Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Địa vị pháp lý của tòa án trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo luật phá sản năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.85 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN TRONG THỦ TỤC PHÁ
SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2004

SINH VIÊN THỰC HIỆN: Lữ Thị Hằng
Khoá: 2005- 2009. MSSV: 3040034
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phan Huy Hồng

TP HỒ CHÍ MINH- 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng mình. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu nào khác; các dữ liệu, luận điểm được trích dẫn đầy đủ nếu không là ý tưởng
hoặc là kết quả sự tổng hợp của riêng tôi.

Sinh viên thực hiện

Lữ Thị Hằng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN, HTX:
LPS:
NĐ 67/2006/NĐ-CP:



Doanh nghiệp, Hợp tác xã
Luật Phá sản
Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn áp dụng Luật Phá
sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của
Tổ quản lý, thanh lý tài sản.

NĐ 114/2008/NĐ-CP: Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 hướng dẫn
chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khốn và tài chính khác.
NĐ 10/2009/NĐ-CP: Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 về xử lý vi
phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Nghị quyết 03/2005/ Nghị quyết 03/2005/NQ – HĐTPTANDTC hướng dẫn thi
NQ-HĐTPTANDTC: hành một số quy định của Luật Phá sản.
TAND:
Tp. HCM:
VKS:

Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh
Viện kiểm sát


MỤC LỤC

Phần mở đầu: ............................................................................................................ 1
Chương 1. .................................................................................................................. 4.
1.1 Những vấn đề lý luận về pháp luật phá sản. ......................................................... 4.
1.1.1 Khái niệm phá sản ............................................................................................. 4.

1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật phá sản ở Việt Nam.............. 5.
1.1.2.1 Pháp luật phá sản của Việt Nam trước Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993.................................................................................................................... 5.
1.1.2.2 Pháp luật phá sản của Việt Nam dưới hiệu lực của Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993......................................................................................................... 6.
1.1.2.3 Pháp luật phá sản của Việt Nam dưới hiệu lực của Luật Phá sản 2004. ........ 7.
1.1.3 Vai trò của Luật Phá sản 2004. .......................................................................... 9.
1.1.3.1 Luật Phá sản góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ. .............. 9.
1.1.3.2 Luật Phá sản góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động. ................ 9.
1.1.3.3 Luật Phá sản góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của con nợ. ....................... 10.
1.1.3.4 Luật Phá sản góp phần làm lành mạnh nền kinh tế. ....................................... 11.
1.1.3.5 Luật Phá sản góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội .................................. 11.
1.2 Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản theo LPS 2004. .......... 12.
1.2.1 Khái niệm địa vị pháp lý và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
thủ tục phá sản. ........................................................................................................... 12.
1.2.2 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản. 13.
1.2.2.1 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ nợ. ..................................... 14.
1.2.2.2. Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với con nợ ............................................ 14.
1.2.2.3 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với Tổ quản lý, thanh lý tài sản ............ 14.
1.2.2.4 Vị trí của Tòa án trong mối quan hệ với VKS trong thủ tục phá sản ............. 15.
Chương II .................................................................................................................. 16.
2.1 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản .................................................. 16.
2.2 Địa vị pháp lý của Tòa án khi nhận, thụ lý đơn và ra quyết định mở hoặc
không mở thủ tục phá sản ........................................................................................... 17.
2.2.1 Nhiệm vụ của Tòa án khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ...................... 18.
2.2.2 Nhiệm vụ của Tòa án khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản..................... 20.
2.3 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản ........................................................................................................................ 26.



2.3.1 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phục hồi doanh nghiệp đặc biệt và
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính ....................................................... 26.
2.3.2 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản ........................................................................................................................ 27.
2.4 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục quản lý, thanh lý tài sản và tuyên bố
phá sản DN, HTX ....................................................................................................... 28.
2.4.1 Địa vị pháp lý của Tòa án trong việc quản lý tài sản của DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản ........................................................................................................ 29.
2.4.2 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục thanh lý tài sản của DN, HTX ........... 32.
2.4.3 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục tuyên bố phá sản DN, HTX ............... 35.
2.5 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo pháp luật một số nước ...... 36.
2.5.1 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo pháp luật Hoa Kỳ .......... 37.
2.5.2 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo pháp luật Pháp............... 39.
2.5.3 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo pháp luật Úc .................. 41.
Chương III ................................................................................................................. 45.
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản
.................................................................................................................................... 45.
3.2 Định hướng hồn thiện địa vị pháp lý của Tịa án trong thủ tục phá sản ............. 53.
3.2.1 Sự cần thiết phải hồn thiện địa vị pháp lý của Tịa án trong thủ tục phá sản .. 53.
3.2.2 Nguyên tắc hồn thiện địa vị pháp lý của Tịa án trong thủ tục phá sản ........... 53.
3.2.3 Nội dung hoàn thiện địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản .............. 54.
Phần kết luận............................................................................................................. 59.


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 49/2005 ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có việc tổ chức Tịa án nhân dân theo thẩm
quyền xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Theo đó, xu hướng tăng

cường thẩm quyền giải quyết cho Tòa án cấp sơ thẩm ( hiện nay là TAND cấp huyện) là
một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, TAND cấp huyện chưa đủ khả năng
để giải quyết nhiều vụ việc trong đó có việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN,
HTX. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là do đâu, để giải quyết tình trạng này cần có
những giải pháp pháp lý nào? TAND đã thể hiện vai trò của mình trong thủ tục phá sản
như thế nào để khắc phục những “ lỗ hổng” của pháp luật phá sản? Để hiểu một cách
thấu đáo các vấn đề trên cần phải có sự nghiên cứu kỹ về vai trị TAND mà cụ thể là
Tòa kinh tế trong việc giải quyết phá sản DN, HTX trên cơ sở đó xây dựng cho nó một
địa vị pháp lý đầy đủ và hợp lý hơn góp phần làm cho thủ tục giải quyết phá sản được
tiến hành một cách thuận lợi và hiệu quả hơn.
Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “ Địa vị pháp lý của Tòa án
trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo Luật Phá sản năm 2004” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn sẽ là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những người làm
cơng tác pháp luật, những người có nhu cầu quan tâm tìm hiểu, nhất là sinh viên luật.
Đặc biệt là đóng góp quan điểm trong việc xây dựng địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ
tục phá sản phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những quy định của Luật Phá sản năm 2004
về địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản trên cơ sở thực tế. Từ đó phát hiện
những vấn đề còn bất cập, hạn chế và đề xuất phương hướng hồn thiện địa vị pháp lý
của Tịa án trong thủ tục phá sản phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về địa vị pháp lý của
Tòa án ở một số tỉnh thành trong những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Những vấn đề lý luận chung về pháp luật phá sản và địa vị pháp lý của các chủ
thể tham gia thủ tục phá sản.
+ Phân tích và làm rõ vai trò của Tòa án trong thủ tục phá sản theo quy định của

Luật Phá sản năm 2004.
+ Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật phá sản ở Tòa án nhân dân những năm
gần đây trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài. Qua đó phân tích những hạn chế,
bất cập cịn tồn tại.


+ Đề xuất một số định hướng nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Tòa án trong
thủ tục phá sản giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng cụ thể là phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp và chứng minh để làm sáng tỏ nội dung đề tài.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Phá sản được kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 11 thơng qua ngày 15 tháng 6
năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2004. Thực tiễn thi hành
Luật Phá sản cịn nhiều vướng mắc, bất cập do đó có rất nhiều bài viết, cơng trình
nghiên cứu đóng góp và xây dựng cho việc hoàn thiện pháp luật phá sản. Điển hình như
các đề tài luận văn cao học của các tác giả: Nguyễn Trường Nhật Phượng ( 2004) với đề
tài Chế độ pháp lý về phá sản – thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện; Lê Thị Đào (
2006) với đề tài Luật Phá sản 2004 – cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
các chủ nợ; Đinh Ngọc Thu Hương ( 2006) với đề tài Địa vị pháp lý của Tòa án trong
thủ tục phá sản theo Luật Phá sản 2004; Lê Học Lâm ( 2007) với đề tài Những biện
pháp pháp lý đảm bảo thực hiện Luật Phá sản năm 2004 ở nước ta hiện nay; Đinh Thị
Thanh Nga ( 2007) với đề tài: Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản. Các đề tài luận văn cử nhân có các tác giả như: Hi Hồng Khánh Linh ( 2005)
với đề tài Thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã theo Luật Phá sản 2004; Trần
Nhật Tân ( 2005) với đề tài Luật Phá sản 2004 - bước phát triển mới của pháp luật phá
sản Việt Nam… Mỗi tác giả trên đều nghiên cứu và có các giải pháp ở mỗi khía cạnh
khác nhau, trong đó đề tài nghiên cứu của tác giả Đinh Ngọc Thu Hương có đề tài

nghiên cứu giống với đề tài của tác giả. Tuy nhiên cách tiếp cận của tác giả Đinh Ngọc
Thu Hương đứng từ góc độ của một luận văn thạc sỹ luật học và với góc nhìn của một
người làm cơng tác thực tiễn. Với góc độ tiếp cận của một luận văn cử nhân chưa có ai
thực hiện đề tài này. Trên cơ sở tham khảo đề tài của tác giả Đinh Ngọc Thu Hương
một cách có chọn lọc, tác giả đã thực hiện luận văn theo quan điểm của riêng mình phù
hợp với các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật. Ngồi ra, trong q
trình nghiên cứu tác giả đã cố gắng khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật và việc thực
hiện các quy định mới nhất của pháp luật phá sản khơng chỉ ở TAND Tp. HCM mà cịn
ở TAND các tỉnh phụ cận để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài.
6. Bố cục của Luận văn
Luận văn được chia làm ba phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung.
- Phần kết luận.
Phần nội dung được chia làm ba chương:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật phá sản và địa vị pháp lý của các
chủ thể tham gia thủ tục phá sản.


+ Chương 2: Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản Doanh nghiệp, Hợp
tác xã theo Luật Phá sản năm 2004.
+ Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ
tục phá sản và định hướng hoàn thiện.


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỦ TỤC PHÁ SẢN

1. 1 Những vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản
1.1.1 Khái niệm phá sản
Theo từ điển Luật học thì phá sản là tình trạng một chủ thể ( cá nhân, pháp nhân)
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn1.
Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng con nợ lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( thường
là Tịa án) tun bố phá sản và phân chia tài sản còn lại của con nợ cho các chủ nợ theo
thủ tục do pháp luật quy định.
Thuật ngữ “ phá sản” được hình thành từ thời La Mã cổ đại, bắt nguồn từ chữ “ Ruin”
trong tiếng Latinh có nghĩa là sự khánh tận – tức mất khả năng thanh toán.
Một thời gian sau, các nước phương Tây và Mỹ khi nói đến phá sản thường dùng
thuật ngữ “ Bankruptcy” bắt nguồn từ chữ “ Banca Rotta” của La Mã với nghĩa là “
chiếc ghế bị gãy”. Thuật ngữ này xuất phát từ việc thương nhân các nước phương tây
thường tập hợp thành hội nghị, nếu thương nhân nào lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn sẽ bị mất quyền tham gia hội nghị và chiếc ghế giành cho họ
cũng bị mang đi2.
Pháp luật phá sản của Việt Nam khơng có một định nghĩa chính thức về “ phá
sản” Luật Phá sản năm 2004 chỉ quy định về “ tình trạng phá sản” tại Điều 3. Theo đó,
Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi khơng có khả năng
thanh tốn các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
Theo tác giả, phá sản có thể được hiểu ở khái niệm: “ tình trạng doanh nghiệp
mất khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu và bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tuyên bố phá sản theo thủ tục do pháp luật quy định”.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nên pháp luật của các
nước trên thế giới xác định tình trạng mất khả năng thanh tốn là khác nhau. Một số
nước áp dụng tiêu chí định lượng, quy định rõ số nợ đến hạn chưa được thanh tốn để
xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Như Luật Phá sản của Singapore
năm 1999 con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi khơng trả được số nợ đến hạn ít nhất
1


Viện khoa học pháp lý ( 2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Tr. 597 – 599.

2

Phan Thị Thành Dương ( 1997), Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Tr. 7


là 5000 $ Singapore; theo Luật Phá sản của Liên bang Nga năm 2002 thì số tiền đó đối
với pháp nhân là không quá 100.000 rúp và đối với cá nhân là không dưới 10.000 rúp; ở
Mỹ số tiền này là không dưới 10.000 USD3; ở Úc số tiền này là không dưới 2000 $ Úc4.
Một số nước lại sử dụng phương án dựa trên cơ sở hành vi để xác định tình trạng
mất khả năng thanh tốn của con nợ. Phương án này không ấn định một giá trị cụ thể về
số nợ mà chỉ cần con nợ có dấu hiệu khơng thanh tốn được nợ đến hạn thì được coi là
lâm vào tình trạng phá sản. Theo Luật Phá sản Trung Quốc 1986, xí nghiệp bị thua lỗ
nghiêm trọng vì quản lý kinh doanh khơng giỏi, khơng thể thanh toán được các khoản
nợ đến hạn bị tuyên bố phá sản5. Ở CHLB Đức, theo Luật Vỡ nợ, tình trạng mất khả
năng thanh toán được xác định theo ba căn cứ: con nợ mất khả năng thanh toán ( điều
17), bị đe dọa mất khả năng thanh toán ( điều 18) hoặc nợ của con nợ lớn hơn tài sản
của nó ( điều 19)6.
Như vậy có thể thấy quan niệm về phá sản là khá thống nhất: đó là việc con nợ
khơng có khả năng thanh tốn nợ đến hạn của mình. Điều này góp phần cho việc hỏi
học kinh nghiệm xây dựng pháp luật phá sản ở các quốc gia phù hợp với sự phát triển
của pháp luật phá sản trên thế giới.
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam
1.1.2.1 Pháp luật phá sản của Việt Nam trước Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993
- Khái niệm “ phá sản” được sử dụng ở nước ta ( chủ yếu ở Nam Kỳ) thông qua việc
du nhập từ Pháp. Bộ luật thương mại Pháp năm 1807 có quy định về vấn đề này.
- Tuy nhiên, thuật ngữ “ phá sản” không được ứng dụng nhiều mà là thuật ngữ “
khánh tận” được sử dụng chủ yếu để chỉ tình trạng mất khả năng thanh toán của một

thương nhân. Thuật ngữ “ khánh tận” xuất hiện lần đầu tiên trong Bộ luật thương mại
Trung Kì 1942 ( Điều180) và được định nghĩa một cách chính thức tại Điều 864 Bộ luật
thương mại Sài Gịn năm 1972, đó là tình trạng “ thương gia ngưng trả nợ có thể, đương
nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Tòa án tuyên khánh tận”7.
- Đến năm 1990, khi phá sản được thừa nhận là hậu quả tất yếu của nền kinh tế thị
trường thì thuật ngữ “ phá sản” cũng được sử dụng và thừa nhận. Tại Điều 24 Luật
Công ty năm 1990 quy định: “ Cơng ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động
3

PGS. TS Dương Đăng Huệ ( 2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, NXB Tư pháp, Tr. 33.

4

Ths Hà Thị Thanh Bình ( 2003), “ Pháp luật về thanh tốn cơng ty vì lý do vỡ nợ ở Úc”, Tạp chí khoa học pháp
lý ( 2), Tr. 51 – 56.

5

Lê Thị Đào ( 2006), Luận văn Thạc sỹ luật học, Tr. 5.

6

TS Phan Huy Hồng ( 2004), “ Pháp luật vỡ nợ của CHLB Đức – một số nội dung cơ bản”, Tạp chí khoa học
pháp lý ( 6), Tr. 45 – 54.
7

PGS. TS Dương Đăng Huệ tlđd, Tr. 31.


kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản cịn lại của cơng ty

khơng đủ thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn, là cơng ty đang lâm vào tình trạng
phá sản”. Tại Điều 17 Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 cũng có quy định: “ Doanh
nghiệp tư nhân gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại
một thời điểm tổng số trị giá các tài sản cịn lại của doanh nghiệp khơng đủ thanh tốn
tổng số các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản”. Cũng
theo quy định tại các điều luật này, Trọng tài kinh tế cấp tỉnh có quyền tun bố cơng
ty, doanh nghiệp tư nhân phá sản theo đề nghị của chính cơng ty, doanh nghiệp tư nhân
đó hoặc các chủ nợ của họ; cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên trong thực tế khơng hề
có một công ty hay một doanh nghiệp tư nhân nào bị tuyên bố phá sản trong giai đoạn
này.
1.1.2.2 Pháp luật phá sản của Việt Nam dưới hiệu lực của Luật Phá sản doanh
nghiệp 1993
- Luật Phá sản doanh nghiệp được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày
30 tháng 12 năm 1993 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1994. Đã đưa ra khái niệm cụ
thể về “ tình trạng phá sản” tại Điều 28 và quy định một cách tương đối toàn diện về
nhiều vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể.
- Tiếp theo đó, ngày 23 tháng 12 năm 1994 Chính phủ ban hành nghị định số 189/
NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Trong đó quy định rõ
phạm vi áp dụng của Luật Phá sản doanh nghiệp9, căn cứ để xem xét doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản10, sự tham gia của các chủ thể trong việc giải quyết phá sản
doanh nghiệp, về tổ chức và hoạt động của tổ quản lý và tổ thanh toán tài sản...
- Nghị định 92/CP ngày 19 tháng 12 năm 1995 về giải quyết quyền lợi của người lao
động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Theo đó, nghị định này quy định về các
khoản mà doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản còn nợ và các quyền lợi khác của người lao
động trong các trường hợp đặc biệt khác như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bị tạm
giữ, tạm giam, thi hành nghĩa vụ quân sự...
- Quyết định số 528/QĐ/BT ngày 13 tháng 6 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
ban hành Quy chế làm việc của Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản. Trong đó quy
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế làm việc của hai tổ này trong việc giải quyết phá
sản doanh nghiệp.

- Quyết định số 426-QĐ ngày 01 tháng 7 năm 1994 của Tòa án nhân dân tối cao về
quy chế làm việc của tập thể Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp. Theo đó, việc giải quyết phá sản do tổ Thẩm phán thực hiện phải
được ghi rõ trong quyết định mở thủ tục phá sản và việc phân công nhiệm vụ cụ thể cho

8

Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30 tháng 12 năm 1993.

9

Điều 1 Nghị định 189-CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh
nghiệp.
10

Điều 3 NĐ 189-CP.


từng Thẩm phán cũng như việc ra quyết định của tổ Thẩm phán và việc thay đổi Thẩm
phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp...
- Cơng văn số 457/KHXX ngày 21 tháng 7 năm 1994 của Tòa án nhân dân tối cao về
việc áp dụng một số quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp về đối tượng áp dụng của
Luật Phá sản doanh nghiệp; những người có quyền nộp đơn yêu cầu giải quyết việc phá
sản; vấn đề thụ lý và giải quyết đơn yêu cầu; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị...
Trong hệ thống các văn bản pháp luật về phá sản thì Luật Phá sản doanh nghiệp
giữ vai trò trung tâm, chi phối nội dung của các văn bản khác.
1.1.2.3 Pháp luật phá sản của Việt Nam dưới hiệu lực của Luật Phá sản 2004
Thực hiện nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội về
chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh nhiệm kỳ XI, Tòa án nhân dân tối cao đã phối

hợp với các cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp
1993 và xây dựng Luật Phá sản ( sửa đổi). Ngày 15 tháng 6 năm 2004 Luật Phá sản năm
2004 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004. Luật Phá
sản 2004 đã quy định tương đối đầy đủ trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản DN, HTX; thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố DN, HTX và các quy định khác
có liên quan…
Các văn bản hướng dẫn Luật Phá sản năm 2004 bao gồm:
- Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn áp dụng Luật Phá sản với
doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong đó
quy định rõ trình tự, thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt; nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tình trạng mất khả năng
thanh tốn của doanh nghiệp đặc biệt… Quy định rõ việc thành lập, hoạt động, giải thể
Tổ quản lý, thanh lý tài sản; nguyên tắc, chế độ làm việc và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/NQHĐTP ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản. Nghị
quyết hướng dẫn thi hành các quy định của LPS ở phần chung; việc nộp đơn và thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; nghĩa vụ tài sản của DN, HTX; các biện pháp bảo toàn
tài sản; một số quy định khác của LPS và ban hành kèm theo đó các mẫu văn bản mà
TAND phải ra trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX.
- Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày
27/4/2005 về quy chế làm việc của tổ Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản.
Quyết định này quy định nguyên tắc và chế độ làm việc của tổ Thẩm phán phụ trách
tiến hành thủ tục phá sản nhưng không bao gồm tổ Thẩm phán được Chánh án chỉ định
để xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị của TAND cấp dưới trực tiếp tiến hành thủ
tục phá sản.
- Nghị định số 94/2005/ NĐ-CP ngày 15/7/2005 về giải quyết quyền lợi của người
lao động ở doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Nghị định quy định về việc giải quyết
quyền lợi về tài sản của người lao động trong DN, HTX bị tuyên bố phá sản; việc giải
quyết quyền lợi của người lao động trong các trường hợp đặc biệt như tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, người lao động bị tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm của cơ quan bảo



hiểm xã hội; trách nhiệm của Sở Lao động thương binh xã hội trong việc giám sát việc
giải quyết quyền lợi của người lao động…
- Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP ban hành ngày 19/02/2008 của Bộ Tài
chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết tốn kinh phí bảo
đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Thơng tư quy định việc lập, quản lý, sử
dụng và quyết tốn kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ
quản lý, thanh lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
- Nghị định 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo
hiểm, chứng khốn và tài chính khác. Nghị định quy định về danh mục doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác; hướng dẫn một số
quy định của LPS đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khốn và tài chính khác và các quy định có liên quan.
- Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 về xử lý vi phạm hành chính trong
q trình tiến hành thủ tục phá sản. Nghị định này quy định hành vi vi phạm hành
chính, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành
thủ tục phá sản trên lãnh thổ Việt Nam.
Có thể nói, pháp luật phá sản của Việt Nam phát triển còn chậm so với xu hướng
phát triển chung của pháp luật phá sản trên thế giới và chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
thực thi pháp luật phá sản ở nước ta trong những năm qua chưa hiệu quả trong thực tế
đời sống kinh tế xã hội. Nội dung này sẽ được trình bày rõ hơn tại chương 3.
1.1.3 Vai trò của Luật Phá sản năm 2004
1.1.3.1 Luật Phá sản góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các chủ thể kinh doanh không thể tránh

khỏi việc nợ nần lẫn nhau, vì vậy cũng tất yếu dẫn đến việc các chủ nợ có nhiều cách
khác nhau để địi lại món nợ của mình. Nhưng đơi khi, việc kiện địi ra Tịa án khơng
phải lúc nào cũng giải quyết được một cách thỏa đáng quyền và lợi ích của chủ nợ. Nhất
là thực trạng tồn đọng án chưa được thi hành những năm gần đây còn khá nhiều. Bên
cạnh thủ tục Tố tụng dân sự để địi nợ thơng thường thì thủ tục phá sản được coi là thủ
tục địi nợ đặc biệt. Việc địi nợ thơng qua thủ tục phá sản được đảm bảo bằng việc Tòa
án tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ qua đó bán tồn bộ tài sản của nó để trả cho
chủ nợ. Thủ tục phá sản cho phép chủ nợ có biện pháp kiểm sốt được tình hình tài
chính của doanh nghiệp nợ, hạn chế những rủi ro, thiệt hại xảy ra và bảo đảm việc thu
hồi nợ một cách công bằng. Đồng thời, pháp luật phá sản cũng thể hiện rất rõ sự quan
tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ thơng qua một loạt các
quy định về quyền của chủ nợ như: Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; quyền


khiếu nại về danh sách chủ nợ; quyền cử đại diện tham gia vào Tổ quản lý, thanh lý tài
sản; quyền tham gia Hội nghị chủ nợ; quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá
sản… Trong đó, nội dung đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ theo Luật Phá sản
năm 2004 được quy định rõ ràng, đơn giản và dễ thực hiện hơn với người làm đơn ( quy
định tại khoản 2 điều 13 Luật Phá sản 2004) trong khi Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 yêu cầu chủ nợ phải cung cấp cho tòa án giấy tờ, tài liệu chứng minh con nợ đã
mất khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn. Đó là quy định “ làm khó” chủ nợ vì họ
khó có thể chứng minh được điều này. Luật Phá sản năm 2004 đã bỏ quy định đó, nhằm
mục đích bảo vệ tốt hơn quyền lợi của chủ nợ.
1.1.3.2 Luật Phá sản góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, đối tượng bị ảnh hưởng trước hết
là người lao động trong doanh nghiệp. Họ sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp,
khó khăn về tài chính, dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do vậy, để bảo
vệ người lao động phải có biện pháp “ giúp đỡ” doanh nghiệp không bị phá sản. Thủ tục
phục hồi doanh nghiệp được đặt ra trước hết nhằm mục đích này. Mặt khác, khi doanh
nghiệp không thể phục hồi, khoản nợ lương của người lao động chưa được giải quyết thì

pháp luật cũng có quy định cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản; quyền được tham gia vào quá trình giải quyết phá sản; quyền được ưu
tiên thanh toán trước các khoản nợ thông thường khác… So với Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Phá sản 2004 có một số sửa
đổi quan trọng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động đó là các quy định bãi
bỏ thời hạn nợ lương của DN, HTX như một điều kiện để mở thủ tục phá sản. Bởi vì
người lao động khơng có một khoản thu nhập nào khác ngoài tiền lương, trong khi đó
tiền lương của họ tháng nào chỉ đủ chi dùng trong tháng đó nếu quy định thời hạn nợ
lương là ba tháng liên tiếp sẽ gây khó khăn rất lớn cho người lao động. Hơn nữa thời
hạn ba tháng là quá dài nên dễ bị lợi dụng việc nợ lương đối với người lao động từ một
đến hai tháng, sau đó trả để làm hạn chế khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích của người
lao động trong trường hợp DN, HTX rõ ràng đã có dấu hiệu lậm vào tình trạng phá sản.
Ngồi ra, so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 đã bổ
sung thêm quy định về cử đại diện người lao động ở những doanh nghiệp khơng có
cơng đồn để thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( điều 14 Luật Phá
sản năm 2004). Điều này cũng đã khẳng định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản là quyền của tập thể người lao động chứ không phải quyền của một cá nhân riêng lẻ
nào. Quy định này nhằm hạn chế việc bất kỳ người lao động nào cũng được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, gây bất lợi cho DN, HTX của họ11.
1.1.3.3 Luật Phá sản góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của con nợ
Xu hướng chung của pháp luật phá sản trên thế giới hiện nay bên cạnh việc quan
tâm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ còn chú ý tới việc phục hồi hoạt động sản xuất kinh
doanh của con nợ. Luật Phá sản không đồng nghĩa với việc giải thể doanh nghiệp và
thanh lý tài sản của nó mà cịn trở thành cơng cụ tái tổ chức hoạt động kinh doanh. Xu
11

Ths Vũ Hồng Vân (2005), “ Quy định của Luật Phá sản năm 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”, Tạp
chí tịa án nhân dân, (21) Tr 8 – 17.



hướng này xuất phát từ quan niệm coi phá sản là hiện tượng khách quan của nền kinh tế
thị trường. Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam cũng được xây dựng theo hướng này.
Bằng các quy định của mình, Luật Phá sản góp phần tái cấu trúc con nợ thông
qua thủ tục phục hồi tạo điều kiện để con nợ trở lại hoạt động bình thường. Đây được
coi là giải pháp giúp giải thốt con nợ khỏi tình trạng khó khăn. Đây cịn là cơ hội tốt
nhất để buộc doanh nghiệp đang thua lỗ phải tiến hành ngay việc tái cấu trúc doanh
nghiệp một cách triệt để: loại bỏ ngun nhân gây tổn hại đến tình trạng tài chính doanh
nghiệp, phát huy các mặt tích cực để cải thiện kết quả kinh doanh. Nhưng khi khơng thể
phục hồi thì Luật Phá sản cũng là giải pháp giúp con nợ rút lui khỏi thương trường theo
một trật tự nhất định, tránh tình trạng địi nợ bất hợp pháp theo kiểu “ luật rừng” hoặc
xiết nợ, đồng thời giải phóng con nợ khỏi các khoản nợ ( trừ doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh). Khi tiến hành thủ tục phá sản, Luật Phá sản cũng có những quy định
các cơ chế bảo tồn tài sản của con nợ, khơng làm xấu hơn tình trạng tài chính của con
nợ khi lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời luật cũng quy định về việc thay đổi người
quản lý doanh nghiệp trong trường hợp xét thấy người quản lý DN, HTX không có khả
năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ khơng có lợi cho
viêc bảo toàn tài sản của DN, HTX. Luật cũng quy định chế tài đối với người nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh tiếng của
DN, HTX. Quy định này nhằm tránh việc người có quyền nộp đơn có hành vi lạm
quyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN, HTX.
1.1.3.4 Luật Phá sản góp phần làm lành mạnh nền kinh tế
Pháp luật phá sản có tác dụng sàng lọc các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kinh
doanh kém hiệu quả bằng những nhà quản lý chuyên nghiệp hơn. Luật Phá sản góp
phần làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, lành mạnh cũng như việc tái cơ cấu nền
kinh tế, điều tiết cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Đồng thời cũng là biện pháp
để cảnh báo cho doanh nghiệp về tính chất khốc liệt của thương trường, Luật Phá sản đã
quy định rõ nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc về chủ doanh nghiệp
hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong trường hợp nhận thấy
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhưng các đối tượng này không
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời gian nhất định sẽ bị xử lý theo quy định

của pháp luật. Luật Phá sản cũng quy định về việc cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý
doanh nghiệp, cấm thành lập doanh nghiệp trong thời hạn nhất định sau khi doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Đây là quy định nhằm hạn chế quyền của các cá
nhân khi điều hành, quản lý doanh nghiệp nhằm tránh những tiêu cực trong q trình
giải quyết phá sản. Có thể nói, lợi nhuận đối với doanh nghiệp giống như “củ cà rốt” thì
phá sản lại là “cây gậy” nhằm răn đe các doanh nhân, cảnh báo về tính chất khắc nghiệt
của thương trường12.
1.1.3.5 Luật Phá sản góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội
Bản chất của phá sản là sự xung đột lợi ích giữa tình trạng mất khả năng thanh
tốn của con nợ với việc địi nợ của chủ nợ. Bất cứ sự xung đột nào dù vì nguyên nhân
12

Ths Phạm Bình An ( 2002) “ Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực của pháp lý về phá sản DN trên địa bàn
TP.HCM”, />

nào cũng đều có thể ảnh hưởng đến trật tự bình thường của xã hội, nhất là sự xung đột
lợi ích sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước can
thiệp một cách có ý thức vào sự xung đột này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu
cực và khai thác những mặt tích cực của nó13. Pháp luật phá sản là cơng cụ hữu hiệu để
giải quyết tình trạng cưỡng bức, đe dọa con nợ, giúp con nợ tránh khỏi việc đòi nợ bất
hợp pháp. Đồng thời, cũng là công cụ để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và người lao động
một cách thích đáng. Thơng qua thủ tục phá sản, chủ nợ có thể thu hồi được phần nào
khoản nợ của mình, nhất là các chủ nợ khơng có bảo đảm. Tình trạng thất nghiệp do
doanh nghiệp phá sản có thể đẩy người lao động vào tình trạng nghèo đói, từ đó dẫn đến
các hiện tượng tiêu cực như trộm cắp, cờ bạc, làm ăn phi pháp… Quy định về thủ tục
phục hồi của Luật Phá sản cũng nhằm mục đích hạn chế những hiện tượng tiêu cực này.
Như vậy, phá sản và pháp luật phá sản có vai trị quan trọng trong nền kinh tế thị
trường. Vai trị đó được thể hiện thông qua những cơ chế bảo đảm của pháp luật phá sản
đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết phá sản. Tuy rằng cơ chế bảo đảm ấy
giành cho mỗi chủ thể là khác nhau, nhưng xét cho cùng, những bảo đảm ấy đã thể hiện

sự bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật phá sản.
1.2
Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản theo Luật Phá sản
2004
1.2.1 Khái niệm địa vị pháp lý và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục
phá sản:
Theo từ điển Luật học thì “ Địa vị pháp lý” là vị trí của chủ thể trong mối quan
hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật14.
Địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật được thể hiện thành tổng
thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả
năng của chủ thể trong hoạt động của mình. Thơng qua địa vị pháp lý có thể phân biệt
chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và
tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.
Như vậy, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản là vị trí của các
chủ thể trong mối quan hệ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết phá sản theo
quy định của Luật Phá sản, là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của chủ thể khi tham gia
thủ tục phá sản.
Trong thủ tục phá sản thường có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong
đó có bốn chủ thể quan trọng là Tịa án, chủ nợ, con nợ, người quản lý tài sản. Ngồi ra
trong một số giai đoạn cịn có thêm sự xuất hiện của VKS với chức năng kiểm soát việc
tuân theo pháp luật phá sản của các chủ thể. Bằng pháp luật, Nhà nước quy định cho các
13

TS Nguyễn Thái Phúc ( 2005) “ Luật Phá sản năm 2004 – những tiến bộ và hạn chế”, Tạp chí khoa học pháp lý,
( 6), Tr. 37 – 46.
14

Viện khoa học pháp lý ( 2006), tlđd, Tr 244.



chủ thể có các quyền và nghĩa vụ khác nhau để có thể giải quyết mối quan hệ của họ
một cách tốt nhất khi tham gia thủ tục phá sản nhằm hạn chế đến mức thấp nhất khả
năng xảy ra mâu thuẫn giữa họ.
Tùy thuộc vào mục đích tham gia thủ tục phá sản, các chủ thể có địa vị pháp lý
khác nhau khi tham gia thủ tục phá sản. Vì vậy, trong một số trường hợp, quyền của chủ
thể này khi tham gia thủ tục phá sản lại là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Pháp
luật của các nước cũng có các quy định khơng hồn toàn giống nhau khi quy định về
vấn đề này. Việc quy định địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản phụ
thuộc vào mục đích ưu tiên chủ nợ hay ưu tiên con nợ của pháp luật phá sản của các
nước. Đối với các quốc gia theo định hướng ưu tiên con nợ thì các quy định về địa vị
pháp lý của con nợ và các chủ thể khác có phần “ nhân đạo” hơn nhằm tạo điều kiện tối
đa cho con nợ có cơ hội phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Cịn đối với
các quốc gia có định hướng bảo vệ chủ nợ thì các quy định về địa vị pháp lý của con nợ
có phần hạn chế quyền và tăng nghĩa vụ của nó nhằm mục đích bảo vệ tối đa các quyền
và lợi ích của chủ nợ.
Ngồi ra, việc quy định địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản
còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước. Đối với các quốc gia có nền
kinh tế phát triển, phá sản được coi là hiện tượng bình thường của quy luật cạnh tranh,
sinh – tử thì việc tiến hành phá sản phải do một Tòa chuyên trách tiến hành để giải
quyết hết số lượng các vụ phá sản hàng năm. Vì vậy, các quy định về địa vị pháp lý của
các chủ thể tham gia thủ tục phá sản cũng thể hiện quan điểm này nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của tất cả các bên.
Việc quy định địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản cũng phụ
thuộc vào khả năng tự giải quyết các công việc phát sinh từ vụ việc phá sản của các bên.
Theo đó, việc giải quyết các cơng việc phát sinh từ vụ việc phá sản có thể được thực
hiện theo sự thỏa thuận của chủ nợ và con nợ mà khơng cần phải có sự xuất hiện của cơ
quan tư pháp. Hoặc có thể, việc xuất hiện của cơ quan tư pháp trong trường hợp này chỉ
nhằm mục đích cơng nhận sự hịa giải của các bên mà thơi.
Theo quy định của LPS năm 2004 thì địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ
tục phá sản là khác nhau. Trong các giai đoạn của thủ tục phá sản thì Tịa án thể hiện vai

trị trung tâm của mình. Cịn các chủ thể khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình thơng
qua các quy định của LPS trên cơ sở sự cơng nhận của Tịa án. Điều đó được thể hiện ở
vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản.
1.2.2 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ thể khác tham gia thủ tục
phá sản:
Trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản, Tịa án có vai trị
chủ đạo – đó chính là nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật trao cho Tòa án trong quá trình
giải quyết u cầu phá sản thơng qua việc giám sát và tiến hành thủ tục phá sản ( khoản
3 điều 8 LPS). Vai trò chủ đạo của Tòa án thể hiện ở quyền hạn và trách nhiệm của Tòa
án đối với việc xác lập và công nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia thủ
tục phá sản. Vai trị đó được thể hiện trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia thủ tục
phá sản như sau:


1.2.2.1 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ nợ
Tòa án – cụ thể là Thẩm phán hoặc tổ Thẩm phán là người chịu trách nhiệm về
việc lập danh sách chủ nợ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản và có trách nhiệm giải quyết
khiếu nại về danh sách chủ nợ do Tổ quản lý, thanh lý tài sản lập. Thẩm phán cũng là
người có trách nhiệm triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ; kiểm tra sự có mặt của các
chủ nợ và xem xét tính hợp lệ của Hội nghị chủ nợ.
Thẩm phán phụ trách tiến hành phá sản là người ra quyết định công nhận nghị
quyết của hội nghị chủ nợ, xem xét và trình hội nghị chủ nợ phương án phục hồi do DN,
HTX xây dựng để hội nghị chủ nợ thảo luận và ra nghị quyết; Tịa án có trách nhiệm
xem xét báo cáo về tình hình thực hiện việc phục hồi hoạt động kinh doanh của DN,
HTX. Trong quá trình tiến hành phá sản, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thực hiện
hợp đồng đang có hiệu lực theo yêu cầu của chủ nợ để bảo toàn tài sản của con nợ, đảm
bảo khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ. Thẩm phán ra quyết định thanh lý tài sản và
giao tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản của DN, HTX để trả cho
chủ nợ theo thứ tự ưu tiên…
Như vậy, trong mối quan hệ với các chủ nợ, Tòa án đã thể hiện vai trị trung tâm

của mình. Các quyết định của Tịa án có giá trị bắt buộc đối với tất cả các bên có liên
quan trong đó có các chủ nợ.
1.2.2.2 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với con nợ:
Tòa án nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ và xem xét căn cứ
để ra quyết định thụ lý hay không thụ lý yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Sau
khi thụ lý và ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tịa án có trách nhiệm giám sát hoạt
động của con nợ để ra các quyết định cần thiết đồng thời là cách để giúp con nợ thốt
khỏi tình trạng địi nợ bất hợp pháp từ các chủ nợ. Thẩm phán cũng có trách nhiệm chỉ
định đại diện của con nợ tham gia hội nghị chủ nợ khi khơng có đại diện hợp pháp của
con nợ tham gia. Tịa án có trách nhiệm xem xét phương án phục hồi của con nợ để
trình hội nghị chủ nợ. Khi ra quyết định thanh lý tài sản, Tòa án cho phép con nợ thực
hiện một số hoạt động nhằm làm gia tăng tài sản của con nợ. Tịa án cịn có trách nhiệm
giải quyết các khiếu nại của con nợ đối với các quyết định của Tòa án, quyết định của
Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong q trình tiến hành phá sản.
1.2.2.3 Vị trí của Tòa án trong mối quan hệ với Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Đồng thời với quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án ra quyết định thành lập Tổ
quản lý, thanh lý tài sản để thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của con nợ và
thi hành các quyết định của Tòa án trong quá trình tố tụng phá sản. Trong quá trình hoạt
động, Tổ quản lý thanh lý tài sản còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Tòa án trong
việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tổ quản lý, thanh lý tài sản được
quyền đề nghị Thẩm phán ra các quyết định cần thiết trong quá trình quản lý, thanh lý
tài sản nhằm mục đích bảo tồn tài sản của con nợ và bảo vệ quyền, lợi ích của các bên.
1.2.2.4 Vị trí của Tịa án trong mối quan hệ với VKS trong thủ tục phá sản
Cũng như trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, trong thủ tục phá sản VKS cũng
có trách nhiệm giám sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia thủ tục phá


sản. Để thực hiện nhiệm vụ này, khi tiến hành thủ tục phá sản, Tịa án có trách nhiệm
cung cấp thông tin cho VKS nhân dân cùng cấp để VKS xem xét và ra quyết định trong
trường hợp cần thiết. Các quyết định của Tịa án trong q trình giải quyết phá sản có

thể bị kháng nghị bởi VKS nhân dân cùng cấp ( quyết định thanh lý tài sản, quyết định
tuyên bố phá sản). Thẩm phán được phân công giải quyết phá sản cịn có trách nhiệm
cung cấp tài liệu cho VKS xem xét việc khởi tố hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm trong q trình tiến hành thủ tục phá sản.
Như vậy, trong mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thủ tục phá sản,Tịa án ở
vị trí trung tâm điều khiển mọi hoạt động của các chủ thể và xem xét tính hợp lệ của các
hoạt động ấy. Quy định này của LPS giúp cho quá trình tố tụng phá sản được thực hiện
một cách thống nhất và hiệu quả theo sự điều khiển của Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ phá sản.
Tóm lại, tại chương một, tác giả đã lần lượt trình bày một cách khái quát nhất về
pháp luật phá sản và quy định của pháp luật phá sản về địa vị pháp lý của các chủ thể
tham gia thủ tục phá sản. Cụ thể đó là các vấn đề như khái niệm về phá sản, quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật phá sản tại Việt Nam, vai trò của luật phá sản
trong nền kinh tế thị trường, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản, vị
trí của Tịa án trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản. Trong khi
trình bày, tác giả có đưa ra các khái niệm, quan điểm của các tác giả khác về các vấn đề
này. Từ việc nhận thức một cách cơ bản nhất về phá sản và pháp luật phá sản, tác giả sẽ
làm rõ về địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo quy định của LPS năm
2004 trong các giai đoạn của tố tụng phá sản tại chương 2.


CHƯƠNG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP,
HỢP TÁC XÃ THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004
2.1 Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản
Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản được hiểu là vị trí của Tịa án
trong mối quan hệ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã, là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Tịa án trong q
trình giải quyết việc phá sản.
Phần lớn pháp luật các nước đều quy định Tịa án có vai trị trung tâm trong quá

trình giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, do mơ hình tổ
chức Tịa án ở mỗi nước khác nhau nên vị trí, vai trị của Tịa án trong thủ tục phá sản
cũng khơng hồn tồn giống nhau. Nhưng một điểm chung nhất có thể nhận thấy trong
quá trình giải quyết việc phá sản từ đầu đến cuối đều có sự xuất hiện của Tòa án với tư
cách là chế định trung tâm cho mọi hoạt động của quá trình giải quyết phá sản. Tịa án
thực hiện nhiệm vụ của mình thơng qua một vị Thẩm phán hoặc tổ Thẩm phán phụ
trách việc tiến hành phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Tòa án thành lập.
Theo pháp luật Việt Nam, tại Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
quy định: “ Tòa án là cơ quan xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật”. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, TAND tối cao là cơ quan có thẩm quyền giải quyết phá sản. Theo quy định
tại điều 7 Luật Phá sản năm 2004 thì thẩm quyền giải quyết phá sản thuộc về TAND
cấp huyện và TAND cấp tỉnh. Như vậy, thẩm quyền giải quyết phá sản ở nước ta thuộc
về hệ thống cơ quan tư pháp mà cụ thể là hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp hành
chính lãnh thổ ở địa phương. Sự phân chia thẩm quyền giữa các Tòa án này trong việc
giải quyết phá sản phụ thuộc vào việc đăng ký kinh doanh của DN, HTX tại cơ quan
đăng ký kinh doanh các cấp. Theo đó, TAND cấp huyện sẽ có thẩm quyền tiến hành thủ
tục phá sản đối với HTX đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp
huyện đó ( khoản 1 – điều 7 LPS 2004). TAND cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền tiến hành thủ
tục phá sản với DN, HTX đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh
đó. Trong trường hợp cần thiết, TAND cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối
với HTX thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện ( khoản 2 – điều 7 LPS 2004). Tại
mục I.3.2 Nghị quyết 03/ 2005/ NQ-HĐTPTANDTC những trường hợp cần thiết đó là:
a. Hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có chi nhánh, văn phịng đại diện, có bất
động sản, có nhiều chủ nợ tại nhiều huyện khác nhau.
b. Hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có chi nhánh, văn phịng đại diện, có bất
động sản, có chủ nợ hoặc người mắc nợ ở nước ngồi.
c. Hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có khoản nợ cịn có tranh chấp phải giải
quyết.

d. Hợp tác xã là đương sự trong vụ án bị đình chỉ do Tịa án ra quyết định mở thủ tục
phá sản với hợp tác xã đó hoặc trong trường hợp phức tạp khác ( cần phải tuyên bố
giao dịch của HTX quy định tại khoản 1 điều 43 Luật phá sản là vô hiệu…)


Ngồi ra, TAND cấp tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có trụ sở chính trên địa bàn tỉnh mình ( khoản 3 – điều
7 LPS 2004).
Việc xác định thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án là vấn đề quan trọng, nó
khơng chỉ ảnh hưởng tới tính chất của thủ tục phá sản mà nó cịn ảnh hưởng tới việc xác
định khả năng đảm đương nhiệm vụ giải quyết phá sản của TAND các cấp. Vì vậy, khi
nhận và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cơng việc đầu tiên mà Tịa án phải là đó
là xem xét xem vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay khơng. Từ đó mới
tiến hành các cơng việc tiếp theo của mình.
2.2 Địa vị pháp lý của Tòa án khi nhận, thụ lý đơn và ra quyết định mở hoặc
không mở thủ tục phá sản DN, HTX
Theo quy định của LPS năm 2004, giai đoạn này bắt đầu từ khi TAND cấp có
thẩm quyền nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và kết thúc khi giải quyết xong
khiếu nại về việc không mở thủ tục phá sản. Cũng như các giai đoạn khác của thủ tục
phá sản, ở giai đoạn này TAND có vị trí trung tâm trong mối quan hệ với các chủ thể
khác tham gia tố tụng phá sản. Vì vậy, nhiệm vụ của Tịa án trong giai đoạn này sẽ bao
gồm:
Nhận và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
-

Yêu cầu sửa đổi đơn, tài liệu.

-

Thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.


-

Trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

-

Giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

-

Chuyển việc giải quyết phá sản cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền.

-

Tạm đình chỉ việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản.

-

Ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.

-

Giải quyết khiếu nại quyết định không mở thủ tục phá sản.

-

Xử phạt hành chính đối với các hành vi cản trở, gây khó khăn trong việc thực

hiện quyền nộp đơn; vi phạm quy định về nghĩa vụ nộp đơn; vi phạm quy định
về nghĩa vụ cung cấp tài liệu, xuất trình giấy tờ; vi phạm trách nhiệm của người
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.


2.2.1 Nhiệm vụ của Tòa án khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Khi nhận đơn, Tòa án sẽ tiến hành xem xét hồ sơ yêu cầu; xem xét về thẩm
quyền của người nộp đơn. Nếu người nộp đơn khơng có quyền nộp đơn – tức là khơng
thuộc một trong các trường hợp:
Chủ nợ: bao gồm các chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một
phần có quyền nộp đơn.
-

Người lao động: cơng đồn hoặc đại diện của người lao động được cử hợp pháp
được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

-

Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp đó.

-

Cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng cơng ty cổ phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty, nếu điều lệ cơng ty khơng quy
định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội đồng cổ đơng;
nếu khơng có cả 2 trường hợp trên thì cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu trên
20% số cổ phần phổ thơng trong thời gian ít nhất là 6 tháng liên tục có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với công ty cổ phần.


-

Thành viên hợp danh của công ty hợp danh được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với công ty đó.

-

Chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

thì Tịa án sẽ ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( khoản 2 điều 24
LPS). Ngược lại, Tòa án sẽ yêu cầu người nộp đơn nộp tạm ứng phí phá sản theo quy
định tại điều 41 NĐ 189/1994/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp
1993, điều 34 NĐ 70/1997/NĐ-CP về án phí, lệ phí Tịa án. Nếu người nộp đơn khơng
nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Tịa án ấn định thì đó sẽ là căn cứ để
Tòa án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( khoản 1 điều 24 LPS).
Đồng thời với việc xem xét thẩm quyền của người nộp đơn, Tòa án cũng phải
xem xét đến thẩm quyền của mình trong việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại mục I.3.2 Nghị quyết 03/2005/NQHĐTPTANDTC ( trường hợp cần thiết TAND cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá
sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện – xem mục 2.1) thì Tịa
án cấp huyện đã nhận đơn gửi công văn đề nghị và gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
cùng các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu cho TAND cấp tỉnh để tiến hành thủ tục
phá sản và thông báo cho người nộp đơn biết ( mục 3.3 NQ 03/2005). Đồng thời, Tịa án
cũng phải xem xét xem đã có Tịa án nào đã mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX hay
chưa. Nếu đã có một Tịa án khác mở thủ tục phá sản trong trường hợp này, Tòa án sẽ
trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( khoản 3 điều 24 LPS).


Ngồi ra, Tịa án cũng phải xem xét đến tiêu chí xác định doanh nghiệp đặc biệt,
tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính để thơng báo

cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Các tiêu chí này được xác định tại
Điều 3, Điều 4 Nghị định 67/2006/NĐ-CP và Điều 2 Nghị định 114/2008/NĐ-CP. Khi
nhận được thơng báo, cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu con nợ báo cáo về nguy cơ mất
khả năng thanh tốn của mình. Từ đó có quyết định hướng giải quyết theo hai cách: áp
dụng các biện pháp phục hồi hoặc không áp dụng các biện pháp này. Nếu cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp phục hồi thì đây sẽ là căn cứ để Tòa án
ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( khoản 6 điều 10 Nghị định
114/2008/NĐ-CP).
Trong trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi có văn bản
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khơng áp dụng thủ tục phục hồi hoặc
quyết định chấm dứt các biện pháp phục hồi ( điều 9 NĐ 67/2006/NĐ-CP và điều 3 NĐ
114/2008/NĐ-CP).
Khi nhận đơn, Tòa án cũng cần phải xem xét việc nộp đơn có khách quan, trung
thực hay khơng. Nếu việc nộp đơn không khách quan, ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy
tín, hoạt động kinh doanh của DN, HTX hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ
tục phá sản thì đó sẽ là căn cứ để Tịa án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản theo quy định tại khoản 4 điều 24 LPS. Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khơng khách quan cịn có thể bị xử phạt hành chính với mức phạt tối đa lên đến
15.000.000 đồng theo quyết định xử phạt của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc
cấp huyện nơi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ( Điều 11 Nghị định
10/2009/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc xác định tính chất khách quan theo quy định này
khơng có một tiêu chí cụ thể mà chỉ dựa vào ý chí chủ quan của Thẩm phán được phân
cơng giải quyết đơn u cầu. Vì vậy, quy định này thực chất không khả thi nhất là khi
có sự nhập nhằng hoặc cố tình gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Khi Tòa án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người nộp đơn
có quyền khiếu nại quyết định này theo quy định tại điều 25 LPS. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, Chánh án Tòa án phải ra một trong hai quyết định:
+ Giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
+ Hủy quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và thụ lý đơn theo quy định.

Nếu Chánh án Tòa án ra quyết định giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản thì sẽ khơng có các bước tiếp theo của q trình giải quyết phá sản. Điều đó
đồng nghĩa với việc DN, HTX được coi là khơng lâm vào tình trạng phá sản và tiếp tục
hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường cũng như thanh toán các khoản nợ đến hạn
theo hợp đồng. Ngược lại, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý đơn và thực hiện các công việc
tiếp theo của quá trình giải quyết phá sản.
Trong quá trình xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu phát hiện các hành
vi vi phạm hành chính như cản trở, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền nộp đơn;
vi phạm quy định về nghĩa vụ nộp đơn thì Tịa án có quyền ra quyết định xử phạt với
hình thức phạt tiền từ 500.000 đồng đến 3.000.000 đồng và ra quyết định áp dụng biện


pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp chủ doanh nghiệp, hoặc đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời hạn
quy định tại Điều 15 của Luật Phá sản ( Điều 8, Điều 9 Nghị định 10/2009/NĐ-CP).
Khi đã thực hiện xong tất cả những công việc như trên, xét thấy đủ điều kiện thụ lý đơn
yêu cầu, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và thực hiện các cơng việc tiếp theo của q trình
giải quyết phá sản DN, HTX.
2.2.2 Nhiệm vụ của Tòa án khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thực hiện theo quy định tại
Điều 22 LPS. Thời điểm Tịa án thụ lý đơn được tính từ ngày người nộp đơn xuất trình
biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản hoặc ngày Tòa án nhận được đơn nếu người nộp
đơn thuộc trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản. Sau đó, Tịa án phải cấp
cho người nộp đơn giấy báo đã thụ lý đơn ( khoản 2 điều 22 LPS).
Tòa án sẽ tiến hành thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi có đủ các điều
kiện: người nộp đơn yêu cầu đã nộp tạm ứng phí phá sản; DN bị yêu cầu mở thủ tục phá
sản không thuộc loại doanh nghiệp đặc biệt hoặc nếu có thì Tịa án đã nhận được văn
bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thơng báo không áp dụng hoặc chấm dứt áp
dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh theo quy
định tại điều 9 NĐ 67/2006/NĐ-CP.

Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu người nộp đơn không phải là
chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì
Tịa án có trách nhiệm phải thơng báo cho DN, HTX đó biết trong thời hạn năm ngày và
trong thời hạn 15 ngày thì DN, HTX phải xuất trình cho Tịa án các giấy tờ tài liệu theo
quy định tại Khoản 4 Điều 15 LPS:
a, Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của DN, HTX, trong đó giải trình ngun
nhân và hồn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh tốn; nếu DN là cơng ty
cổ phần mà pháp luật có u cầu phải được kiểm tốn thì báo cáo tài chính phải được tổ
chức kiểm toán độc lập xác nhận;
b, Báo cáo về các biện pháp mà DN, HTX đã thực hiện nhưng vẫn khơng khắc phục
được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;
c, Bảng kê chi tiết tài sản của DN, HTX và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được;
d, Danh sách các chủ nợ của DN, HTX trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân
hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và khơng có bảo đảm;
các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và khơng có bảo đảm;
đ, Danh sách những người mắc nợ của DN, HTX trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ;
ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và khơng có bảo đảm;
các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và khơng có bảo đảm;
e, Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp là một cơng ty có
các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp;
g, Những tài liệu khác mà Tòa án yêu cầu DN, HTX phải cung cấp theo quy định của
pháp luật.
Khi hết thời hạn như quy định trên đây, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã có hành vi khơng xuất trình cho Tịa án các giấy tờ, tài liệu thì
có thể bị Thẩm phán được giao nhiệm vụ tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định xử


phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng –
1.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả bằng cách buộc xuất trình giấy
tờ, tài liệu cho Tịa án ( Điều 10 Nghị định 10/2009/NĐ-CP).

Ngoài ra, nếu nhận thấy việc giải quyết phá sản khơng thuộc thẩm quyền của
mình thì Tòa án đã thụ lý đơn chuyển việc giải quyết phá sản cho Tịa án có thẩm quyền
và thơng báo cho người nộp đơn biết. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền được
quy định tại khoản 2 điều 26 LPS. Theo đó, chánh án TAND cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các TAND cấp huyện trong cùng một tỉnh;
Chánh án TAND tối cao có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các
TAND cấp huyện thuộc các tỉnh khác nhau hoặc giữa các TAND cấp tỉnh.
Kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì các nghĩa vụ về tài sản sau
đây phải tạm đình chỉ ( điều 27 LPS):
+ Thi hành án dân sự về tài sản mà DN, HTX là người phải thi hành án.
+ Giải quyết vụ án đòi DN, HTX thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
+ Xử lý tài sản bảo đảm của DN, HTX đối với các chủ nợ có bảo đảm trừ trường hợp
tòa án cho phép.
Khi nhận thấy DN, HTX thuộc một trong các trường hợp quy định ở trên thì Tịa án sẽ
giải quyết theo quy định tại mục II.2 NQ 03/2005/NQ-HĐTPTANDTC như sau:
+ Trong trường hợp DN, HTX là người phải thi hành án dân sự về tài sản, thì Thẩm
phán phải gửi văn bản thơng báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết và yêu cầu cơ
quan thi hành án đó ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án dân sự.
+ Trong trường hợp DN, HTX là đương sự trong vụ án địi DN, HTX thực hiện nghĩa
vụ về tài sản thì Thẩm phán phải gửi văn bản thơng báo cho Tịa án đang giải quyết vụ
án biết và yêu cầu Tòa án đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
+ Trong trường hợp có chủ nợ có bảo đảm yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của DN, HTX
thì Thẩm phán phải thơng báo cho họ biết về nguyên tắc chung việc xử lý tài sản bảo
đảm của DN, HTX đang phải tạm đình chỉ. Thẩm phán có thể cho phép xử lý tài sản
bảo đảm của DN, HTX cho chủ nợ có bảo đảm khi có đủ các điều kiện:
 Tài sản có yêu cầu xử lý là tài sản bảo đảm cho khoản nợ đã đến hạn.
 Việc xử lý tài sản bảo đảm đó không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN, HTX.
 Người yêu cầu xử lý tài sản có đơn u cầu, trong đó trình bày các lý do của việc
xin xử lý tài sản bảo đảm và xét thấy các lý do đó là chính đáng, việc xử lý tài

sản bảo đảm của DN, HTX đối với họ là cần thiết.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tịa án
phải ra quyết định mở hoặc khơng mở thủ tục phá sản ( khoản 1 điều 28 LPS). Quyết
định mở thủ tục phá sản được ra khi có đủ căn cứ để xác định con nợ lâm vào tình trạng
phá sản ( khoản 2 điều 28 LPS). Khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, công việc đầu
tiên mà Tòa án phải làm là thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Thành phần của Tổ


×