Số tiền bảo hiểm cũng là mức trách nhiệm cao nhất mà DNBH phải gánh chịu khi tổn
thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
1.2.3.4 Phí bảo hiểm và trách nhiệm bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải trả cho DNBH để tạo lập nên
quỹ bảo hiểm. Nộp phí bảo hiểm là nghĩa vụ cơ bản mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện.
Phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm.
Theo điều 15 LKDBH trách nhiệm bảo hiểm của DNBH chỉ phát sinh khi bên mua
bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm.Trách nhiệm bảo hiểm của DNBH là trách nhiệm được quy

13



định trong HĐBH mà theo đó DNBH phải bồi thường cho bên được bảo hiểm khi sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Trách nhiệm của DNBH giới hạn trong phạm vi bảo hiểm. Nếu rủi ro
không thuộc trường hợp được DNBH chấp nhận bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng
thì sẽ khơng làm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm.
Ngồi ra DNBH cịn có trách nhiệm, nghĩa vụ giải thích các điều khoản của hợp đồng,
cung cấp các thông tin liên quan đến sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Chi trả các
chi phí hợp lý liên quan đến việc hạn chế tổn thất.
1.2.3.5 Loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là điều khoản quy định những trường hợp
DNBH không phải bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điều khoản loại trừ phải được
quy định rõ trong HĐBH.
Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm là
bồi thường những tổn thất do tai nạn bất ngờ, nằm ngoài sự mong muốn của các bên. Do
đó, các hành vi trục lợi bảo hiểm, các tổn thất do sự cố ý gây thiệt hại cho đối tượng được
bảo hiểm sẽ không được bảo hiểm mà nó cịn có thể bị truy tố trước pháp luật. Ngoài ra,
trách nhiệm bảo hiểm của DNBH còn được loại trừ trong trường hợp bên mua bảo hiểm
không cung cấp đầy đủ, trung thực các loại giấy tờ liên quan đến thiệt hại, hoặc sự chậm trễ
trong việc thông báo tổn thất, tự ý sửa chữa tài sản khi chưa thông báo, không làm thủ tục
bảo lưu quyền địi người thứ ba có lỗi trong việc gây thiệt hại cho tài sản được bảo hiểm.
Điều 45 LKDBH quy định những tổn thất hao mòn do bản chất vốn có của tài sản là
trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Bởi vì những hao mịn này là hao mịn tự nhiên
trong q trình sử dụng. Nó là đặc trưng của tất cả các loại tài sản.
Các tổn thất xảy ra trong trường hợp nhà nước ra lệnh cấm cũng được coi là một trong
những nguyên nhân từ chối trách nhiệm bồi thường của DNBH. Bởi vì theo quy định của
pháp luật đây là những trường hợp cần phải được thực thi để bảo vệ các lợi ích chung của
toàn xã hội. Ví dụ như cấm nhập khẩu hàng chưa qua kiểm dịch để đảm bảo ngăn chặn
nguồn dịch bệnh lây lan hoặc yêu cầu tịch thu động vật bị cúm để tiêu huỷ.
Rủi ro gây ra tổn thất quá lớn về tài sản: ví dụ như chiến tranh, phóng xạ hạt nhân, núi

lửa gây thảm hoạ thường là trường hợp DNBH không bồi thường tổn thất. Bởi vì phạm vi
gây ra tổn thất trên diện rộng, mức độ thiệt hại do rủi ro mang lại trong trường hợp này là
quá lớn. Nếu đồng ý chi trả cho tổn thất này DNBH sẽ khơng có đủ năng lực tài chính.8

8

Xem Võ Đình Trí, “ Vì sao rủi ro cơ bản không được bảo hiểm?”, (Theo Risk Mannagement and insurance Harrington, Scott E, NXB Boston: IRWIN, 1999).

14


1.2.3.6 Thời hạn bảo hiểm.
Theo định nghĩa tại điều 149 BLDS Việt Nam 2005: “Thời hạn là một khoảng thời
gian được xác định từ thời điểm này tới thời điểm khác”. Theo đó ta có thể hiểu: Thời hạn
bảo hiểm là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác mà
trong khoảng thời gian đó DNBH nhận trách nhiệm bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm.
HĐBHTS phải ghi rõ thời hạn bảo hiểm để xác định chính xác nghĩa vụ của các bên
phát sinh từ thời điểm nào. Chỉ khi rủi ro bảo hiểm xảy ra trong thời gian quy định trong
hợp đồng thì DNBH mới có trách nhiệm bồi thường. Nếu rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm,
nhưng lại xảy ra trước khi HĐBH có hiệu lực hoặc sau khi đã chấm dứt hiệu lực của hợp
đồng thì khơng thể được bồi thường.
Có hai cách tính thời hạn bảo hiểm.
-Tính theo thời hạn mà các bên thoả thuận trong hợp đồng. Có thể là theo năm, tháng,
tuần
- Tính theo chuyến hay vụ việc. Trường hợp này thường được áp dụng đối với bảo
hiểm hàng hải, bảo hiểm tàu thuyền.
Trong thời hạn bảo hiểm, trách nhiệm bảo hiểm của DNBH cũng chỉ phát sinh khi hội
đủ các điều kiện: Hợp đồng đã phát sinh hiệu lực; Bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm,
có sự kiện bảo hiểm và có tổn thất trên thực tế, thuộc phạm vi được bảo hiểm.
1.2.3.7 Thời hạn, hình thức bồi thường

DNBH và bên mua bảo hiểm được quyền thoả thuận về thời hạn bồi thường. Nếu các
bên khơng thỏa thuận thì DNBH phải có nghĩa vụ “bồi thường trong thời hạn là 15 ngày, kể
từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường.”9 Đây
là khoảng thời gian ấn định để DNBH thực hiện nghĩa vụ, tránh tình trạng kéo dài hoặc cố ý
khơng đưa điều khoản thời hạn bồi thường vào trong hợp đồng, gây khó khăn cho bên mua
bảo hiểm. Thời gian ấn định này cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc bồi thường kịp thời để
khắc phục thiệt hại về tài chính cho bên mua bảo hiểm. Đồng thời, nếu DNBH bồi thường
đúng thời hạn thì nó cịn đảm bảo uy tín của DNBH trong việc thực hiện cam kết chi trả bảo
hiểm cho các tổn thất, rủi ro.
Hình thức bồi thường: Theo quy định tại điều 47 LKDBH thì DNBH có thể lựa chọn
các phương thức bồi thường như đã thoả thuận trước trong HĐBH. Các phương thức này có
thể là:

9

Điều 29 LKDBH năm 2000.

15


-Sửa chữa tài sản: Khi tài sản bị rủi ro dẫn đến thiệt hại, DNBH sẽ là bên đứng ra chịu
trách nhiệm thanh tốn các chi phí để sửa chữa, đưa tài sản đó quay trở lại trạng thái như
lúc chưa bị thiệt hại.
-Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng một tài sản khác: Hình thức bồi thường này được
hiểu là DNBH sẽ tìm một tài sản tương tự về tính năng và giá trị, cùng loại để bồi thường
cho bên mua bảo hiểm. Sau khi bồi thường bằng tài sản mới thì DNBH được quyền thu hồi
lại tài sản bị thiệt hại.
- Trả tiền bồi thường: Theo phương thức này DNBH sẽ tiến hành chi trả cho bên mua
bảo hiểm một số tiền bằng với giá trị tổn thất của tài sản được bảo hiểm.Theo khoản 2 điều
47 LKDBH, nếu các bên khơng thống nhất được hình thức bồi thường thì thì việc bồi

thường sẽ được thực hiện bằng tiền. Số tiền bồi thường sẽ căn cứ vào tổn thất thực tế của tài
sản, số tiền bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm và các chế độ đảm bảo bảo hiểm (miễn thường,
mức độ lỗi, nguyên tắc tỷ lệ,v.v...).

16


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CĂN CỨ BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN
2.1 Quy định của pháp luật về bồi thường trong bảo hiểm tài sản
2.1.1 Khái niệm bồi thường trong bảo hiểm tài sản
Bồi thường trong BHTS được hiểu là sự hoàn trả tương xứng.10 Theo cách hiểu này,
bên mua bảo hiểm bị tổn thất bao nhiêu thì DNBH sẽ chi trả đúng giá trị phần tài sản bị tổn
thất đó, khơng thể nhiều hơn hoặc ít hơn mức độ tổn thất để khắc phục lại tình trạng tài
chính ban đầu như trước lúc chưa có tổn thất.
Bồi thường trong BHTS cịn có nghĩa là bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm với số
tiền bảo hiểm bao nhiêu thì đó sẽ là giới hạn mức bồi thường cao nhất của DNBH. Nếu có
tổn thất tồn bộ, thì DNBH cũng chỉ bồi thường nhiều nhất bằng với số tiền bảo hiểm.
Như vậy, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH sẽ căn cứ vào thiệt hại thực tế của bên
mua bảo hiểm để xác định số tiền bồi thường. Việc bồi thường chỉ có mục đích đền bù thiệt
hại trong sự kiện bảo hiểm mà không tạo ra cơ hội để bên mua bảo hiểm có thể kiếm lời.
2.1.2 Chủ thể thực hiện nghĩa vụ bồi thường
Nghĩa vụ bồi thường là nghĩa vụ quan trọng và chủ yếu của DNBH. Vì tham gia vào
QHBH mục đích của bên mua bảo hiểm là sẽ được DNBH bồi thường tổn thất kinh tế khi
tài sản bị mất hoặc hư hỏng thơng qua việc nộp phí bảo hiểm. Thực hiện nghĩa vụ bồi
thường của DNBH là việc thực hiện lời hứa, sự cam kết tại thời điểm giao kết hợp đồng
Điều 17 khoản 2 điểm c LKDBH quy định “DNBH phải có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm
kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”. Bồi thường trong BHTS là nhằm khơi phục lại tình trạng tài chính ban đầu như
trước lúc chưa có thiệt hại cho bên mua bảo hiểm. Để có thể thực hiện việc chuyển giao rủi

ro thì nghĩa vụ đóng phí phải phát sinh trước. Trách nhiệm bồi thường chỉ đặt ra cho DNBH
khi có sự kiện bảo hiểm làm phát sinh tổn thất. Do đó, khi có sự kiện bảo hiểm mà DNBH
khơng thực hiện cam kết của mình tức là đã vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, không
đảm bảo nguyên tắc thiện chí, trung thực.
2.1.3 Nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm tài sản
2.1.3.1 Bồi thường tổn thất thực tế

10

Xem Nguyễn Thị Thủy (2006), “Các yếu tố chi phối quy định của pháp luật trong bảo hiểm tài sản”, Tạp
chí khoa học pháp lý, ( 04), Tr.9- 17.

17


Như đã phân tích, bản chất của bồi thường là sự hồn trả tương xứng, đền bù chính
xác về tài chính đủ để khơi phục lại sự mất mát, hư hại, đưa tài sản về tình trạng ban đầu
như trước khi xảy ra tổn thất.
Trách nhiệm bồi thường của DNBH sẽ phát sinh nếu tổn thất đó là tổn thất trong
phạm vi rủi ro được bảo hiểm. Thực tế tổn hại bao nhiêu thì sẽ được bồi thường bấy nhiêu.
Nếu có rủi ro nhưng rủi ro khơng gây ra tổn thất thì sẽ khơng được bồi thường. Trong
trường hợp phải thay mới bộ phận trong quá trình sửa chữa nếu HĐBH khơng có thoả thuận
khác thì DNBH sẽ được quyền khấu trừ phần giá trị khấu hao của bộ phận tài sản bị thay
thế. Cơ sở giải quyết bồi thường sẽ là giá bán trên thị trường hoặc chi phí sửa chữa, thay thế
hoặc phục hồi tài sản cùng loại. Các tổn thất do sửa chữa mở rộng, cải tiến, thay đổi trạng
thái ban đầu của tài sản, sửa chữa làm cho tài sản tốt hơn sẽ không được bảo hiểm bồi
thường.
2.1.3.2 Giới hạn mức bồi thường cao nhất
DNBH sẽ bồi thường tổn thất thực tế cho bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, mức bồi
thường này cũng có một giới hạn nhất định. Điều 46 LKDBH quy định: “Số tiền bồi thường

mà DNBH trả cho người được bảo hiểm không được vượt quá số tiền bảo hiểm”. Điều này
có nghĩa: Cơ sở để xác định mức bồi thường cao nhất của tài sản là dựa trên số tiền bảo
hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu. Nếu số tiền bảo hiểm thấp, mức phí bảo hiểm thấp thì
khi có thiệt hại lớn hơn số tiền bảo hiểm DNBH không thể bồi thường theo tổn thất thực tế
mà chỉ có thể giới hạn mức bồi thường cao nhất là số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, các khoản
tiền như các chi phí định giá thị trường và mức độ tổn thất, chi phí giám định DNBH sẽ
phải chịu cho bên mua bảo hiểm dù tổng số tiền phải trả có lớn hơn số tiền bảo hiểm.
2.1.3.3 Nguyên tắc chống trục lợi từ việc bồi thường.
Bồi thường trong bảo hiểm là đảm bảo việc chi trả đúng mức với tổn thất. Pháp luật
nghiêm cấm việc kiếm lời thông qua việc giao kết hợp đồng vượt quá giá trị thực tế của đối
tượng bảo hiểm. Đối với trường hợp giao kết HĐBHTS trùng khi sự kiện bảo hiểm xảy bên
mua bảo hiểm cũng chỉ nhận được số tiền bồi thường không vượt quá mức tổn thất thực tế,
hoặc trong trường hợp người thứ ba có lỗi và có trách nhiệm đối với thiệt hại của người
được bảo hiểm thì sau khi đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm, DNBH được
thay quyền của bên mua bảo hiểm đòi lại giá trị tương ứng với mức độ lỗi của bên thứ ba.
Bên mua bảo hiểm không được cùng một lúc yêu cầu cả người thứ ba và DNBH bồi
thường. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã nhận được số tiền bồi thường từ người thứ
ba trả, nhưng ít hơn số tiền mà DNBH phải trả thì DNBH sẽ chỉ trả phần chênh lệch giữa số
tiền bảo hiểm và số tiền mà bên thứ ba phải trả. Và ngược lại, nếu bên mua bảo hiểm nhận

18


được số tiền bồi thường từ DNBH ít so với thiệt hại do người thứ ba gây ra thì được đòi
người thứ ba bồi thường cho phần chênh lệch còn lại.
2.2 Căn cứ bồi thường
Khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất vì rủi ro được bảo hiểm, DNBH sẽ tiến hành bồi
thường theo phương thức mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các bên không
thỏa thuận, căn cứ tính tiền bồi thường sẽ dựa theo các quy định của pháp luật.
2.2.1 Bồi thường theo thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo

hiểm
2.2.1.1 Nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận.
Về bản chất quan hệ pháp luật BHTS là quan hệ phát sinh giữa DNBH và bên được
bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận về việc nộp phí bảo hiểm và thực hiện trách nhiệm bảo
hiểm. HĐBHTS là hợp đồng dân sự song vụ. Các bên trong hợp đồng có quyền bình đẳng
trong việc giao kết, thực hiện các điều khoản của hợp đồng dựa trên cơ sở hợp tác phát triển
và không được trái với các quy định của pháp luật.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm, HĐBH được DNBH soạn thảo, các điều khoản bảo hiểm là
điều khoản mẫu. Bên mua bảo hiểm có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận nội dung
của điều khoản đó theo ý chí bản thân họ. Nếu bên mua bảo hiểm chấp nhận thì coi như
chấp nhận tồn bộ các điều khoản.11 Trong HĐBH các điều khoản mẫu được chia thành hai
loại đó là điều khoản mẫu theo quy định của pháp luật hay còn gọi là các điều khoản chủ
yếu, cơ bản không thể thiếu trong hợp đồng và các điều khoản mẫu theo ý chí của DNBH
soạn thảo gọi là các điều khoản thông thường. Đối với những điều khoản này các bên có thể
thỏa thuận thêm hoặc bớt để đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của hai bên. Theo quy
định thì những điều khoản này không ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng nếu nó
khơng đi ngược lại với các quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Nội dung của các điều khoản trong hợp đồng là sự cụ thể hóa các quy định của pháp
luật và cũng là sự cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các bên. Tham gia vào QHBH mục
đích của bên mua bảo hiểm là được bồi thường khi có rủi ro dẫn đến tổn thất. Mục đích của
DNBH là kinh doanh sinh lợi vì vậy mà chỉ khi đáp ứng được nhu cầu, mục đích của nhau
thì mới có thể tồn tại một hợp đồng ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của cả hai bên và duy trì
được hợp đồng đó trên thực tế.

11

Theo Khoản 1 Điều 407 BLDS Việt Nam 2005 “ Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản
do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận
thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đưa ra.”


19


2.2.1.2 Căn cứ bồi thường theo thỏa thuận
a. Căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản
Theo tinh thần “được làm những gì mà pháp luật khơng cấm” thì các bên được quyền
thỏa thuận về số tiền bồi thường, phương thức tính tiền bồi thường, cách thức bồi thường
cho phù hợp với từng đối tượng được bảo hiểm.
Tại điều 46 LKDBH (điều khoản về căn cứ bồi thường) và điều 45 LKDBH (điều
khoản về loại trừ trách nhiệm của DNBH đối với tổn thất hao mịn tự nhiên hoặc bản chất
vốn có) đều có ghi nhận “trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Điều này được hiểu:
Nếu có tổn thất phát sinh từ rủi ro được bảo hiểm DNBH phải căn cứ vào các điều khoản
trong hợp đồng để xác định trách nhiệm của mình. Như vậy, khi tiến hành đàm phán giao
kết các bên phải thống nhất ý chí để xác định cụ thể, rõ ràng các vấn đề sau:
- Về phạm vi bảo hiểm: Giới hạn trách nhiệm gánh vác rủi ro của DNBH thay cho bên
mua bảo hiểm. Các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm phải có đủ điều kiện: Có khả năng xảy
ra; khơng xác định trước được thời điểm, mức độ tổn thất; rủi ro phải chưa xảy ra. DNBH
có thể đồng ý bồi thường cho cả những tổn thất do bản chất vốn có, hao mòn tự nhiên của
tài sản.
-Về trách nhiệm bồi thường: DNBH và bên mua bảo hiểm có thể thỏa thuận về:
+ Số tiền bảo hiểm và mức chấp nhận của doanh nghiệp bảo hiểm.
+Phương thức xác định giá trị của tài sản.
+Cách thức tính tốn số tiền bồi thường
+ Mức miễn thường.
+ Tỷ lệ khấu hao của tài sản
+ Phương thức bồi thường.
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của DNBH vẫn phải đảm bảo gồm có nội dung
như sau:
-Mức bồi thường cao nhất cũng chỉ được bằng số tiền bảo hiểm.
- Đảm bảo được nguyên tắc bồi thường: hoàn trả đầy đủ và tương xứng cho bên mua

bảo hiểm để khơi phục lại tình trạng tài chính như trước khi có tổn thất.
Ngồi ra, DNBH phải chi trả các khoản chi phí hợp lý để phịng ngừa, hạn chế tổn thất
và những chi phí phát sinh mà bên mua bảo hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của
DNBH.

20


×