Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.39 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỠ TỪ THANH UN

TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 T̉I
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 T̉I
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Anh Tuấn
Học viên: Đỗ Từ Thanh Un
Lớp: Cao học Luật, khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn "Tội mua bán người dưới 16 t̉i theo Luật
hình sự Việt Nam" đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đỗ Từ Thanh Uyên


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA

Bộ Cơng an

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BTP

Bộ Tư pháp

CA


Cơng an

CP

Chính phủ

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

KSND

Kiểm sát nhân dân

Luật PCMBN

Luật Phòng, chống mua bán người số
66/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm 2011



Nghị định

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

NXB

Nhà xuất bản


TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

TTLT

Thơng tư liên tịch

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ......................... 9
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi...... 9
1.1.1. Khái niệm của tội mua bán người dưới 16 tuổi. ...................................... 9
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi ................... 12
1.2. Phân biệt tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác
trong Luật hình sự Việt Nam ........................................................................... 31
1.2.1. Phân biệt tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 BLHS) và tội
cưỡng bức lao động (Điều 297 BLHS) ............................................................ 31
1.2.2. Phân biệt tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 BLHS) và tội mua
bán người (Điều 150 BLHS) ........................................................................... 32
1.3. Khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của tội mua bán người dưới
16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam ....................................................... 32
1.3.1. Pháp luật hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi từ năm 1945 đến
trước năm 1985 ............................................................................................... 32
1.3.2. Pháp luật hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi từ năm 1985 đến
năm 1999 ........................................................................................................ 33
1.3.3. Pháp luật hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi từ năm 1999 đến
năm 2015 ........................................................................................................ 35
1.3.4. Pháp luật hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi từ năm 2015 đến nay37
1.4. Các quy định về tội mua bán trẻ em trong trong Nghị định thư về phòng
ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em
năm 2000 và luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới .......................... 38
1.4.1. Tội mua bán người dưới 16 tuổi trong Nghị định thư về phòng ngừa,
trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm
2000 ................................................................................................................ 38



1.4.2. Hành vi buôn bán người theo Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp,
trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 ........... 40
1.4.3. Tội mua bán người dưới 16 tuổi trong Bộ luật hình sự một số nước trên
thế giới ............................................................................................................ 47
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 52
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 T̉I THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ............................................................................................................ 53
2.1. Khái quát tình hình xử lý hình sự tội mua bán người dưới 16 tuổi trong
những năm gần đây........................................................................................... 53
2.2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán người dưới 16 tuổi ........................ 54
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi ... 61
2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán
người dưới 16 tuổi ............................................................................................. 72
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 74
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ........... 75
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán người dưới
16 tuổi ................................................................................................................. 75
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội mua
bán người dưới 16 tuổi ...................................................................................... 77
3.2.1. Các giải pháp pháp luật ........................................................................ 77
3.2.2. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua
bán người dưới 16 tuổi ................................................................................... 80
Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mua bán người là loại tội phạm nguy hiểm của xã hội bởi nó được thực hiện
dưới nhiều phương thức khác nhau, khơng ngừng diễn biến phức tạp hàng ngày
hàng giờ, cản trở sự phát triển bền vững của Nhà nước. Không chỉ riêng Việt Nam
mà đối với các nước trên thế giới, tội phạm mua bán người luôn là mối đe dọa đối
với sự phát triển của kinh tế - xã hội làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chính
quyền vào pháp luật.
Trong nhóm tội phạm mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi là một
trong những tội phạm xảy ra thường xuyên với mức độ nguy hiểm cho xã hội rất
cao do xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người
bị hại và đối tượng của tội phạm là người yếu thế, là chủ thể được pháp luật trong
nước và quốc tế đặc biệt bảo vệ. Mặc dù, những năm qua, các cơ quan có thẩm
quyền nỗ lực nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ban hành các quy định chế tài
nghiêm khắc đối với tội phạm mua bán người nhưng các hành vi, biểu hiện của tội
phạm mua bán người dưới 16 tuổi tiếp tục diễn biến phức tạp với quy mơ lớn, tính
chất đa quốc gia và mức độ ngày càng nguy hiểm.
Đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, Bộ luật hình sự
năm 2015 đã tiếp tục kế thừa các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán trẻ em và bổ sung, hoàn thiện thành các quy
định về tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi nhưng một số quy định của pháp luật
vẫn nhưng chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, thực tế việc xử lý hình
sự những vụ án mua bán người nói chung và mua bán người dưới 16 tuổi nói riêng
đã nảy sinh nhiều vướng mắc và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá
trình hoàn thiện pháp luật cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội
phạm mua bán người dưới 16 tuổi.
Vì lý do đó, tác giả đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội mua bán
người dưới 16 tuổi theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình
nhằm nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội danh

này, từ đó tìm ra những phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Luật hình sự Việt Nam, qua đó góp phần
đấu tranh phòng chống tội phạm này ở nước ta trong thời gian tới.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu về tội phạm mua bán
người dưới 16 tuổi theo luật hình sự Việt Nam. Tội phạm này được nghiên cứu
trong một số tác phẩm của một số nhà khoa học, nghiên cứu dưới dạng các bài viết,
bài báo, chuyên đề, luận văn… có đề cập đến tội mua bán trẻ em nay là tội mua bán
người dưới 16 tuổi theo Bộ luật hình sự năm 2015. Các tài liệu liên quan đến đề tài
có thể kể đến như:
- Các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo luật như: (1) Võ Khánh
Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội; (2) Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; (3) Trường
Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các
tội phạm, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; (4) Lê Cảm (Chủ biên)
(2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội; ... Các giáo trình này cung
cung những kiến thức lý luận cơ bản về dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trẻ em (mua
bán người dưới 16 tuổi) làm cơ sở tham khảo cho luận văn nghiên cứu về lý luận và
quy định của pháp luật hình sự về mua bán người dưới 16 tuổi.
- Sách chuyên khảo có liên quan đến đề tài như:
+ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam: Thực trạng
và giải pháp phòng ngừa”, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Sách đã đi sâu vào tìm
hiểu vấn đề thực tiễn đấu tranh tội phạm mua bán người ở Việt Nam. Tuy nhiên, nội
dung tác phẩm chỉ tập trung vào vấn đề thực trạng của tội phạm mua bán người mà
chưa hệ thống hóa đầy đủ các vấn đề lý luận để bổ sung vào công tác hoàn thiện

pháp luật.
+ Trần Minh Hưởng (2008), Cơng tác phịng, chống tội phạm mua bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam (Hệ thống các văn bản pháp luật quốc tế - quốc gia về
phịng, chống bn bán và bảo vệ phụ nữ, trẻ em hiện hành), Sách chuyên khảo,
NXB Lao Động, Hà Nội : 2008.
- Các luận văn Thạc sỹ có liên quan đề đề tài có thể kể đến như: (1) Nguyễn
Mai Trâm (2010), “Đấu tranh phòng chống tội mua bán người trên địa bàn tỉnh An
Giang và Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật văn thạc sĩ Luật học – Đại học Luật


3
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh; (2) Lê Đức Phương (2010), Tội
buôn bán người theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh; (3) Bùi Thanh Phương (2016), “Tội mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Hà Giang)”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội; (4) Nguyễn Thị Nga (2018), Tội mua bán người theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã
hội, Hà Nội ...
Các luận văn nêu trên nghiên cứu tội mua bán người dưới 16 tuổi dưới các
góc độ tội phạm học và luật hình sự, và ở các địa phương khác nhau là tài liệu quan
trọng cho tác giả tham khảo xây dựng phần lý luận cũng như cách thức thực hiện
nghiên cứu thực tiễn về tội mua bán người dưới 16 tuổi.
- Các bài viết trên các tạp chí liên quan đến đề tài có thể kể đến như:
(1) Mai Bộ (2015), “Sửa đổi, bổ sung tội mua bán người và tội mua bán trẻ
em theo hướng nội luật hóa Cơng ước quốc tế về tội mua bán người”, Tòa án nhân
dân (06/2015), tr. 5-11. Bài viết đã đề cập đầy đủ các quy định, bất cập trong việc
áp dụng các quy định về tội mua bán trẻ em trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và đưa
ra kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa
đổi, bổ sung năm 2009 đã được thay thế bởi Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa

đổi, bổ sung năm 2017.
(2) Phạm Minh Tuyên (2018), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả
phòng, chống tội mua bán người”, Tạp chí toà án nhân dân, số 03/2018, tr. 7-48.
Bài viết chủ yếu đề cập nội dung liên quan đến tội phạm mua bán người nói chung
nhiều hơn trình bày chi tiết về tội mua bán người dưới 16 tuổi.
(3) Phạm Xuân Sơn (2018), “Những điểm mới của BLHS 2015 về nhóm tội
mua bán người và một số vấn đề cần lưu ý”, Tạp chí toà án nhân dân, số 07/2018,
tr. 18 – 23. Bài viết đề cập đến những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 so
với Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 về tội phạm mua
bán người nói chung.
Và một số bài viết khác như: (4) Dương Tuyết Miên (2011), “Giới thiệu một
số nội dung cơ bản của luật phòng, chống mua bán người”, Tòa án nhân dân, Số 21,
tr. 14-22; (5) Hồng Thế Liên (2011), “Luật Phịng, chống mua bán người - Một


4
cơng cụ pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống mua bán
người và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, Nhà nước và pháp luật, Số 5(277),
tr.45-52,67; (6) Hà Việt Dũng, Hồ Thế Hòe (2012), “Giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh với tội phạm mua bán người trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,
Dân chủ & pháp luật, Số 11(248), tr.21-28; (7) Nguyễn Văn Hương (2012), “Phòng
ngừa tội mua bán người, tội mua bán trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Luật học, Số
1(140), tr.13-19; (8) Nguyễn Văn Hương (2012), “Phòng ngừa tội mua bán người,
tội mua bán trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Luật học, Số 1(140), tr.13-19; (9)
Nguyễn Quang Lộc (2013), “Phân tích một số bất cập trong các quy định của Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và luật phịng chống mua bán người trong đấu
tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em trong tình hình hiện nay”, Tịa
án nhân dân, Số 16, tr.16-25; (10) Nguyễn Thị Thu Trang (2013), Tìm hiểu luật
phịng chống mua bán người của Vương quốc Thái Lan Kiểm sát, Số 14, tr.53-56;
(11) Nguyễn Mai Trâm (2014), “Những bất cập trong điều tra, truy tố, xét xử tội

mua bán người theo Điều 119 Bộ luật Hình sự”, Tịa án nhân dân, Số 23, tr.1519;48; (12) Xuân Lục (2014), “Cần sửa đổi, bổ sung điều 119 bộ luật hình sự về tội
"mua bán người"”, Kiểm sát, Số 16, tr.42-45; (13) Mai Bộ (2015), “Sửa đổi, bổ
sung tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo hướng nội luật hóa cơng ước
quốc tế về tội mua bán người”, Tịa án nhân dân, Số 6, tr. 05 – 11; (14) Nguyễn
Mai Trâm (2015), “Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán người một số bất cập và kiến nghị hồn thiện”, Tịa án nhân dân, Số 2, tr.14-17; (15)
Nguyễn Thị Mai Trâm (2015), “Trao đổi một số bất cập trong cơng tác quản lý nhà
nước về phịng chống tội phạm mua bán người”, Nghề luật, Số 3, tr.60-63; (16)
Trần Thị Ngọc Kim (2015), “Một số ý kiến về cơng ước chống tội phạm có tổ chức
xun Quốc gia đối với tội mua bán người trong bộ luật Hình sự Việt Nam”, Kiểm
sát, Số 22, tr. 45-48;64; (17) Vũ Trọng Hách (2015), “Giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước trong phòng, chống mua bán người ở Việt Nam”, Quản lý nhà
nước, Số 239, tr. 66 – 69; (18) Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thị Thu Hương (2016),
“Triển khai thực hiện có hiệu quả cơng ước Asean về phòng, chống mua bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và Kế hoạch hành động Asean về phòng, chống mua
bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em”, Kiểm sát, Số 15, tr. 6 – 12; (19) Nguyễn
Đức Hạnh (2017), “So sánh tội phạm mua bán người theo quy định của pháp luật
quốc tế với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015”, Khoa học Kiểm sát, Số 01
(15), tr. 11 – 17; (20) Nguyễn Văn Hương (2017), “Đánh giá tính thống nhất giữa


5
Bộ lt Hình sự năm 2015 với Luật Phịng, chống mua bán người và một số đề
xuất”, Nhà nước và Pháp luật, Số 3 (347), tr. 23 - 28; 36; (21) Đỗ Thị Lý Quỳnh
(2020), “Một số ý kiến về tội mua bán người quy định tại Điều 150 Bộ luật Hình sự
năm 2015”, Tịa án nhân dân, Số 4, tr. 38-42 ....
Các bài viết nêu trên đề cập đến Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Luật
hình sự Việt Nam ở các khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo cho tác giả khi
nghiên cứu về từng vấn đề trong đề tài luận văn.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây của các tác giả hoặc mới chỉ dừng lại
dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục

trong các giáo trình, sách tham khảo hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học,
khoa học thanh tra ... mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng
hình sự; hoặc đã nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập nhật
những vấn đề mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật hình sự,
đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc
hơn đối với loại tội phạm này, bổ sung các thông tin mới về lý luận và thực tiễn, nhất
là trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 1999 đã được thay thế bởi Bộ luật Hình sự mới
vào năm 2015 nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những tồn tại trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về lý luận,
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về
tội mua bán người dưới 16 tuổi, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu như sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về tội mua bán người dưới 16 tuổi;
- Phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người
dưới 16 tuổi;
- Phân tích các Cơng ước quốc tế về tội phạm mua bán người và pháp luật
hình sự một số nước về mua bán người dưới 16 tuổi.


6
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tội mua bán người dưới 16 tuổi,
chỉ ra một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội mua bán người dưới
16 tuổi.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội mua
bán người dưới 16 tuổi .

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những lý luận, quy định của pháp luật hình sự
và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo
luật hình sự Việt Nam hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp
luật về tội mua bán người dưới 16 tuổi trên phạm vi cả nước Việt nam.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội mua
bán người dưới 16 tuổi trong khoảng thời gian từ năm 2015-2020.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm giải
quyết các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, đó là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích những vấn đề
lý luận chung về tội mua bán người dưới 16 tuổi, bao gồm: xây dựng các khái niệm,
ý nghĩa của tội mua bán người dưới 16 tuổi, đánh giá những điểm hạn chế trong
việc định tội danh và hạn chế trong quyết định hình phạt về tội mua bán người dưới
16 tuổi, ...
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để phân biệt tội mua bán người dưới 16
tuổi với một số tội phạm khác, so sánh quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống mua bán trẻ em và pháp luật một số nước về tội mua bán người dưới 16 tuổi
với quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người dưới 16 tuổi.


7
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê và tổng hợp tình hình
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người dưới

16 tuổi.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng để bình luận các bản án về tội mua
bán người dưới 16 tuổi.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu nghiên cứu quy định về
người dưới 16 tuổi trong Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, luận văn có những đóng
góp mới như sau:
Đóng góp về lý luận và pháp lý
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội người dưới 16
tuổi như khái niệm và ý nghĩa của tội người dưới 16 tuổi, phân biệt tội người dưới
16 tuổi với một số tội phạm khác. Phân tích một số quy định của Cơng ước Liên
hợp quốc về mua bán trẻ em, và pháp luật một số nước về tội người dưới 16 tuổi.
Nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ những quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 về tội mua bán người dưới 16 tuổi bao gồm những nội dung như: các
dấu hiệu định tội, các dấu hiệu định khung, hình phạt đối với tội mua bán người
dưới 16 tuổi.
Đóng góp về thực tiễn
Chỉ ra những điểm thiếu sót, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định
của Bộ luậthình sự năm 2015 về tội mua bán người dưới 16 tuổi, bao gồm có hạn
chế trong việc định tội danh và hạn chế trong quyết định hình phạt.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đã đưa ra những kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán
người dưới 16 tuổi cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này trong
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo luật. Luận văn
cũng là tài liệu tham khảo bổ ích đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự và cán bộ
làm công tác thực tiễn.



8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tội
mua bán người dưới 16 tuổi
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán
người dưới 16 tuổi theo luật hình sự Việt Nam
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về
tội mua bán người dưới 16 tuổi theo luật hình sự Việt Nam


9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi
1.1.1. Khái niệm của tội mua bán người dưới 16 tuổi.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và
pháp luật, sự bình đẳng giữa người với người, các quyền cơ bản như: Quyền được
sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền mưu cầu hạnh phúc được đảm
bảo bằng các nguyên tắc của pháp luật quốc tế cũng như hiến pháp và pháp luật của
các quốc gia. Các quốc gia đã pháp điển hóa và xác định hành vi mua bán người là
vi phạm pháp luật, tuy nhiên tội phạm mua bán người vẫn tồn tại trên thực tế như
một vấn đề mang tính cấp bách toàn cầu, vượt xa ra khỏi biên giới của từng quốc
gia, đặc biệt là hành vi mua bán đối với đối tượng yếu thế trong xã hội như trẻ em.
Khi tìm hiểu về khái niệm tội mua bán người dưới 16 tuổi, trước hết ta phải
hiểu về các thuật ngữ “mua bán” và “mua bán người dưới 16 tuổi”. Thuật ngữ “mua
bán” theo nghĩa thông thường được hiểu là một hoạt động thương mại diễn ra, hoạt
động trao đổi giữa hai bên mua và bán một giá trị hàng hố nào đó thơng qua một

loại phương tiện đặc biệt “hàng hố của mọi hàng hố” đó là đồng tiền hay các lợi
ích vật chất khác. Bên mua muốn có được vật hoặc quyền sở hữu của bên bán thì
phải trả cho bên bán một khoản tiền hay giá trị vật chất tương đương với giá trị của
vật hay quyền sở hữu vật đó theo sự thoả thuận giữa hai bên.
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội, định
nghĩa: “Mua bán trẻ em là hành vi mua bán, trao đổi trẻ em như hàng hóa”1.
Về góc độ văn bản quy phạm pháp luật, thuật ngữ “Mua bán người dưới 16
tuổi” được khái quát tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi,
bổ sung năm 2017 là một trong các hành vi sau:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng
bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác;
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội.


10
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi
quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
Ngày 11 tháng 01 năm 2019, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội
mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự
(sau đây gọi là Nghị quyết số 02), tại Khoản 2 Điều 3 định nghĩa: “2. Mua bán
người dưới 16 tuổi là thực hiện một trong các hành vi sau đây:
a) Chuyển giao người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;

c) Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động,
lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác;
d) Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy
bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
đ) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi
chuyển giao người theo hướng dẫn tại điểm a và điểm c khoản này” 2.
Về cơ bản quy định của Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán là sự thể
hiện chi tiết nội dung của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 về
khái niệm mua bán người dưới 16 tuổi.
Khác với pháp luật Việt Nam, tại điểm a Điều 3 của Nghị định thư về việc ngăn
ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ
sung Cơng ước về chống tội phạm có tổ chức xun quốc gia của Liên hợp quốc đã
được nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn vào ngày 08 tháng 6 năm
2012 (sau đây gọi tắt là Nghị định thư về buôn bán người) lại sử dụng thuật ngữ “Bn
bán người”, theo đó bn bán người có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển
giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe doạ
sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng
quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán
người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự
2


11
để đạt được sự đồng ý của một người đang kiểm sốt những người khác. Hành vi bóc
lột sẽ bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức
bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nơ lệ hay những
hình thức tương tự nơ lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể”.
Nội dung của Nghị định thư về buôn bán người còn định nghĩa riêng hành vi

bn bán người dưới góc độ của đối tượng cụ thể là trẻ em được hiểu là bất kỳ
người nào dưới 18 tuổi: “Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận
một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người”, kể cả trong trường
hợp người thực hiện hành vi này không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực hay
bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc
vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được
sự đồng ý của một người đang kiểm soát những người khác. Đây là một khái niệm
mang tính chất mở rộng, xuất phát từ lý luận về nhận định khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi chưa phát triển hoàn thiện của đối tượng của tội phạm buôn bán
người là trẻ em, Nghị định đã xác định chỉ cần có hành vi mua bán, vận chuyển,
chuyển giao hoặc chứa chấp trẻ em nhằm mục đích bóc lột thì bị coi là bn bán trẻ
em, khơng cần xét đến phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi đó.
Bên cạnh Nghị định thư về bn bán người của Liên hợp quốc, ngày 21
tháng 11 năm 2015 Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt
là phụ nữ và trẻ em (sau đây gọi tắt là Công ước ASEAN về buôn bán người) được
ký tại Kua-la lăm-pua, Malaysia và có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 08
tháng 3 năm 2017. Công ước ASEAN cũng sử dụng thuật ngữ buôn bán người và
quy định như sau:
"Buôn bán người" là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp
hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa đảo, lạm dụng
quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hoặc lợi ích
để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm sốt người khác. Hành vi bóc lột sẽ
bao gồm, ở mức tối thiểu, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình
thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nơ lệ hay
những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể.
Tương tự như Nghị định thư về buôn bán người, Công ước ASEAN về buôn
bán người cũng lưu ý rằng việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp



12
hoặc tiếp nhận trẻ em (người dưới 18 tuổi) nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là "bn
bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện bằng bất kỳ cách thức nào.
Như vậy, ở mức độ quốc tế và khu vực Đông Nam Á, hành vi buôn bán người
dưới 16 tuổi được hiểu là bao gồm: tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp
hoặc tiếp nhận có thể được thực hiện bởi bất kỳ phương thức nào nhằm mục đích bóc lột.
Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam, một số tác giả cũng đưa ra các
quan điểm khác nhau về mua bán người (bao gồm cả người dưới 16 tuổi) như:
"Mua bán người là những hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như
vàng, ngoại tệ... để trao đổi mua bán người như một thứ hàng hóa"3 hay "Mua bán
người, được hiểu là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác
để trao đổi lấy người 0hoặc ngược lại để thu lợi bất chính".
Từ những khái niệm trên, tác giả đưa ra khái niệm về tội mua bán người dưới
16 tuổi như sau: “Tội mua bán người dưới 16 tuổi là hành vi chuyển giao, tiếp
nhận, tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận
cơ thể hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 BLHS) là một tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS, do đó, tội mua bán người dưới 16 tuổi vừa có dấu hiệu
pháp lý chung của tội phạm, vừa có dấu hiệu pháp lý riêng để phân biệt với các tội
phạm khác trong BLHS.
1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý chung của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Tội mua bán người dưới 16 tuổi là tội phạm được quy định trong BLHS nên
phải thoả mãn đầy đủ bốn dấu hiệu chung của tội phạm, đó là: tính nguy hiểm cho
xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu hình phạt.
- Tính nguy hiểm cho xã hội: “…là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất quyết
định các dấu hiệu khác của tội phạm, là tiêu chí để phân biệt tội phạm với các vi
phạm pháp luật khác” 4. Đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất để xác định một
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Quyển 1, Nxb

Công an nhân dân, tr. 134.
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung (tái
bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức, tr. 65.
3


13
hành vi có được xem là tội phạm hay khơng cũng như quyết định những dấu hiệu
khác của tội phạm. Với đặc điểm là thuộc tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của nhà làm luật nhưng được nhà làm luật đánh giá và nhận thức được
tính nguy hiểm trên thực tế của hành vi cho xã hội và quy định vào BLHS. Xét về
mặt khách quan, hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra thiệt hại
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành
vi mua bán người dưới 16 tuổi đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm - đây là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, mua bán
người dưới 16 tuổi là một hành vi nguy hiểm cho xã hội.
- Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của
mình và hậu quả mà hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý, thể
hiện sự phủ định các yêu cầu của xã hội5. Tính có lỗi được thể hiện ở việc người
phạm tội thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, trong khi với các yêu cầu, đòi
hỏi của xã hội, người đó có đủ điều kiện và khả năng để lựa chọn xử sự theo một
cách khác. Người phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội và trái với quy định của Luật Hình sự nhưng vẫn
mong muốn thực hiện nên có lỗi cố ý.
- Tính trái pháp luật hình sự được thể hiện ở việc người phạm tội thực hiện
một hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự. Tính trái
pháp luật hình sự là thuộc tính cơ sở của trách nhiệm hình sự vì “Chỉ người nào
phạm một tội đã được BLHS quy định là tội phạm thì mới phải chịu hình phạt” 6.
Tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định thành một tội danh cụ thể tại Điều

151 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên người
thực hiện hành vi này thỏa mãn các dấu hiệu luật định là trái pháp luật hình sự và
phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Tính chịu hình phạt: hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong BLHS. Chỉ có hành vi phạm tội mới chịu hình
phạt, khơng có tội phạm thì khơng có hình phạt7. Tội mua bán người dưới 16 tuổi là
một tội phạm được quy định tại Điều 151 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (4), tr. 65.
Khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, tr. 50.
5
6


14
năm 2017) nên khi một người phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi thì có thể phải
chịu hình phạt theo mức hình phạt được quy định trong BLHS. Hình phạt đối với
hành vi mua bán người dưới 16 tuổi chính là hình thức thể hiện bản chất nguy hiểm
của tội mua bán người dưới 16 tuổi, thể hiện tính cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc
nhất nhằm răn đe và phòng ngừa đối với loại hành vi nguy hiểm đáng kể này.
1.1.2.2. Dấu hiệu pháp lý riêng của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Ngoài các dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì tội mua bán người dưới
16 tuổi còn có một số dấu hiệu pháp lý riêng để phân biệt với các tội phạm khác
trong BLHS như: dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt, hình phạt.
Theo quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định tội mua bán người dưới 16 tuổi như sau:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07

năm đến 12 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng
bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi
quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội;
c) Đối với từ 02 người đến 05 người;
d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng;
đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Vì động cơ đê hèn;


15
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
e) Đối với 06 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.”.
Dựa vào quy định trên, chúng ta thấy tội mua bán người dưới 16 tuổi có các
dấu hiệu pháp lý như sau:
a. Các dấu hiệu định tội
♦ Khách thể của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Về mặt khoa học pháp lý hình sự, khách thể của tội phạm có thể được hiểu
“là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”8 hay “quan hệ
xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm,
nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ thực tế gây nên) thiệt hại
đáng kể nhất định”9.
Khi đánh giá về khách thể của tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi phải
hiểu việc đánh giá được thực hiện dưới góc độ phân tích khách thể trực tiếp, có tác
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (4), tr. 108.
Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung), Nxb Đại học luật Quốc gia Hà Nội, tr. 349.
8
9


16
giả cho rằng khách thể của tội phạm này là “nhân phẩm và sự phát triển bình thường
của trẻ em”10 và lại có quan điểm nhận định tội phạm này “xâm hại vào quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, xâm
hại đến các quyền được chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em được Hiến pháp và

pháp luật quy định”11.
Dưới góc độ các cơng trình nghiên cứu, có tác giả cho rằng tội mua bán
người dưới 16 tuổi xâm phạm đến “quyền tự do thân thể, danh dự, nhân phẩm của
con người được pháp luật bảo vệ”12. Có tác giả lại đưa ra quan điểm khác “trẻ em bị
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt bị xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự của trẻ em; quyền của các em được nuôi dưỡng, quản lý,
chăm sóc, giáo dục bởi gia đình (cha mẹ, người thân, người giám hộ, đơn vị nuôi
dưỡng...), nhà trường, các cơ quan chức năng cũng như toàn xã hội”13.
Xét về bản chất của tội mua bán người dưới 16 tuổi, những người dưới 16
tuổi này bị người phạm tội coi như hàng hoá để mua đi bán lại, để đạt được mục
đích cá nhân của mình hoặc của người khác, để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất
hoặc bản thân họ bị người phạm tội sử dụng vào các mục đích vơ nhân đạo. Như
vậy tội phạm này xâm hại trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm (trường hợp người dưới
16 tuổi bị mua bán để bóc lột tình dục hoặc để đem lại lợi ích về vật chất, tiền cho
người phạm tội). Trong trường hợp này đối tượng tác động của tội phạm này là
người dưới 16 tuổi khơng phân biệt giới tính.
Tóm lại, qua phân tích các quan điểm khoa học khác nhau và quy định của
Bộ luật hình sự năm 2015 có thể kết luận rằng khách thể của tội mua bán người
dưới 16 tuổi đó chính là danh dự, nhân phẩm của con người. Đối tượng tác động
của tội phạm này là người dưới 16 tuổi khơng phụ thuộc vào giới tính.
♦ Mặt khách quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng tội phạm ở
bên ngoài thực tế. Những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi
Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm
- Quyển 1), Nxb Hồng Đức,Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 125.
11
Học viện tư pháp (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội, tr 303.
12
Phạm Minh Tuyên (2017), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm mua bán
người”, Toà án nhân dân, tr.43.

13
Bùi Thanh Phương (2016), Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội, tr. 34.
10


17
nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội hoặc một số dấu hiệu khác như thời gian,
địa điểm, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội, v,v...
Việc nghiên cứu các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm không chỉ có
ý nghĩa đối với việc định tội, định khung hình phạt, xác định các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà còn góp phần xác định các
dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm (lỗi, động cơ, mục đích phạm tội).
Về mặt khách quan, tội phạm này bao gồm 03 nhóm hành vi:
Nhóm hành vi khách quan thứ nhất: Hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận
người dưới 16 tuổi để giao nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Xét về bản
chất, đây là hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại
tệ...để trao đổi mua bán người dưới 16 tuổi. Hành vi chuyển giao người dưới 16 tuổi
được hiểu là hành vi giao người dưới 16 tuổi lại cho người khác nhận. Còn tiếp
nhận người dưới 16 tuổi là hành vi đón nhận người dưới 16 tuổi từ người khác, nơi
khác chuyển giao cho.
Nhóm hành vi khách quan thứ hai: Hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người
dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục,cưỡng bức lao động,lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục
đích vơ nhân đạo khác. Trong đó bóc lột tình dục được hiểu là ép buộc người khác bán
dâm hoặc làm đối tượng để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm, hoặc
làm nơ lệ tình dục. Còn cưỡng bức lao động được hiểu là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ
lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ.
Nhóm hành vi khách quan thứ ba: Hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp

người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi thuộc nhóm thứ nhất hoặc thứ hai.
Tuyển mộ dưới góc độ ngơn ngữ được hiểu là “tuyển chọn người một cách
rộng rãi để tổ chức thành lực lượng làm gì”14. Theo đó, tuyển mộ người dưới 16
tuổi ở trong điều luật này có thể được xác định là những hành vi tuyển lựa, lựa chọn
người dưới 16 tuổi để thực hiện các hành vi như chuyển giao, tiếp nhận nhằm để
giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác (trừ trường hợp vì mục đích nhân
đạo) hay để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục
đích vơ nhân đạo khác.

14

Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 1068.


18
Ngoài ra điểm c khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 còn quy định
các hành vi như vận chuyển người dưới 16 tuổi (hành vi mang,chuyển người dưới
16 tuổi từ nơi này đến nơi khác thông qua các phương tiện khác nhau) và hành vi
chứa chấp người dưới 16 tuổi cũng để thực hiện các hành vi như chuyển giao, tiếp
nhận nhằm vào các mục đích như tác giả đã trình bày ở trên.
Như vậy, ngoại trừ hành vi thuộc nhóm 1 được kế thừa từ Bộ luật hình sự
năm 1999, các hành vi khách quan thuộc nhóm thứ hai và nhóm thứ ba là những
hành vi mà theo Nghị định thư về buôn bán người quy định là hành vi phạm tội và
mới được bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ
sung năm 2017), người phạm tội có thể thực hiện các nhóm hành vi khách quan đã
phân tích ở trên bằng bất kỳ phương thức, thủ đoạn nào có thể là dùng vũ lực, lừa
gạt, gian dối, mua chuộc hay hay bất kỳ phương thức, thủ đoạn khác.
Như vậy quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 đã mô tả rõ hơn các
hành vi khách quan cũng như các dấu hiệu định tội của tội mua bán người dưới 16

tuổi. Tuy nhiên, việc nhà làm luật ghi nhận nhóm hành vi thứ ba là tuyển mộ, vận
chuyển hoặc chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi chuyển giao hoặc
tiếp nhận người nhằm mục đích hưởng lợi ích vật chất hoặc mục đích khác đã tạo
nên sự khó khăn cho việc xác định nhóm hành vi này. Ví dụ một người, có thể
thơng qua bất kỳ phương thức nào, tuyển mộ người dưới 16 tuổi để lấy bộ phận cơ
thể mà không nhằm chuyển giao cho ai khác thì hành vi đó cấu thành tội mua bán
người dưới 16 tuổi (Điều 151) hay cấu thành tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ
phận cơ thể người (Điều 154)?
Hậu quả của tội mua bán người dưới 16 tuổi là việc nạn nhân bị đưa ra mua
bán, trao đổi như hàng hoá, danh dự, nhân phẩm của họ bị chà đạp. Họ có thể bị bóc
lột sức lao động, bị bóc lột tình dục,bị khổ sai, bị đánh đập và cũng có thể bị sử dụng
vào mục đích vơ nhân đạo khác. Từ quy định của Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015
có thể thấy rằng hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu định tội trong cấu thành
tội phạm cơ bản, khơng có ý nghĩa trong việc xác định tội danh, tuy nhiên hậu quả
trong trường hợp này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá về tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi được coi là hoàn
thành khi người phạm tội đã thực hiện được các hành vi khách quan đã được đề cập ở
trên, khi đó nhân phẩm của người dưới 16 tuổi đã bị xâm hại.


19
♦ Mặt chủ quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Hành vi phạm tội, dưới gốc độ khoa học luật hình sự, ln là sự thống nhất
của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách quan là sự phản ánh của tội
phạm ra bên ngoài thực tế, thì mặt chủ quan là những biểu hiện tâm lý, phản ánh
nhận thức, thái độ, tình cảm của người phạm tội khi thực hiện hành vi. Mặt chủ
quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Theo đó “mặt chủ quan của
tội phạm chỉ bao gồm lỗi, mục đích, động cơ, trong đó lỗi được phản ánh trong tất
cả các cấu thành tội phạm”15 hay “mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của
tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội”16.

Việc xác định được dấu hiệu mặt chủ quan có ý nghĩa trong việc xác định tội
danh, phân biệt giữa các tội phạm có dấu hiệu khác giống nhau. Ngoài ra các dấu hiệu
thuộc mặt chủ quan giúp xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội và người phạm tội, do đó trong từng trường hợp cụ thể việc xác định dấu hiệu mặt
chủ quan còn có ý nghĩa xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
Như vậy, mặt chủ quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi được xem xét ở
ba dấu hiệu: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
Về dấu hiệu lỗi, lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý. Đối với tội phạm này các tài liệu, giáo trình hay một số
cơng trình nghiên cứu khoa học đều cho rằng lỗi của người phạm tội mua bán người
dưới 16 tuổi là lỗi cố ý17, có nghĩa là người phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi
nhận thức hành vi mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó
và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để
mặc hậu quả xảy ra. Cũng có giáo trình,tài liệu và các cơng trình nghiên cứu cho
rằng lỗi của người phạm tội này là lỗi trực tiếp18.
Nghiên cứu quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015, chúng tơi cho
rằng lỗi trong tội mua bán người dưới 16 tuổi là lỗi cố ý trực tiếp bởi người phạm
Trường Đại học luật Hà Nội (2015), tlđd (18), tr. 134.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần Chung,
Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 152.
17
Trường đại học luật TP.HCM (2012), tlđd (22), tr. 126 và Phạm Minh Tuyên (2018), Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội mua bán người, Tạp chí tồ án nhân dân, số 03/2018, tr. 7-48.)
18
Xem Nguyễn Ngọc Anh (2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 206 và
Bùi Thanh Phương (2016), Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam (trên
cơ sở địa bàn tỉnh Hà Giang), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.40, 41.)
15
16



×