Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quyền sao chép tác phẩm theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ việt nam thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TRẦN THỊ KIM DUNG

QUYỀN SAO CHÉP TÁC PHẨM THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUYỀN SAO CHÉP TÁC PHẨM THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM 
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

SVTH: TRẦN THỊ KIM DUNG
GVHD: ThS. CHẾ MỸ PHƯƠNG ĐÀI
KHĨA HỌC: 2013 - 2017

TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2017



LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp tôi đã được sự hỗ trợ và giúp đỡ từ gia đình
và rất nhiều thầy cơ, bạn bè. Tơi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến tất cả mọi người.
Con cảm ơn mẹ, anh trai đã luôn động viên và yêu thương con trong khoảng thời
gian bốn năm xa nhà này.
Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc nhất đến cô Chế Mỹ Phương Đài – giảng
viên trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh đã tận tình chỉ bảo em trong suốt thời gian
qua, sự hướng dẫn nhiệt tình của cơ đã giúp em hồn thành khóa luận tốt nghiệp một
cách tốt nhất.
Bên cạnh đó em cũng xin cảm ơn cô Đặng Thanh Hoa – Cố vấn học tập, đã hỗ trợ
và quan tâm em trong suốt 4 năm đại học, giúp em trưởng thành hơn rất nhiều.
Ngồi ra với sự giúp đỡ nhiệt tình của những người bạn Nguyễn Thị Ngọc Bích,
Lê Tùng Anh, Huỳnh Thị Thanh Chi, Phan Thị Thu Hà, Trần Thị Nguyệt, Nguyễn Thị
Mai Linh và anh Nguyễn Công Ly đã giúp cho việc thực hiện khóa luận của tơi bớt khó
khăn hơn trong việc hồn thành.
Cuối cùng, tơi khơng bao giờ quên sự quan tâm, giúp đỡ tất cả thầy cô trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh, những người bạn trong nhóm Nga mi Pro cùng tồn thể các
bạn lớp DS38A. Sự đồng hành và hiện diện của mọi người trong suốt 4 năm đại học vừa
qua là nguồn động viên rất lớn cho tôi đi đến những chặng đường cuối cùng của thời
sinh viên này. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trần Thị Kim Dung


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Quyền sao chép tác phẩm theo quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị hồn thiện” là
cơng trình nghiên cứu của bản thân tơi, có sự hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là ThS. Chế
Mỹ Phương Đài. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, rút
ra từ việc nghiên cứu, tìm hiểu quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế

giới về quyền sao chép tác phẩm. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong khóa
luận đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu có bất kỳ sai sót hay gian lận nào tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm và mọi
hình thức kỷ luật của khoa và nhà trường đề ra.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 07 năm 2017
Tác giả

Trần Thị Kim Dung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Sở hữu trí tuệ

SHTT


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM QUYỀN SAO CHÉP TÁC PHẨM VÀ GIỚI HẠN CỦA
QUYỀN SAO CHÉP TÁC PHẨM ............................................................................... 1
1.1. Khái niệm quyền sao chép tác phẩm và giới hạn của quyền sao chép tác phẩm
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ..................................... 1
1.1.1. Nền tảng của quy định pháp luật về quyền sao chép tác phẩm ................ 1
1.1.2. Khái niệm quyền sao chép tác phẩm .......................................................... 6
1.1.3. Giới hạn của quyền sao chép tác phẩm .................................................... 12
1.2. Những bất cập trong quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam xung
quanh vấn đề về quyền sao chép tác phẩm ..................................................... 17
1.2.1. Những bất cập trong quy định của pháp luật về khái niệm quyền sao chép

tác phẩm ..................................................................................................... 17
1.2.2. Bất cập trong quy định về giới hạn của quyền sao chép tác phẩm ......... 19
1.3. Khái niệm quyền sao chép tác phẩm và giới hạn của quyền sao chép tác phẩm
theo quy định của pháp luật nước ngoài ......................................................... 21
1.4. Một số kiến nghị sửa đổi bổ sung quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
về nội dung của quyền sao chép tác phẩm ...................................................... 27
1.4.1. Đưa ra cách hiểu thống nhất về “sao chép” và trường hợp được xác định
là hành vi sao chép tác phẩm .................................................................... 27
1.4.2. Về các trường hợp ngoại lệ của quyền sao chép tác phẩm ..................... 29
CHƯƠNG 2: BẢO VỆ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU QUYỀN TÁC GIẢ
KHI TÁC PHẨM ĐƯỢC (BỊ) SAO CHÉP ............................................................... 32
2.1. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực sao chép ..................... 32


2.2. Mối tương quan giữa quyền sao chép tác phẩm và các quyền khác của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả ........................................................................... 33
2.3. Các phương thức bảo vệ quyền của tác giả chủ sở hữu quyền tác giả khi sao
chép tác phẩm .................................................................................................... 35
2.3.1. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tự bảo vệ tác phẩm của mình ........... 35
2.3.2. Thông qua các cơ quan quản lý nhà nước............................................... 37
2.3.3. Thông qua các cơ quan tư pháp ............................................................... 39
2.4. Biện pháp bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi sao chép
tác phẩm ............................................................................................................. 40
2.4.1. Biện pháp dân sự ....................................................................................... 40
2.4.2. Biện pháp hành chính ............................................................................... 43
2.4.3. Biện pháp hình sự ..................................................................................... 45
2.5. Thực trạng áp dụng pháp luật và nguyên nhân gây ra tình trạng quyền tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả bị xâm phạm nghiêm trọng khi tác phẩm bị sao
chép ..................................................................................................................... 47
2.5.1. Thực trạng áp dụng pháp luật .................................................................. 47

2.5.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
bị xâm phạm nghiêm trọng khi tác phẩm bị sao chép ............................. 57
2.6. Bất cập trong quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp, xử lý
hành vi xâm phạm quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi sao chép
tác phẩm ............................................................................................................. 62
2.7. Giải pháp nhằm hạn chế tình trạng xâm phạm quyền của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả khi sao chép tác phẩm ............................................................... 65
2.7.1. Giải pháp pháp lý ....................................................................................... 65
2.7.2. Giải pháp khác ........................................................................................... 67


KẾT LUẬN ................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC SỐ 01
PHỤ LỤC SỐ 02
PHỤ LỤC SỐ 03


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nền
kinh tế thế giới đang đi đến những biến đổi sâu sắc cả về cơ cấu và phương thức hoạt
động. Nền kinh tế chuyển từ kinh tế cơng nghiệp sang kinh tế trí thức. Tri thức trở thành
chìa khóa quyết định sự phát triển của cá nhân nói riêng và nhân loại nói chung. Và sở
hữu trí tuệ đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế  xã hội của các quốc
gia, là mối quan tâm chung của cả thế giới. Đặc biệt, trong q trình phát triển, hội nhập
sâu và tồn diện như hiện nay, hoạt động sở hữu trí tuệ là phần không thể thiếu của một
nền kinh tế phát triển bền vững, là tiền đề cho sự phát triển đất nước về lâu dài.
Ở nước ta, sở hữu trí tuệ vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ, nhận thức chung còn những
hạn chế nhất định nên chưa được coi trọng đúng mức. Nhưng cũng không phủ nhận một

điều rằng từ sau khi gia nhập Công ước Berne vào năm 2004 và Tổ chức thương mại thế
giới WTO năm 2007, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam càng được chú
trọng hơn. Khi mà nền kinh tế quốc tế đặt mối quan tâm hàng đầu về vấn đề bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ thì Việt Nam với tư cách là một thành phần của nền kinh tế quốc tế cũng
đã có sự quan tâm thích đáng đối với vấn đề này.
Bản chất của lao động là sáng tạo. Sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực thể hiện sự sáng
tạo vượt bậc, sự kết tinh của tri thức con người, và sự sáng tạo đó cần được phát triển để
đáp ứng nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho xã hội. Và đương nhiên người sáng tạo ra
cũng phải được “trả công” một cách xứng đáng. Tuy nhiên, trong môi trường phát triển
của Internet, sự vượt bậc của khoa học công nghệ cùng với nền kinh tế cịn khó khăn thì
ở nước ta quyền sao chép tác phẩm – một trong những quyền tài sản quan trọng nhất
trong quyền tác giả đang ngày càng bị xâm phạm nghiêm trọng. Đúng như ơng Lê Dỗn
Hợp – Ngun Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thơng tin, ngun Bộ trưởng Bộ Thông tin
Truyền thông, Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam chia sẻ: “Chúng ta đang sống
trong thời đại công nghệ thông tin, phát triển kỳ diệu, ngoạn mục, vượt lên trên mong
muốn con người. Công nghệ thông tin thay đổi thứ hạng các quốc gia. Đặc biệt trong 10
năm trở lại đây, công nghệ thông tin tôn vinh và cải tạo từng con người, trong đó có
những người làm bản quyền. Công nghệ thông tin làm đảo lộn cuộc sống và cách làm


truyền thống… Chúng ta hưởng thụ văn minh của cả loài người nhưng lại thiếu trách
nhiệm với những người sáng tạo văn minh đó. Càng vào thời đại phát triển, vấn đề bản
quyền càng trở nên cần thiết.”
Khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, sự sáng tạo của con người ngày càng
rộng rãi và ở những trình độ cao thì nhu cầu về mặt xã hội, lợi ích cộng đồng cũng ngày
càng mở rộng. Nhu cầu khai thác sức sáng tạo đó về mặt kinh tế lẫn tinh thần cũng ngày
càng nhiều. Sự phát triển của khoa học công nghiệp đã giúp cho việc phân phối, phổ biến
các tác phẩm trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, giúp cho thị trường của các tác phẩm trở
nên rộng rãi và phong phú. Song song với mặt tích cực đó thì nó cũng đi đơi với những
rủi ro, quyền tác giả  đặc biệt là quyền sao chép tác phẩm lại càng dễ bị “ăn cắp” công

khai, công tác quản lý, bảo hộ bản quyền đối với sản phẩm sở hữu trí tuệ ngày càng trở
nên khó khăn, phức tạp trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Quyền
sao chép tác phẩm mang lại lợi ích kinh tế cao cho tác giả, chủ sở hữu quyền, chính vì
vậy việc bảo hộ thực thi quyền sao chép tác phẩm được quan tâm đặc biệt khi đánh giá
tình hình bảo hộ quyền tác giả tại một quốc gia. Việc thực thi hiệu quả quyền sao chép
tác phẩm sẽ tạo một môi trường sáng tạo hấp dẫn và cũng đồng thời bảo hộ quyền lợi
chính đáng của những người tham gia khai thác, sử dụng, hưởng thụ tác phẩm của tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm, làm lành mạnh nền văn hóa đọc, đảm bảo được nguyên tắc
cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu và cộng đồng.
Ở Việt Nam hiện nay, những hoạt động lập pháp đã tạo ra hành lang pháp lý an
toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo phát triển. Đồng thời, công cụ luật pháp sẽ
trở thành rào cản hay là cầu nối hữu hiệu cho sự tiếp cận tri thức cịn phụ thuộc vào tính
hợp lý trong các chính sách cũng như quy định của pháp luật có dung hịa được lợi ích
của chủ sở hữu quyền và lợi ích của công chúng. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay thì
những khía cạnh nhất định vấn đề bảo hộ quyền sao chép tác phẩm vẫn chưa được quan
tâm đúng mức cả từ phía các cơ quan có thẩm quyền lẫn xã hội. Những quy định của
pháp luật cũng còn nhiều lỗ hổng và chưa thật sự rõ ràng trong vấn đề bảo vệ quyền sao
chép tác phẩm.
Thực trạng này đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu sâu hơn về quyền sao chép tác
phẩm, đánh giá thực trạng việc thực thi quyền sao chép tác phẩm trở thành đòi hỏi mang


tính thời sự và cấp thiết, cần phải tìm hiểu để đưa ra những giải pháp giải quyết những
vấn đề cịn tồn đọng. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Quyền sao chép
tác phẩm theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam – Thực trạng và kiến
nghị hoàn thiện” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, với hy vọng sẽ đem đến cái nhìn
pháp lý về quyền sao chép tác phẩm cũng như góp phần vào việc bảo vệ quyền của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi sao chép tác phẩm ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tác phẩm trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang bị sao chép một cách

nghiêm trọng và chưa thật sự có những giải pháp giải quyết một cách hiệu quả. Sự phát
triển của khoa học công nghệ, sự tinh vi phức tạp trong hành vi xâm phạm quyền sao
chép tác phẩm càng khiến cho vấn đề này càng mang tính thời sự và cấp thiết.
Đã có nhiều bài viết chuyên khảo cũng như các cơng trình nghiên cứu khoa học
về vấn đề này, cụ thể như: Nguyễn Lâm Giang (2011), Quyền sao chép tác phẩm theo
công ước Berne và theo pháp luật Việt Nam, khóa luận cử nhân luật, Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh; Trần Ngọc Thanh Thảo (2014), Quyền sao chép trong
công ước Berne và pháp luật Việt Nam  Thực trạng và kiến nghị, khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận đã làm rõ những vấn đề lý luận
về quyền sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam, thực trạng cũng như những giải
pháp. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở vấn đề pháp lý liên quan đến quyền sao chép tác phẩm
giữa pháp luật Việt Nam và công ước Berne, các giải pháp chưa thật sự giải quyết hết
những bất cập, thực trạng đã nêu ra.
Ngồi ra cịn có những bài viết như: Lê Thị Nam Giang (2015), “Bảo hộ quyền
tác giả trong hoạt động thư viện”, Khoa học pháp lý (03); Nguyễn Ngọc Lâm, Lê Thị
Nam Giang, Nguyễn Thị Bích Ngọc (2007), “Về quyền photocopy tác phẩm trong môi
trường giáo dục”, Khoa học pháp lý (01); Phạm Thị Kim Oanh (2016), “Giới hạn và
ngoại lệ quyền liên quan trong hoạt động lưu trữ của thư viện”, Tài liệu hội thảo; Nguyễn
Ngọc Hồng Phượng (2016), “Các trường hợp ngoại lệ và hạn chế theo quy định pháp
luật một số quốc gia Châu Âu và tác động đến quyền sao chép tác phẩm trong thư viện”,
Tài liệu hội thảo; Nguyễn Phương Thảo (2016), “Quy định “Sử dụng hợp lý” (Fair use)


trong pháp luật quyền tác giả và việc ứng dụng vào hoạt động thư viện tại Hoa Kỳ”, Tài
liệu hội thảo. Các bài viết này đã chỉ rõ những vấn đề pháp lý cũng như thực trạng, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, những bài nghiên cứu này chủ
yếu chuyên sâu về vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường giáo dục mà cụ thể hơn
là trong việc hoạt động lưu trữ của thư viện, nó chỉ là một trong những khía cạnh của
thực trạng quyền sao chép tác phẩm.
Vấn đề quyền sao chép tác phẩm là một câu chuyện không mới nhưng chưa hẳn là

cũ khi mà thực trạng hành vi sao chép bất hợp pháp dường như khơng có điểm dừng.
Nhận thấy cần có thêm những cơng trình nghiên cứu về quyền sao chép pháp luật theo
quy định của pháp luật Việt Nam để có thêm nhiều giải pháp thiết thực hơn, vì vậy mà
tác giả đã chọn đề tài “Quyền sao chép tác phẩm theo quy định của pháp luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị hồn thiện”.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận mà tác giả thực hiện nhằm hướng đến những mục đích sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận, bất cập cũng như những giải pháp hoàn
thiện về khái niệm quyền sao chép tác phẩm, phạm vi giới hạn của quyền sao chép tác
phẩm theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm từ
quy định của một số quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, nêu ra mối tương quan giữa quyền sao chép tác phẩm và các quyền khác
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng như các biện pháp, phương thức bảo vệ quyền
của tác giả, chủ sở hữu khi tác phẩm bị sao chép.
Thứ ba, nắm bắt được thực trạng của tình hình tác phẩm bị sao chép bất hợp pháp,
đưa ra một số những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền
sao chép tác phẩm và nâng cao việc bảo vệ quyền sao chép tác phẩm trên thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam về quyền sao chép tác phẩm ở Việt Nam.


Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định về quyền sao chép tác phẩm trong
phạm vi pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và có mở rộng ra một số nước phát triển trên
thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Khái quát sự hình thành về pháp luật sở hữu trí tuệ trên thế
giới.
- Phương pháp so sánh: So sánh quy định về quyền sao chép tác phẩm theo quy

định của một số nước trên thế giới với Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, chứng minh: Phân tích những vấn đề pháp lý liên quan
đến quyền sao chép tác phẩm, bảo vệ các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
khi tác phẩm bị sao chép; bằng các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp
luật tác giả đã chứng minh những vấn đề về lý luận cũng như những bất cập trong quy
định về quyền sao chép tác phẩm tại Việt Nam.
- Phương pháp bình luận, đánh giá: Đánh giá những quy định của pháp luật về
quyền sao chép tác phẩm cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải
pháp.
6. Bố cục tổng qt khóa luận
Ngồi các nội dung trong phần Mục lục, Phần mở đầu, Danh mục tài liệu tham
khảo, Phụ lục; khóa luận này được chia làm 2 chương chính:
Chương 1: Khái niệm quyền sao chép tác phẩm và giới hạn của quyền sao chép
tác phẩm.
Chương 2: Bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi tác phẩm được
(bị) sao chép.


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM QUYỀN SAO CHÉP TÁC PHẨM VÀ GIỚI HẠN CỦA QUYỀN
SAO CHÉP TÁC PHẨM
1.1.

Khái niệm quyền sao chép tác phẩm và giới hạn của quyền sao chép tác phẩm
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

1.1.1. Nền tảng của quy định pháp luật về quyền sao chép tác phẩm
Sau thời kỳ suy thoái của nền kinh tế công nghiệp là sự lên ngôi của nền kinh tế
dựa trên tri thức, nơi mà sáng tạo – linh hồn của sự đổi mới – đóng vai trị của một tính
năng thiết yếu và thúc đẩy khả năng cạnh tranh, như một động lực chính cho tăng trưởng

kinh tế. Kinh tế tri thức là một nền kinh tế mà trong đó trí tuệ con người được lĩnh hội,
sáng tạo và phổ biến để thúc đẩy sự phát triển. Từ sự sáng tạo cùng với trí tuệ của mình,
con người đã khơng ngừng tìm tịi, nghiên cứu để tạo dựng nền văn minh và ứng dụng
nó nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Con người đã không ngừng tiến bộ để tạo ra
những thành tựu hết sức vĩ đại về trí tuệ.
Khái niệm về SHTT đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, quyền SHTT được hiểu là
quyền sở hữu kết quả sáng tạo của cá nhân trên cơ sở pháp luật, trong đó quyền của chủ
thể sáng tạo được độc quyền trong thời hạn nhất định khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
sản phẩm trí tuệ do mình tạo ra1. Luật Venice năm 1474 đã nhắc đến như một sự can
thiệp đầu tiên mang tính hệ thống đối với hoạt động bảo hộ sáng chế dưới hình thức của
bằng độc quyền sáng chế (trước đó, Johannes Gutenberg sáng chế ra con chữ in rời và
máy chữ năm 1440; John of Speyer là nhà in đầu tiên được độc quyền in chữ và máy chữ
năm 1469). Đây là lần đầu tiên luật đã quy định một loại độc quyền của cá nhân mà độc
quyền này có ảnh hưởng và hạn chế lợi ích của cơng chúng2. Sau đó có nhiều đạo luật
về SHTT lần lượt ra đời cho thấy tầm quan trọng về việc xây dựng hệ thống các đạo luật
để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Luật về sở hữu công nghiệp đầu tiên trên thế giới
được xây dựng năm 1640 ở Anh – Đạo luật Elizabeth.
Bùi Thu Hằng, Bùi Loan Thùy, “Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả trong hoạt động thông tin thư
viện”,
truy cập lần cuối ngày 18/5/2017.
2
Đào Đăng Kiên (2015), Kinh tế tri thức và Sở hữu trí tuệ, NXB Lý luận chính trị Hà Nội, trang 133.
1

1


Không những trên lĩnh vực về sở hữu công nghiệp, những luật liên quan đến quyền
tác giả cũng được các quốc gia trên thế giới quan tâm và bắt đầu cho ra đời. Quyền tác
giả là một trong những nội dung của quyền SHTT. Khi mà con người xuất hiện, những

tác phẩm tinh thần được tạo ra để đáp ứng cho đời sống văn hóa của con người, những
tác phẩm này được sao chép một cách hợp pháp để phổ biến các tác phẩm cũng như
truyền lại cho đời sau mà khơng có một đạo luật nào điều chỉnh, nhất là đối với các tác
phẩm viết. Các quy định của luật pháp chỉ dành cho những vật mang tác phẩm trí tuệ,
đặc biệt là về sở hữu. Ví dụ: khơng được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được
phép chép lại từ quyển sách đó. Những tác giả thật sự chỉ có thể tự bảo vệ tác phẩm –
“đứa con tinh thần của mình” – bằng cách gắn “lời nguyền” vào cuốn sách để tránh việc
sao chép3. Từ thời Hy Lạp cổ con người đã bắt đầu quan tâm đến việc xác định ai là tác
giả của những sản phẩm trí tuệ. Nhưng lúc ấy chưa ai nghĩ đến quyền lợi kinh tế vì việc
sao chép khó khăn (khắc trên đá, gỗ hay ghi chép lại trên giấy bồi đều rất phức tạp) và
đại đa số dân chúng mù chữ4. Khi máy in chữ ra đời năm 1440 tạo ra một bước ngoặc
lớn cho cơng nghệ sao chép, chính từ lúc đó tình trạng sao chép các tác phẩm càng trở
nên nghiêm trọng. Vào khoảng đầu thế kỷ XVI nhà cầm quyền Anh đã bắt đầu cấp giấy
phép cho các chủ xưởng in để bảo hộ quyền sao chép sách, tăng thêm khoản tiền đáng
kể vào ngân quỹ nhà nước đồng thời dễ dàng kiểm soát các tác phẩm có tính dấy loạn và
phản tơn giáo. Vào thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, phong trào Phục Hưng – hay cịn gọi là
phong trào văn hóa ngày càng phát triển nở rộ, tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa nhân
loại, các quyền tự do của con người càng trở nên quan trọng, chính vì thế mà chính quyền
ở nhiều nơi đã bắt đầu ban hành nhiều đạo luật với những đặc quyền để trả công cho
những người đã sáng tạo ra tác phẩm. Năm 1710, luật về quyền tác giả đầu tiên (Đạo
luật Anne) được Quốc hội Anh ban hành, sau đó là Mỹ (1790), Pháp (1791)… Đạo luật
Anne của Anh là đạo luật đầu tiên ghi nhận quyền “độc quyền sao chép” của tác giả và
độc quyền này được bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định. Song song với cuộc cách
mạng kinh tế đang diễn ra ở châu Âu vào thời kỳ này, kỷ nguyên Ánh sáng bắt đầu đặt
nền tảng cho quyền tác giả ra đời với việc xem tác giả như một nhân vật đặc biệt, thu hút

Trần Văn Nam (2014), Quyền tác giả ở Việt Nam, pháp luật và thực thi, NXB Tư pháp Hà Nội, trang 11.
Dương Thị Hải Lê (2007), Nguyên tắc cân bằng – đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
công chúng, Khóa luận cử nhân luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, trang 1.
3

4

2


sự quan tâm bảo vệ của các nhà làm luật, đây được xem là thời kỳ mà nhà văn bắt đầu
trở thành một trong những công dân được ngưỡng mộ và kính trọng nhất5. Việc ban hành
các đạo luật về quyền tác giả đã bảo vệ lợi ích chính đáng những người sáng tạo ra các
tác phẩm, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo của các tác giả để tiếp tục tạo ra nhiều đứa
con tinh thần cho nhân loại.
Khi cơng cuộc cơng nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới
thì vấn đề cần đặt ra cho các chủ sở hữu tài sản trí tuệ là phải làm thế nào để bảo vệ lợi
ích hợp pháp của mình đối với tài sản đó. Chính vì lẽ đó mà bảo hộ quyền SHTT trở
thành mối quan tâm hàng đầu ở các nước công nghiệp phát triển. Có thể thấy bảo hộ
quyền SHTT xuất phát đầu tiên tại các nước cơng nghiệp phát triển, sau đó lan rộng ra
toàn thế giới và dần trở thành xu hướng chung cho sự phát triển bền vững của kinh tế đất
nước. “Hệ thống SHTT là một trong những hòn đá tảng của chính sách kinh tế hiện đại
ở tầm quốc gia và là một chất xúc tác cho phát triển. Nó sẽ trở thành một cơng cụ ngày
càng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của các nước đang phát triển, đặc biệt là
các nước chậm phát triển, trong xã hội dựa trên tri thức của thiên niên kỷ này. Bởi vậy
hiểu được cơ sở luật pháp và kinh tế của hệ thống SHTT là điều kiện tiên quyết để nhận
thức được tầm quan trọng và vai trò ngày càng tăng của nó trong chiến lược quốc gia
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng tốc trong phát triển kinh tế xã hội”6.
Với lịch sử hình thành và trình độ phát triển kinh tế khác nhau dẫn đến sự khác biệt
trong việc tiếp cận đối với hoạt động SHTT tại các quốc gia trên thế giới. Hơn ai hết các
quốc gia tại châu Âu, châu Mỹ là những đối tượng quan tâm nhiều nhất đến việc bảo hộ
quyền SHTT vì chính họ là những quốc gia nắm giữ nhiều nhất về số lượng các sản phẩm
liên quan đến trí tuệ. Với xuất phát điểm là đất nước nghèo, lạc hậu, chậm phát triển Việt
Nam có lịch sử hình thành hệ thống pháp luật liên quan đến bảo hộ quyền tác giả chậm
hơn nhiều nước trên thế giới. Chiến tranh kéo dài đã khiến cho việc bảo hộ quyền tác giả

ở Việt Nam chưa cao. Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng nước ta vẫn nằm trong
bom đạn nên ngay cả trong chế độ dân chủ mới nước ta cũng chỉ có một số ghi nhận
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí minh,
trang 3.
6
Shahid Alikhan (2008), Lợi ích kinh tế xã hội của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở các nước đang phát triển, Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới, trang 1  2.
5

3


mang tính nguyên tắc và hết sức khái quát trong Hiến pháp về một vài vấn đề liên quan
đến lợi ích của người sáng tạo. Chẳng hạn, tại Hiến pháp 1946 chỉ có Điều 13 quy định:
“Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm”. Cịn Hiến pháp 1959
thì quy định rộng hơn: “… Nhà nước khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực
của những người lao động chân tay và lao động trí óc” (Điều 21); “Cơng dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ
thuật và tiến hành hoạt động văn hóa khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tính sáng
tạo của những cơng nhân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự
nghiệp văn hóa khác” (Điều 34)7. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1975,
công cuộc đổi mới đất nước được tiến hành, vấn đề về quyền tác giả mới bắt đầu được
quan tâm đúng nghĩa. Năm 1976, Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức SHTT thế giới –
WIPO. WIPO không chỉ dừng ở việc thúc đẩy các đối tượng bảo hộ SHTT, mà còn tham
gia vào việc giúp đỡ các nước đang phát triển trong việc soạn thảo xây dựng và thực thi
pháp luật, trong việc thiết lập cơ cấu hành chính và thiết chế phù hợp, và trong việc giúp
đào tạo nguồn nhân lực.
Quyền tác giả ở Việt Nam lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị định số
142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về quyền tác giả, là tiền đề pháp
lý đầu tiên để các cơ quan có thẩm quyền bảo hộ quyền tác giả. Nhưng những quy định

này còn rất hạn chế, chưa thật sự quan tâm đến việc bảo vệ quyền của tác giả và đảm bảo
các lợi ích kinh tế cho các tác giả, chủ sở hữu. Nghị định số 142/HĐBT là một văn bản
dưới luật nên bị giới hạn nhất định trong việc thực thi quyền tác giả. Trên phương diện
quốc tế, Nghị định này chưa được coi là văn bản có giá trị pháp lý cao để Việt Nam tham
gia vào các hiệp ước quốc tế về quyền tác giả.
Sau đó, quyền tác giả đã được ghi nhận trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp
lý cao nhất – Hiến pháp 1992: “Cơng dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát
minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn
học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp”8.
7
8

Kiều Thị Thanh (2002), “Bảo hộ pháp lý quyền tác giả”, Nghiên cứu lập pháp, số 12, trang 72.
Điều 60 Hiến pháp năm 1992.

4


Năm 1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh bảo hộ quyền tác
giả để khắc phục những hạn chế của Nghị định 142/HĐBT. Sau đó Pháp lệnh này cũng
nhanh chóng chấm dứt hiệu lực vì sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995. Lúc này, quyền tác
giả đã được ghi nhận tại một văn bản có giá trị pháp lý cao, là cơ sở để Việt Nam mở
rộng và thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế. Tiêu biểu, Việt Nam đã ký Hiệp định song
phương về quyền tác giả với Hoa Kỳ và Thụy Sĩ. Năm 2004, Việt Nam chính thức gia
nhập Cơng ước Berne về bảo hộ quyền tác giả. Đây là thỏa ước quốc tế lâu đời nhất trên
lĩnh vực quyền tác giả, được ký kết vào ngày 9/9/1886. Tháng 5/2005 Bộ luật dân sự
1995 được sửa đổi bổ sung – được gọi là Bộ luật dân sự 2005, các quy định về SHTT
được tách ra thành luật riêng (Luật SHTT năm 2005) và chỉ giữ lại những quy định mang
tính nguyên tắc.

Đứng trước những đòi hỏi của thực tiễn nhằm chống sự chồng chéo, bỏ sót, chưa
rõ ràng giữa quy định của Bộ luật dân sự với các quy định về quyền tác giả trong hệ
thống pháp luật Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, ngày 29/11/2005 Luật SHTT đã
được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2006. Và quyền tác giả cũng được ghi nhận cụ thể và chi tiết trong Luật SHTT
năm 2005.
Luật SHTT năm 2005 ra đời đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử pháp luật về
quyền tác giả tại Việt Nam, đảm thực thi quyền tác giả một cách hiệu quả. Và tất nhiên
không thể không kể đến một trong những tiến bộ về quyền tác giả Việt Nam là sự phát
triển của các quy định của pháp luật về quyền sao chép tác phẩm. Quyền sao chép tác
phẩm đã được đề cập trong Bộ luật dân sự 1995, tuy chỉ ở mức độ không rõ ràng và cụ
thể, chỉ là một trong những quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nhưng đó là sự
khởi đầu đầu tiên để các quy định về sau được hoàn thiện. Quyền sao chép tác phẩm
được quy định đầy đủ và rõ ràng nhất trong Luật SHTT năm 2005 và các văn bản hướng
dẫn. Nó được quy định một cách cụ thể bao gồm cả định nghĩa hành vi sao chép, các
hành vi xâm phạm quyền sao chép và những ngoại lệ của nó. Các quy định cụ thể về
quyền sao chép tác phẩm nằm rải rác trong các văn bản pháp luật, tuy có sự khó khăn
trong việc áp dụng nhưng nó cũng tạo ra hành lang pháp lý an toàn để bảo vệ các quyền
lợi chính đáng cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

5


Pháp luật về quyền sao chép tác phẩm ở Việt Nam ra đời tuy muộn hơn nhiều nước
trên thế giới, cịn nhiều hạn chế nhưng đã có nhiều bước phát triển nhất định, đáp ứng
được nhu cầu hội nhập quốc tế và khuyến khích nội lực sáng tạo của con người. Là cơ
sở để Việt Nam hạn chế những tình trạng xâm phạm quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả khi tác phẩm bị sao chép.
1.1.2. Khái niệm quyền sao chép tác phẩm
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra

hoặc sở hữu9. Quyền tác giả bảo hộ những sáng tạo trí tuệ gốc khi nó mang dấu ấn cá
nhân riêng biệt của từng tác giả, được bảo hộ theo cơ chế tự động, ngay khi nó được tạo
ra mà không cần đăng ký. Chúng ta đang hưởng thụ những thành quả lao động trí óc của
con người thì phải có trách nhiệm với những người đã tạo ra nó. Pháp luật SHTT Việt
Nam cơng nhận cho tác giả hai nhóm quyền cơ bản, đó là nhóm quyền nhân thân và
nhóm quyền tài sản. Chủ sở hữu quyền tác giả có những quyền tài sản nhất định đối với
tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trong đó có quyền sao chép tác phẩm.
Đối tượng của quyền sao chép trong nghiên cứu của tác giả chính là các tác phẩm.
Tác phẩm được định nghĩa trong quy định của Luật SHTT là sản phẩm sáng tạo trong
lĩnh vực văn học nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức
nào10. Quy định này rất phù hợp với định nghĩa về tác phẩm theo Công ước Berne. Theo
Điều 2 Công ước Berne: “Thuật ngữ “các tác phẩm văn học và nghệ thuật” bao gồm tất
cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện
theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bài
viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại;…”.
Ngoài ra ta có thể hiểu tác phẩm như là thành quả lao động trí tuệ của một người, chứa
đựng các giá trị tinh thần – có thể đem đến cho người tiếp nhận một nội dung tư tưởng
hoặc nội dung tình cảm nhất định11. Luật SHTT Việt Nam khơng những định nghĩa thế
nào là tác phẩm mà còn giành một điều luật để liệt kê các loại hình tác phẩm được bảo

Khoản 2, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Khoản 7, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
11
Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Bích Ngọc, Nguyễn Huy Phát (2005), Bình luận về quyền tác giả theo
pháp luật Việt Nam, NXB Tư Pháp Hà Nội, trang 28 - 29.
9

10

6



hộ tại Điều 14. Trên cơ sở quy định này kết hợp với quy định của Công ước Berne cũng
như các quy định trong Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật SHTT về quyền tác giả và
quyền liên quan để xác định các loại hình tác phẩm được bảo hộ bao gồm tác phẩm văn
học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ
viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm
âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương
pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh); tác phẩm tạo hình, mỹ thuật
ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ
liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình khoa học; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian và chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Nhìn chung phạm vi các tác phẩm được bảo hộ theo Điều 14 Luật SHTT rất rộng,
nhưng để được bảo hộ thì nó phải hội tụ đủ những điều kiện nhất định. Đó là:
Thứ nhất, tác phẩm phải là kết quả của sự sáng tạo trực tiếp của con người, có tính
ngun gốc, mang dấu ấn cá nhân riêng biệt của từng người cụ thể. Thông qua hoạt động
của trí não, tư duy của con người và các yếu tố hỗ trợ khác để tạo ra tác phẩm. Kết quả
của việc lao động sáng tạo này là những khám phá mới về đời sống, xã hội, nghiên cứu
với một hàm lượng chất xám nhất định để tìm tịi ra những cái mới, có tính sáng tạo và
độc đáo. Các tác phẩm thể hiện những quan niệm, phương thức thể hiện tư tưởng hay
tình cảm khác nhau nên mang dấu ấn cá nhân riêng biệt của mỗi người. Chính vì vậy mà
các tác phẩm rất phong phú, đa dạng và được cơng chúng đón nhận để đáp ứng nhu cầu
của đời sống văn hóa xã hội. Bên cạnh những giá trị tinh thần nó cịn khả năng mang lại
những giá trị kinh tế cho tác giả, chủ sở hữu. Các tác phẩm bị cho là sao chép rập khn
theo lối mịn sẽ khơng được bảo hộ. Tác phẩm được tạo ra có chất lượng như thế nào
đều được thừa nhận miễn là có tính sáng tạo, phải là sản phẩm trí tuệ nguyên gốc và duy
nhất. Tính nguyên gốc khơng có nghĩa là khơng có kế thừa. Thí dụ “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du là chuyển thể thơ của tiểu thuyết “Đoạn trường Tân Thanh” của Thanh Tâm


7


Tài Nhân, nhưng cả Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân đều được công nhận là tác giả
của tác phẩm của mình12.
Thứ hai, tác phẩm được ấn định thơng qua một dạng vật chất hoặc một hình thức
nhất định. Tác phẩm là thành quả của lao động trí tuệ, tư duy của con người, là tài sản
vơ hình. Pháp luật khơng thể bảo hộ những suy nghĩ trong trí óc của con người nếu chúng
khơng được định hình thơng qua một dạng vật chất hoặc một hình thức nhất định và qua
đó cơng chúng có thể nhận biết được sự tồn tại của tác phẩm. Định hình là sự biểu hiện
bằng chữ viết, các ký tự khác, đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc, âm thanh, hình ảnh
hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận
biết, sao chép hoặc truyền đạt13.
Thứ ba, chỉ bảo hộ hình thức khơng bảo hộ nội dung. Khơng ai có thể nhận biết
được tác phẩm khi nó vẫn cịn nằm trong suy nghĩ của tác giả mà chưa thể hiện bằng một
hình thức nhất định. Nên nó sẽ khơng có cơ sở để thừa nhận và bảo hộ. Pháp luật không
quy định là hình thức nào nên có thể hiểu bất kỳ hình thức nào mà con người có thể nhận
biết được tác phẩm. Pháp luật chỉ bảo hộ hình thức khơng bảo hộ nội dung tác phẩm do
ta không thể đánh giá nội dung một tác phẩm là đẹp hay xấu, hay hay dở. Chính vì vậy
pháp luật chỉ xem xét bảo hộ hình thức thể hiện của tác phẩm. Tác phẩm được bảo hộ kể
từ khi tác phẩm được sáng tạo ra và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay
chưa đăng ký14. Nghĩa vụ đăng ký là không bắt buộc, bởi quyền này là một loại quyền
“tuyên nhận”, quyền tự động phát sinh khi ý tưởng của tác giả được thể hiện dưới hình
thức nhất định15. Nhưng việc đăng ký là một biện pháp để tác giả tự bảo vệ tác phẩm của
mình, nó sẽ trở thành chứng cứ chứng minh nếu có tranh chấp phát sinh.

Phạm Tuấn Anh, Vũ Trọng Hách, Phùng Văn Hiền (2011), Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, NXB Khoa học
và kỹ thuật Hà Nội, trang 87.
13

Khoản 5, Điều 4 Nghị Định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
14
Khoản 1, Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
15
Trường Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Phùng Trung Lập, NXB Công an
nhân dân, trang 37.
12

8


Tóm lại đối tượng của quyền sao chép trong nghiên cứu của tác giả là các tác phẩm
 là thành quả lao động sáng tạo của tác giả, có thể là tác phẩm văn học, nghệ thuật hay
khoa học.
Nội hàm của hành vi sao chép tác phẩm là gì. Trên phương diện thuật ngữ pháp lý
thì sao chép tác phẩm là việc thể hiện lại phần trọng yếu hoặc toàn bộ tác phẩm dưới bất
kỳ hình thức vật chất nào16. Khoản 10, Điều 4 Luật SHTT năm 2005 định nghĩa hành vi
sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức
điện tử. Bản sao tác phẩm được giải thích cụ thể tại Nghị định 100/2006/NĐ-CP, là bản
sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm (khoản 4, Điều 4). Sao
chép có thể tiến hành dưới dạng trực tiếp là việc tạo ra bản sao từ chính tác phẩm, bản
ghi âm, ghi hình (ví dụ photocopy, sao phầm mềm vào máy tính); hoặc sao chép gián
tiếp là việc tạo ra các bản sao khác khơng từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình
(ví dụ sao chép từ mạng thông tin điện tử, dùng máy quay để ghi hình chương trình phát
sóng). Trên cơ sở quy định của pháp luật, các nhà nghiên cứu tiếp tục làm rõ khái niệm
hành vi sao chép.
Theo Giáo trình Luật SHTT trường Đại học luật Hà Nội thì sao chép tác phẩm là
việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả

việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời dưới hình thức điện tử17.
Sao chép (COPYING) cịn được giải thích là một “bản sao” theo nghĩa nó hồn
tồn giống với tác phẩm có bản quyền, nó phải được sao chép từ một tác phẩm có bản
quyền và khơng giống như một tác phẩm vơ tình trùng hợp được sáng tạo độc lập hay
được lấy từ một nguồn giống như tác phẩm có bản quyền18.
Sao chép còn được đề cập trong Điều 9 Công ước Berne “Tác giả được độc quyền
cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kỳ phương thức hay hình thức nào”. Hay trong
pháp luật SHTT Pháp thì sao chép là “việc định hình vật chất của tác phẩm bằng bất kỳ
Nguyễn Ngọc Điệp (2009), 3450 Thuật ngữ Pháp lý Phổ thông, NXB Giao thông vận tải, trang 269.
Trường Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Phùng Trung Lập, NXB Công an
nhân dân, trang 65.
18
Thomas G.Field Jr (2006), Quyền Sở hữu trí tuệ, Focus on Intellectual Property Rights, NXB Từ điển bách khoa,
trang 107.
16

17

9


phương tiện nào cho phép truyền đạt tác phẩm đến cơng chúng một cách gián tiếp”
(Điều L.122-3 Luật SHTT Pháp)19.
Nhìn chung mặc dù có nhiều cách giải thích về hành vi sao chép khác nhau nhưng
đều có ngữ nghĩa tương tự nhau đó là hành vi tạo ra bản sao dưới bất kỳ hình thức nào.
Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 không định nghĩa thế nào là
quyền sao chép tác phẩm mà chỉ đề cập đến quyền sao chép là một trong những quyền
tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày
20/9/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày
21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật

SHTT về quyền tác giả và quyền liên quan tại khoản 5, Điều 1 đã định nghĩa: “Quyền
sao chép tác phẩm là một trong những quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác giả, do
chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình
thức điện tử”.
Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, kể cả quyền SHTT20. Theo đó quyền sao chép tác phẩm là một trong những
quyền tài sản quan trọng nhất trong quyền tác giả, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ
trong suốt thời hạn bảo hộ. Đây là đặc quyền kinh tế cho phép tác giả hoặc chủ sở hữu
quyền tác giả thu lại lợi ích vật chất từ việc khai thác các giá trị kinh tế của tác phẩm.
Nói cách khác, nhờ vào quyền này mà tác giả có thể được trả thù lao từ việc sáng tạo ra
tác phẩm  sản phẩm tư duy của chính mình. Để khai thác giá trị của tác phẩm và phổ
biến trong cơng chúng thì tác phẩm đó phải được sao chép bởi chính tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả hoặc người được chủ sở hữu trao quyền. Mỗi hành vi sao chép đều mang
lại lợi ích vật chất nhất định và chủ sở hữu quyền tác giả sẽ được hưởng lợi từ hành vi
sao chép đó, thể hiện dưới dạng tiền thù lao, nhuận bút hay các lợi ích vật chất khác. Tài
sản trí tuệ là tài sản vơ hình, chính vì vậy mà nó có khả năng cho phép nhiều người cùng
khai thác nhưng không mất đi giá trị của loại tài sản này. Chính vì lẽ đó mà việc sao chép
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, NXB Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh,
trang 41.
20
Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.
19

10


tác phẩm được thực hiện một cách dễ dàng dưới sự phát triển của khoa học và công nghệ,
là quyền bị cá nhân, tổ chức xâm phạm nhiều nhất.
Quyền sao chép tác phẩm là “độc quyền” thuộc quyền tác giả. “Độc quyền” ở đây

chính là quyền năng cho phép hoặc không cho phép người khác làm bản sao tác phẩm
dưới bất kỳ hình thức nào, bằng việc sử dụng bất kỳ phương pháp hoặc phương tiện nào
đã biết hoặc được phát triển sau này, trừ một số trường hợp đặc biệt gọi là giới hạn hoặc
ngoại lệ21. Theo đó quyền sao chép phẩm là quyền tài sản độc quyền, chỉ có chủ sở hữu
quyền tác giả mới có quyền tạo ra bản sao tác phẩm của mình. Quyền sao chép tác phẩm
mang lại lợi nhuận rất lớn cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Vì là độc quyền nên tác
giả chủ sở hữu hoàn toàn được trao quyền này cho người khác thực hiện và hưởng lợi
ích vật chất từ việc trao quyền này. Tuy nhiên, độc quyền trong SHTT không phải là độc
quyền tuyệt đối mà là độc quyền tương đối. Khả năng độc quyền này bị giới hạn trong
một số trường hợp nhất định theo nguyên tắc đảm cân bằng lợi ích giữa tác giả với công
chúng và khi được chủ sở hữu quyền tác giả trao quyền.
Quyền sao chép tác phẩm mang một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền sao chép tác phẩm thực chất là hành vi làm bản sao tác phẩm ở
bất kỳ hình thức vật chất nào, khơng phụ thuộc vào việc hành vi đó được thực hiện ở
đâu, khi nào; có được phát hành ra công chúng hay không, số lượng bao nhiêu, có thể là
hành vi tạo ra chỉ một bản sao tác phẩm.
Thứ hai, pháp luật không quy định cụ thể các phương thức sao chép tác phẩm mà
chỉ quy định sao chép là việc tạo ra bản sao trên những hình thức vật chất nhất định.
Hiện nay tùy loại tác phẩm mà phương thức sao chép phổ biến là (1) sao chép qua các
thiết bị như máy quét, máy photocopy; (2) sao chép bản ghi âm, ghi hình; (3) sao chép
và phân phối tác phẩm dưới dạng kỹ thuật số trên mạng Internet22.
Thứ ba, sao chép tác phẩm không chỉ đơn thuần là việc tái tạo lại từ tác phẩm ở
dạng hình thức mà nó được tạo ra đầu tiên mà có thể được tái tạo trên những dạng hình

truy cập lần cuối ngày 30/5/2017.
Nguyễn Lâm Giang (2011), Quyền sao chép tác phẩm theo công ước Berne và theo pháp luật Việt Nam, Khóa
luận cử nhân luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, trang 10.
21
22


11


thức khác. Ví dụ: các tác phẩm viết trên sách, thì việc tạo ra các file PDF lưu trên máy
tính cũng được coi là hành vi sao chép tác phẩm.
Để sáng tạo ra tác phẩm, tác giả phải sử dụng trí tuệ của mình, trải qua một thời
gian với những trải nghiệm, vất vả nghiên cứu tìm tịi mới có thể tạo ra những đứa con
tinh thần. Những tác phẩm đã tạo ra những giá trị tinh thần trong đời sống văn hóa, nhưng
nó chỉ thật sự có giá trị và được nhiều người biết đến khi tác phẩm được khai thác một
cách hợp lý. Việc sao chép tác phẩm để phổ biến ra công chúng là cách để tác phẩm đến
với bạn đọc, đồng thời bù đắp công sức, “chất xám” đã bỏ ra, và có chi phí cho việc tái
sản xuất. Chính vì vậy mà quyền sao chép tác phẩm là một quyền tài sản quan trọng nhất
trong quyền tác giả và phải được pháp luật bảo vệ.
1.1.3. Giới hạn của quyền sao chép tác phẩm
Pháp luật ghi nhận sự đóng góp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bằng cách
quy định cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hưởng những đặc quyền đối với tác phẩm
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, độc quyền khai thác, sử dụng cũng như việc độc quyền
sao chép tác phẩm. Tuy nhiên, sự bảo hộ này không phải là tuyệt đối và mãi mãi.
Giới hạn quyền tác giả là những ranh giới quyền của tác giả được pháp luật xác
định. Được hiểu theo hai khía cạnh: 1) Đối với tác giả, đó là những ranh giới quyền tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đã được cơng bố, phổ biến của mình; 2)
Đối với chủ thể khác lại là phạm vi mà pháp luật xác định cho họ là cá nhân, tổ chức
được phép tự do sử dụng tác phẩm đã được công bố, phổ biến với những điều kiện nhất
định23.
Về nguyên tắc pháp luật quy định cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những độc
quyền đối với tác phẩm của mình nhưng để cung cấp quyền tiếp cận tác phẩm một cách
hợp lý cho xã hội, các độc quyền của tác giả, chủ sở hữu được giới hạn trong hai cách
chính: một là, chỉ được bảo hộ trong thời gian nhất định, hai là quyền độc quyền chịu
giới hạn bởi những trường hợp ngoại lệ và hạn chế nhất định. Đây cũng là một trong
những nguyên lý “xương sống” của pháp luật bản quyền, đã được đề cập trong hầu hết


23

Bộ tư pháp Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa, NXB Tư pháp, trang 310.

12


×