Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức hồ chí minh và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 162 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
  

TRỊNH THỊ TÂM

BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. LƯƠNG MINH CỪ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn là công trình do tơi độc lập nghiên cứu, dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lương Minh Cừ. Nội dung và kết quả
nghiên cứu là trung thực. Các tài liệu sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

TRỊNH THỊ TÂM




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 10
Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA SỰ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC VÀ QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ
CHÍ MINH ....................................................................................................... 10
1.1. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC VÀ QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ........................................................................................... 10

1.1.1. Hồn cảnh lịch sử xã hội thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, với việc
hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.......................................................... 10
1.2.2. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, với
việc hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .................................................. 19
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC VÀ
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH .......................................................................... 35

1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam là tiền đề trực tiếp góp phần hình
thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ............................................................... 35
1.2.2. Giá trị tư tưởng đạo đức trong lịch sử tư tưởng triết học phương Đông,
phương Tây là tiền đề góp phần hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .... 46

1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin và phẩm chất Hồ Chí Minh là tiền đề quan trọng
hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .......................................................... 58


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 73
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ..................................... 75
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN
THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ............... 75

2.2.1. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Trung
với nước, Hiếu với dân ...................................................................................... 75
2.2.2. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư .................................................................. 88
2.2.3. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức
thương yêu con người ..................................................................................... 101
2.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN
THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ......... 117

2.2.1. Ý nghĩa lý luận của mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh........................................................ 117
2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng vào giáo dục đạo đức
hiện nay ........................................................................................................... 122
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 144
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 150



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc,
chuẩn mực, định hướng được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều
chỉnh hành vi của con người trong quan hệ giữa con người với nhau. Đạo đức
có vai trò quan trọng trong xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần
giữ vững sự ổn định về chính trị và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất
nước. Do vậy, việc xây dựng đạo đức là nhu cầu khách quan của mọi xã hội.
Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác luôn coi trọng đạo đức và có bề dày
truyền thống đạo đức của mình. Do đặc thù của dân tộc Việt Nam là từ khi
dựng nước đến nay luôn phải thường xuyên chống chọi lại thiên tai và sự xâm
lược của nhiều kẻ thù hung hãn từ bên ngồi, trong hồn cảnh đó, để chiến
thắng kẻ thù, dân tộc Việt Nam đã phải phát huy tất cả những sức mạnh vốn có
của mình từ vật chất đến tinh thần. Phải chuyển hóa sức mạnh tinh thần thành
sức mạnh vật chất mà trong đó đạo đức giữ một vai trị quan trọng đã hình
thành nên truyền thống coi trọng đạo đức hết sức quý báu của dân tộc ta.
Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam - đã để lại cho
Đảng, cho nhân dân ta hệ thống di sản tư tưởng vô cùng to lớn, trong đó, tư
tưởng về đạo đức cũng như tấm gương đạo đức của Người giữ vai trò đặc biệt
quan trọng.
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
ln ln quan tâm vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, Người từng
nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn

thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [86; 289] và “Người cách mạng


2

phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [82; 251].
Đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc và gia đình của nhân loại và đạo đức Chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong đó, giá
trị văn hóa đạo đức của Chủ nghĩa Mác – Lênin có vai trị hết sức to lớn trong
hình thành tư tưởng đạo đức của Người. Điều này làm cho tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng đạo đức nói riêng, được nâng lên một tầm cao mới,
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ở góc độ tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại có ý nghĩa lý luận sâu sắc và cần thiết.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào,
nhưng bên cạnh đó là hiện tượng suy thối đạo đức đang trở nên nghiêm trọng.
Đó là sự suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, cùng với những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội, quay lưng lại với các giá trị truyền thống, sự chống phá của các thế lực
thù địch phản động với âm mưu “diễn biến hịa bình” đã ảnh hưởng đến việc tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước; ảnh hưởng đến đạo đức của công dân mà đặc biệt là thanh niên.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên và thực tiễn xã hội nước ta hiện nay, việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Trong những năm qua, việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh đã được triển khai sâu rộng trong cả nước, lôi cuốn được cán

bộ, đảng viên, thanh thiếu niên và đông đảo nhân dân tham gia. Cuộc vận động
đã trở thành sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo nên sự chuyển biến về nhận thức
tư tưởng, ý thức rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên cũng như


3

các tầng lớp nhân dân. Từ đó, tạo nên những chuyển biến trong hành động thực
tiễn ở nhiều ngành, nghề; nhiều cơ quan, đơn vị và ở nhiều địa phương. Tuy
nhiên, việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở các địa
phương, cơ quan, đơn vị, ban ngành còn chưa đồng đều; chưa thực sự thấm sâu
vào nhận thức, tư tưởng; chưa thực sự trở thành hành động tự giác, tích cực, cụ
thể của mỗi người. Cho nên, vấn đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, nhân dân nói
chung, thanh niên nói riêng nhằm góp phần xây dựng nền tảng tinh thần có giá
trị đặc sắc, để tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội là hết sức cần
thiết và quan trọng. Trong đó, cần chú trọng hơn nữa việc kế thừa và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị
đạo đức hiện đại phù hợp, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn ln là nền tảng tinh thần của xã
hội, là nguồn động lực và sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực,
vượt qua thử thách để phát triển. Đặc biệt việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức góp phần hình thành phong cách lối sống, giá trị đạo
đức cơ bản cho thanh niên - là những chủ nhân của đất nước. Như vậy, trong
giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nếu giữ gìn được các giá trị đạo đức
truyền thống, nếu tiếp thu được giá trị đạo đức mới, hiện đại, khơng chỉ có ý
nghĩa lý luận sâu sắc, mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Biện chứng giữa truyền thống

và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và ý nghĩa lịch sử của nó”
làm luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế hiện nay, thì việc nghiên cứu và


4

vận dụng những di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức để đào tạo ra
những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa có “tài’ vừa có “đức” - nguồn
lực quan trọng cho sự phát triển đất nước là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
và cấp thiết. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức được nhiều nhà khoa
học, nhà lý luận trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay đã có
một số lượng lớn các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này có giá trị thiết thực.
Chung quy lại, có thể khái qt các cơng trình nghiên cứu theo hai khuynh
hướng sau:
Hướng thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại nói chung bao gồm các cơng trình tiêu biểu như:
Tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(GS.Trần Văn Giàu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980) đã đưa ra và phân
tích một cách khoa học về các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ
đó, tác giả chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của các giá trị
truyền thống và đạo đức cách mạng.
Tác phẩm “Triết lý phát triển - C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin”
(PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000) đã khẳng
định đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng hành động, qua đó chứng
minh một trong những giải pháp có tính nguyên tắc của của Hồ Chí Minh - kết
hợp giữa truyền thống và hiện đại là mối liên hệ tất yếu để đảm bảo sự phát
triển đối với công cuộc phát triển đất nước.

Tác phẩm “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn - đồng chủ biên,
Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001) đã bàn sâu về các giá trị văn hóa truyền
thống vì mục tiêu phát triển; một số vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


5

Tác phẩm “Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu
hóa” (GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên - đồng
chủ biên, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002), các tác giả đã trình bày
những giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam và những vấn đề đặt ra
trước xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Tác phẩm “Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt
Nam hiện nay” (TS. Nguyễn Đức Tiến - chủ biên, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005) đã chỉ ra những giá trị tư tưởng truyền thống cần phải được giữ gìn
và phát huy trong quá trình xây dựng và phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa
cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
Đề tài Luận án Tiến sĩ Triết học “Biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” (TS.Trần Hồng Hảo, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005), đã trình bày
các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam, đồng thời làm sáng tỏ sự kết
hợp biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong nền văn hóa Việt Nam.
Hướng thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, bao gồm nhiều cơng trình như:
Tác phẩm “Hồ Chủ tịch - Tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại”
(cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1995). Trong cuốn sách
này, tác giả đã ôn lại phong cách sống, làm việc trong suốt sự nghiệp hoạt động

cách mạng của Hồ Chí Minh. Từ đó, nêu cao tinh thần học tập tư tưởng cách
mạng và đạo đức trong sáng để vươn lên, vững bước đi theo con đường cách
mạng mà Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã chọn.
Trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” (Cố
Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),
tác giả đã chỉ ra và làm sáng tỏ vấn đề giải phóng con người và xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh.


6

Trong cuốn “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” (GS.TS.Lê Hữu Nghĩa,
Nxb.Lao động, Hà Nội, 2000), đã gợi mở một số vấn đề về triết lý giáo dục đạo
đức cách mạng cho thế hệ con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các cơng trình: Học tập Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại (Hồ Công Huân, Bản tin khoa học, Cao đẳng Thương mại, số
11, 2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh và học tập, tiếp biến văn hóa nhân loại (Võ
Thị Kim Yến, Tạp chí Tuyên giáo, số 7, 2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng từ tác phẩm Đường kách mệnh đến Di chúc (Tùng Khánh,
Tạp chí Cộng sản, 16/10/2007), Đạo đức Hồ Chí Minh - một kiểu mẫu về sự
nhất quán giữa tư tưởng và hành động (GS.TS.Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Cộng
sản, số 5, 2005) và Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mới (Thanh Lê,
Nxb.Thanh niên, 2004)...Với những cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã
tìm hiểu sâu về đạo đức Hồ Chí Minh: điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề hình
thành, nội dung, nguyên tắc rèn luyện và vận dụng đạo đức Hồ Chí Minh vào
thực tiễn.
Ngồi các cơng trình trên, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn được
nhiều tác giả nghiên cứu, với nhiều đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ khác.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả có tham khảo các luận văn có liên

quan như: Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người (Trương Hoài Phương, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, thành phố Hồ Chí Minh, 2005), Biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
(Trần Thị Dung, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, thành phố Hồ Chí Minh, 2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn
Thị Lan, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, thành phố Hồ Chí Minh, 2011), Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và sự vận dụng vào quá trình


7

phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay (Trương Hoài Phương, Luận án
tiến sĩ triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, thành phố Hồ
Chí Minh, 2013); Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức
thanh niên Việt Nam hiện nay (Trần Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ triết học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2009), Giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay theo tư tưởng đaọ đức Hồ Chí Minh
(Nguyễn Thị Bích Thảo, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2013), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc
rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay (Nguyễn
Thị Kính, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội, 2013)... và một số luận văn, luận án khác.
Từ những lược khảo trên, cho thấy: Những cơng trình, tác phẩm nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về truyền thống và hiện đại trong quan
điểm về đạo đức có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Đây thực sự là những tài
liệu vơ cùng hữu ích và q báu để tác giả lựa chọn, tham khảo nhằm phục vụ
cho quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, việc tiếp cận

tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh dưới góc độ triết học về vấn đề “biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại” cho đến nay, chưa có cơng trình nào trình bày một
cách tồn diện và có hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa kết quả của các cơng
trình nghiên cứu đã được cơng bố trực tiếp liên quan đến đề tài, tác giả lựa chọn
vấn đề “Biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh và ý nghĩa lịch sử của nó”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là tập trung phân tích làm rõ mối quan hệ biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh;
từ đó rút ra ý nghĩa lịch sử của nó trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện được
mục đích trên, luận văn thực hiện nhiệm vụ chủ yếu sau đây:


8

Thứ nhất, làm rõ hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam, thế giới cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và tiền đề lý luận hình thành mối quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, làm rõ nội dung của mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống
và hiện đại trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, rút ra ý nghĩa lịch sử của mối quan hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đối với việc giáo
dục đạo đức hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận
văn đưa ra, tác giả đã dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu, trình bày
luận văn của mình. Đồng thời, tác giả cịn sử dụng hệ thống các phương pháp

như: tổng hợp và phân tích, diễn dịch và quy nạp, logic, lịch sử...; và cách tiếp
cận của tác giả trong luận văn là tiếp cận từ góc độ triết học.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan
trọng đối với sự nghiệp giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam, đặc biệt là
tầng lớp thanh niên, thế hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
Về lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ tính tất yếu của quan hệ biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nhu cầu nghiên cứu, giảng
dạy và học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.


9

Về thực tiễn: trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận về mối quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức, giúp
thực hiện việc giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam nói chung và thanh
niên nói riêng trên cơ sở kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành hai chương, bốn tiết, thực hiện trong 158 trang
luận văn.


10

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA SỰ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC VÀ QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN
THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC VÀ
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Hồn cảnh lịch sử xã hội thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX, với việc hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, mối quan hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức nói riêng, chính là kết quả và sản
phẩm của thực tiễn xã hội những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển
mạnh mẽ ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ đặc biệt là ở Anh và Pháp. Chủ nghĩa tư
bản chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, từ tự do cạnh tranh chuyển sang
độc quyền và đế quốc chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, lịch sử sản xuất của xã hội có những bước chuyển
biến quan trọng. Các ngành công nghiệp đều phát triển với tốc độ nhanh chóng,
nhiều ngành sản xuất mới xuất hiện như điện luyện kim, điện hóa học, xe điện,
hàn điện.... Cùng với công nghiệp, ngành giao thông vận tải mà đặc biệt là
ngành đường sắt và đường biển cũng có những tiến bộ vượt bậc, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, đánh dấu bước tiến cực kỳ quan trọng
trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội.
Khi lực lượng sản xuất chuyển biến mạnh mẽ, nền kinh tế hàng hóa phát
triển nhanh đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập
trung sản xuất với quy mô ngày càng lớn. Tình hình này địi hỏi các nước tư



11

bản phải có nhiều nguồn ngun liệu, nguồn nhân cơng cũng như mở rộng thị
trường tiêu thụ. Để giải quyết vấn đề này, các nước tư bản đế quốc, một mặt thì
bóc lột nhân dân lao động trong nước một cách tàn bạo, mặt khác chúng không
ngừng đẩy mạnh quá trình xâm lược thuộc địa. Do đó, các nước thuộc địa bị
biến thành nơi cung cấp nguyên vật liệu, khai thác sức lao động, thị trường tiêu
thụ hàng hóa và xuất khẩu tư bản. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa tư bản
phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và
việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc đấu
tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn” [99; 481]. Lịch sử ba mươi năm
cuối thế kỷ XIX gắn liền với những cuộc chiến tranh xâm lược do các nước đế
quốc tiến hành ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh đã chứng minh cho luận
điểm này.
Chủ nghĩa đế quốc khơng chỉ vơ vét, bóc lột, khai thác thuộc địa về kinh
tế mà chúng còn nô dịch, áp bức về mặt tinh thần; chúng đầu độc và phá hoại
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thuộc địa. Nó được
che đậy bởi những ngơn từ hoa mỹ “tự do- bình đẳng- bác ái”, được núp dưới
chiêu bài “khai hóa văn minh”. Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất thật sự của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc: “Bổn phận, đến nhân đạo và khai hóa! Vậy bổn
phận ấy là cái gì?... Đó là thị trường, là cạnh tranh, là lợi tức, là đặc quyền.
Bn bán, tài chính, đó là những cái tượng trưng cho lịng nhân đạo của các
ơng. Sưu thuế, lao dịch, bóc lột nặng nề - cơng cuộc khai hóa của các ơng, tóm
lại là thế đó” [78; 137-138]. Và đối với bọn đế quốc, thực dân thì “tính mạng
của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng khơng đáng một xu” [105; 30].
Bên cạnh chính sách thực dân tàn bạo đối với các nước thuộc địa, chủ
nghĩa đế quốc cịn khơng ngừng tăng cường áp bức, bóc lột dã man đối với giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động trong nước. Hồ Chí Minh trên hành trình
đi tìm đường cứu nước cũng đã tận mắt chứng kiến tội ác của chủ nghĩa đế
quốc ngay trên đất nước mình. Cho dù ở nước Mỹ hay Pháp thì cũng khơng có



12

cái gọi là “tự do-bình đẳng- bác ái” mà chỉ có thân phận những người da đen,
những người nơ lệ bị chà đạp, bị xiềng xích, gơng cùm; có sự đối lập giữa
những lâu đài nguy nga và những khu ổ chuột; giữa giàu sang và đói rét; những
cảnh chém giết và bóc lột. Hồ Chí Minh hiểu rằng: “Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột” [78; 266]. Chính bởi sự áp bức, bóc lột tàn bạo đó, đã làm nảy sinh một
mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Mâu thuẫn này càng ngày càng trở nên gay gắt bên
cạnh mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa tư sản và vơ sản.
Do đó, khi bước sang thế kỷ XX, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng
khơng cịn là hành động riêng lẻ của mỗi nước như trước kia nữa, mà trở thành
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc,
chống chủ nghĩa thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc
tế. Độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề cấp thiết mang
tính thời đại, là khát vọng chung của các dân tộc trên thế giới.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, mà nguyên nhân sâu xa là do sự phát
triển không đồng đều trong phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến
các cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1900 - 1903, sau đó là tổng khủng
hoảng và cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918). Đây thực chất là
cuộc chiến tranh nhằm giành giật thuộc địa và phân chia lại thị trường thế giới
giữa các nước đế quốc. Cuộc chiến tranh phi nghĩa này đã để lại cho nhân dân
thế giới những hậu quả rất nặng nề. “Nó đã làm tiêu hao 180 tỷ đơ la chiến phí
trực tiếp và 150 tỷ đơ la chiến phí gián tiếp, nó làm cho 10 triệu người phải
chết oan và 20 triệu người bị thương tật” [3; 173]. Đồng thời, nó cũng làm cho
nền kinh tế của các nước tham chiến ở Châu Âu ảnh hưởng nặng nề, xã hội
chao đảo. Vì thế các nước này trút gánh nặng bằng cách tăng cường bóc lột,

đàn áp các nước thuộc địa, phụ thuộc.


13

Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp là nước thắng trận nhưng do
Pháp là chiến trường chủ yếu trong chiến tranh nên tổng số thiệt hại về vật chất
và tinh thần do cuộc chiến tranh này gây ra là rất lớn, cụ thể: 1,3 triệu người
chết, 3 triệu người bị thương và tổn thất gần 200 tỷ phơ-răng, thiếu nợ của Anh
lên đến 13 tỷ phơ-răng. Năm 1919 sản lượng công nghiệp của Pháp chỉ bằng
57% trước chiến tranh, sản lượng nông nghiệp chỉ bằng 60% trước chiến
tranh,… [3; 179].
Trước khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, nước Anh là trung
tâm tài chính của thế giới nhờ lực lượng công nghiệp hùng hậu làm nền tảng.
Nền kinh tế của Anh ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Đến
khi chiến tranh kết thúc, nước Anh đã đánh mất ngôi vị bá chủ nền kinh tế thế
giới. Chiến tranh đã làm cho nền kinh tế nước Anh trở nên kiệt quệ, việc đầu tư
ra nước ngoài của Anh đã giảm sút 50%. Anh trở thành con nợ của Mỹ với số
tiền lên đến 4 tỷ đô la, số tiền bị hao tổn quân phí lên đến 8 tỷ bảng Anh, số sĩ
quan và binh sĩ của họ bị chết lên đến 947.000 người, số bị thương lên đến 2,12
triệu người, 70% thương thuyền của họ bị đánh đắm… [3; 162-177].
Đức trong chiến tranh là nước bại trận nên phải bồi thường chiến phí là
132 tỷ mác. Do số tiền bồi thường quá lớn nên đồng Mác của Đức bị sụt giá,
nền tài chính bị sụp đổ. Tất cả tiền tiết kiệm, tiền bảo hiểm của nhân dân Đức
đều bị tan biến thành mây khói, … [3; 261].
Trong khi Anh, Pháp, Đức là những nước chịu nhiều thiệt hại trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì Mỹ lại là nước thắng thế. Mỹ
giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh, trở thành chủ nợ (số nợ các nước châu
Âu phải trả cho Mỹ lên tới 10 tỷ đô la). Mỹ đầu tư ra nước ngồi 6,4 tỷ đơ la,
trữ lượng vàng chiếm 40% dự trữ vàng trên thế giới … [3; 75].

Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) đã làm
cho các nước tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày càng
căng thẳng hơn. Trong nội bộ các nước đế quốc, đối kháng giai cấp sâu sắc dẫn


14

tới cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Trong khi giai cấp tư
sản tăng cường bóc lột và bần cùng hóa nhân dân lao động thì ngược lại giai
cấp vơ sản đồn kết tập trung lực lượng, trưởng thành về ý thức, vững mạnh về
tổ chức, tiến hành cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình đồng thời giải phóng
nhân dân lao động. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, mâu thuẫn giữa
các nước đế quốc với nhân dân các nước thuộc địa, mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản không ngừng phát triển và ngày càng gay gắt. Tình hình
này đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc phát triển mạnh mẽ, hướng đến một cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột và
giành nền độc lập dân tộc.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đặt ra
yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận cách mạng dẫn đường. Đây chính là
cơ sở thực tiễn quan trọng dẫn đến sự ra đời của của học thuyết Mác như một
tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra của lịch sử.
Sau Công xã Pari 1871, Quốc tế I tan rã. Phong trào công nhân bắt đầu
thời kỳ mới tập hợp lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh tương lai chống
chủ nghĩa tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen với uy tín lớn lao của mình vẫn tiếp
tục lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế. Lúc này, ở Đức phong trào cơng
nhân có vị trí đặc biệt trong các cuộc vận động cách mạng ở đó. Năm 1869,
Đảng Xã hội dân chủ Đức - Đảng của giai cấp cơng nhân Đức trở thành chính
đảng đầu tiên và có vai trị là ngọn cờ trong phong trào cơng nhân quốc tế.
Học thuyết Mác đã giành được thắng lợi lớn trong phong trào công nhân.

Những hoạt động thực tiễn và lý luận của C.Mác và Ph.Ăgghen có một tầm
quan trọng to lớn đối với lịch sử. Học thuyết Mác không ngừng được truyền
bá mà kết quả là, ở một số nước ở châu Âu và châu Mỹ đã thành lập đảng
cơng nhân, đảng xã hội hay các nhóm có khuynh hướng tiến bộ cách mạng
của giai cấp công nhân. Sau Đảng xã hội dân chủ Đức năm 1869, các đảng


15

công nhân lần lượt xuất hiện ở Hà Lan (1870), Đan Mạch (1871), Mỹ (1876),
Pháp (1879), …; các nhóm xã hội trong phong trào cơng nhân Anh thành lập
(1884), nhóm Giải phóng lao động ở Nga (1883), Bỉ (1885), …. Sự ra đời của
các chính đảng cơng nhân, tuy cịn nhiều mặt hạn chế, nhưng nó cũng đánh
dấu sự phát triển không ngừng của phong trào công nhân các nước. So với
thời kỳ trước Công xã Pari, phong trào công nhân quốc tế đã phát triển rộng
rãi hơn và hoạt động trên phạm vi lớn hơn ở nhiều nước. Đây chính là mảnh
đất tươi tốt cho chủ nghĩa Mác thâm nhập.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, là một học
thuyết khoa học, tiên tiến của thời đại, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với quần
chúng nhân dân lao động và những nhà tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Học
thuyết này đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp
cơng nhân và nó đã trở thành ngọn cờ lý luận cách mạng dẫn đường cho cuộc
đấu tranh của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới. Bởi vì, học thuyết Mác đã đặt
ra vấn đề giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột của chế độ tư bản chủ
nghĩa, khẳng định vị thế của những người vô sản, từ những người bị áp bức trở
thành người chủ của xã hội, đưa quần chúng nhân dân trở thành chủ thể sáng
tạo ra lịch sử. Chủ nghĩa Mác đã cố vũ tình đồn kết của giai cấp vơ sản trên
toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, chủ
nghĩa Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lực lượng
lãnh đạo cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa; giải phóng giai cấp mình,

giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột bất
cơng, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã
hội mà tất cả mọi người được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Chủ nghĩa Mác là
kim chỉ nam soi đường cho cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động. Nhờ đó giai cấp cơng nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là
một lực lượng độc lập, chủ nghĩa cộng sản trở thành một thế lực chính trị trên
khắp châu Âu.


16

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng
chuyển từ châu Âu sang nước Nga. V.I.Lênin - người kế thừa, phát triển lý
luận của chủ nghĩa Mác, đã bổ sung vào lý luận của học thuyết Mác nhiều nội
dung mới gắn với thực tiễn cách mạng, và lý luận ấy trở thành chủ nghĩa Mác Lênin, nó dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Nga cũng như
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bơnsêvích Nga, cuộc Cách
mạng tháng 10 Nga năm 1917 đã giành được thành công. Thắng lợi của cách
mạng Tháng Mười đã xóa bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chế
độ chuyên chế Nga hoàng, làm cho chủ nghĩa cộng sản từ lý luận trở thành
thực tiễn. Thắng lợi vĩ đại ấy khơng chỉ giải phóng cho giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động, đưa họ trở thành người làm chủ xã hội, mà còn làm
rung chuyển thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế
giới. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực
cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên
chính quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hồn tồn mới,
một xã hội khơng có người bóc lột người" [89; 300-301]. Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại đã tạo ra một sức sống vô cùng to lớn, thức tỉnh và cổ vũ
các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống lại ách áp bức, bóc lột và

nơ dịch của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ mọi hình thức
nơ lệ, vươn tới tự do, bình đẳng, thực hiện quyền tự quyết dân tộc. Đánh giá
về tầm vóc lịch sử, ý nghĩa quốc tế và thời đại của Cách mạng Tháng Mười
Nga, Hồ Chí Minh đã viết: “Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối,
cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài
người [85; 564] và “Cách mạng Tháng Mười đã chặt đứt xiềng xích của chủ
nghĩa đế quốc, phá tan cơ sở của nó và giáng cho nó một địn chí mạng.
Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc


17

mê hàng thế kỷ nay. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc” [85; 568].
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế phát triển mạnh mẽ. Tháng 3 năm 1919, V.I.Lênin và những người theo
chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của V.I.Lênin họp tại Mátxcơva, thành lập
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Sự đời của Quốc tế III đã đánh dấu một thắng
lợi to lớn của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế vì, nó đã đánh bại
được đường lối cơ hội, cải lương và chủ nghĩa sô - vanh của các phần tử Quốc
tế II, từ đó đã thúc đẩy sự thành lập nhiều đảng cộng sản và phát triển phong
trào cách mạng ở các nước trên thế giới. Quốc tế Cộng sản III trở thành một tổ
chức có vai trị to lớn trong việc tập hợp, tổ chức quần chúng bị áp bức trên thế
giới thành một trận tuyến cách mạng rộng lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc.
Quốc tế III mới ra đời đã rất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Năm 1920,
sau một năm thành lập, tại Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản, Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin được thông qua. Những
nội dung trong bản Luận cương của V.I.Lênin đã đặt nền tảng tư tưởng và
chính trị cho việc giải quyết những vấn đề của phong trào giải phóng dân tộc.

Tháng 12, năm 1922, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xơ Viết (Liên Xơ)
ra đời. Đây chính là sự thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa MácLênin, là sự hiện thực hóa Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn. Từ đây, loài
người tiến bộ đã tìm thấy con đường đúng đắn giải quyết vấn đề dân tộc, thủ
tiêu mọi bất bình đẳng và xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử
lồi người.
Hồ Chí Minh trên hành trình bơn ba tìm đường cứu nước đã tiếp cận và
khảo cứu Luận cương của V.I.Lênin (năm 1920). Người nhận thấy, Luận
cương của V.I.Lênin là quan điểm hiện đại, tiên tiến nhất của thời đại ngày
nay, đã chỉ cho Người thấy con đường đem lại “độc lập cho Tổ quốc” và “tự do


18

cho đồng bào”. Hồ Chí Minh nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tơi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đơng đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng cho chúng ta!” [87; 127]. Cũng từ đây, Hồ Chí
Minh tìm các tác phẩm của Lênin để học tập, tham gia bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III và trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Đây là những sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt thay đổi về chất
trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến
chủ nghĩa cộng sản.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản III và sự ra đời của nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới là nguồn
động viên và cổ vũ vô cùng to lớn đối với các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu
tranh tự giải phóng mình, trong đó có Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn
Ái Quốc, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta đã được thực hiện,
tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam biết đến chủ nghĩa “chân chính nhất”,
“cách mệnh nhất” của thời đại, biết đến cách mạng Tháng Mười Nga và hịa

mình vào trong dịng chảy cách mạng chung của thế giới.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khi các nước phương Tây đã
phát triển rất mạnh về kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật v.v… một số nước trở
thành đế quốc thì, hầu hết các nước phương Đơng chưa thốt ra khỏi chế độ
phong kiến, vẫn đang chìm đắm trong trì trệ và lạc hậu.
Trung Quốc vào cuối thế kỷ XIX đang lâm vào tình trạng suy thối về
kinh tế, chính trị. Triều đình phong kiến Mãn Thanh khơng cịn đảm đương
được vai trị lịch sử của mình nên đã liên tiếp thất bại trước những cuộc tấn
công của các nước đế quốc và dần dần rơi vào cảnh bị các nước thực dân, đế
quốc xâu xé. Nhưng khi bước sang đầu thế kỷ XX, lịch sử Trung Quốc có
những biến chuyển quan trọng, tiêu biểu đó là cuộc cách mạng Tân Hợi năm


19

1911 do nhà cách mạng Tôn Trung Sơn lãnh đạo, đã lật đổ nền quân chủ
chuyên chế Mãn Thanh và thành lập nền cộng hòa của Trung Hoa dân quốc,
thực hiện cương lĩnh chính trị theo học thuyết Tam dân: Dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cùng với cuộc cách mạng Tân Hợi, phong trào Duy Tân của Lương
Khải Siêu và Khang Hữu Vi - hai nhà tư tưởng tiến bộ lúc bấy giờ của Trung
Quốc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà nho Việt Nam, góp phần thúc đẩy
phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở nước ta trong
những năm đầu thế kỷ XX.
Có thể nói, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hầu hết các nước ở khu vực
Châu Á đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc và bị bóc lột hết sức nặng nề.
Đồng thời, xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc
ở các quốc gia này, trong đó có Việt Nam.
Như vậy, chính từ thực tiễn phong phú, sinh động với những bài học
thành công và cả thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX, sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại và sự
tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, là cơ sở
cho sự xuất hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, và tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong đạo đức nói riêng. Đây
là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
1.2.2. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX, với việc hình thành tư tưởng đạo đức và quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hoàn cảnh Việt Nam cũng giống
như một số quốc gia phương Đông khác, đang chìm đắm trong lạc hậu, trì trệ
và bị sự xâm lược của các nước thực dân, đế quốc phương Tây. Sau khi vua
Quang Trung qua đời, lợi dụng sự yếu kém của triều Tây Sơn cùng với sự giúp


20

đỡ của các thế lực ngoại bang, năm 1802 Nguyễn Ánh đã lật đổ triều Tây Sơn
lên làm vua và lập ra nhà Nguyễn.
Dưới triều Nguyễn, nền kinh tế nước ta về cơ bản vẫn là nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Với sự thắng thế của giai cấp địa chủ, cường hào,
ruộng tư ngày càng lấn át ruộng công làng xã, khiến cho số dân mất đất phải đi
lưu đày ngày càng tăng. Để khắc phục khó khăn này, nhà Nguyễn đã thực hiện
một số chính sách, trong đó đặc biệt đẩy mạnh chính sách khai hoang. Tuy vậy,
chính sách địa tơ của nhà Nguyễn đã làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực
khổ, ruộng công bị đánh thuế rất nặng. Nhờ đó, tổng thu về địa tô của nhà
Nguyễn là rất lớn. Địa tô cùng với thuế đinh đã tạo nên sức mạnh cho giai cấp
thống trị nhà Nguyễn. Bên cạnh nông nghiệp, công thương nghiệp thời kỳ này
tương đối phát triển. Tuy nhiên, do xu hướng độc quyền cơng thương của nhà
nước vẫn cịn chế ngự nên đại thương không thể phát triển được.

Song song với kinh tế, ngay từ khi thiết lập vương triều, Nguyễn Ánh đã
quyết tâm xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền, chun chế, theo mơ
hình chính trị của triều đình nhà Thanh. Vì thế, năm 1815 nhà Nguyễn đã ban
hành luật Gia Long, bộ luật này đã gạt bỏ những điểm tích cực, tiến bộ của bộ
luật Hồng Đức triều Lê và chủ yếu sao chép luật Mãn Thanh ở Trung Quốc.
Vua nhà Nguyễn có uy quyền tuyệt đối, quan lại khắc nghiệt, lấy pháp luật làm
gông cùm, lấy dân đen làm cá thịt… Thể chế này đã tạo điều kiện cho bọn
quan lại, cường hào lộng hành, mặc sức áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Có thể nói, mọi chính sách của nhà Nguyễn đều tập trung vào việc củng
cố quyền lực của triều đình. Độc tơn Nho giáo, bế quan tỏa cảng, kìm chế cơng
thương, tuy nhiên, nó đã khơng mang lại những kết quả như mong muốn của
nhà Nguyễn. Hơn thế, nó cịn làm mất đi khả năng vươn lên cùng thời đại của
đất nước, làm suy kiệt sức đề kháng của dân tộc trước nguy cơ bành trướng của
chủ nghĩa thực dân phương Tây. Dưới triều nhà Nguyễn, sức mạnh to lớn của
nhân dân không được phát huy, mà ngược lại, đời sống nhân dân càng lầm than


21

hơn bởi sự áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn cường hào, địa chủ. Thực tế đó làm
cho mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân ngày càng gay gắt, những
xung đột xã hội đan xen vào nhau và ngày càng căng thẳng. Và đã dẫn tới sự
bùng nổ liên tục của phong trào nông dân khởi nghĩa, mà tiêu biểu nhất là khởi
nghĩa của Phan Bá Vành. Ngồi ra, cịn có những cuộc khởi nghĩa nơng dân do
các trí thức, phong kiến danh tiếng lãnh đạo như Cao Bá Quát, Lê Duy Lương,
Lê Văn Khôi... Tuy nhiên, để bảo vệ chế độ, lợi ích của vương triều, nhà
Nguyễn đã thẳng tay đàn áp, dìm các cuộc khởi nghĩa của nơng dân trong bể
máu. Bên cạnh đó, thời Nguyễn cịn đứng trước những âm mưu về chính trị của
các thế lực chống đối trong triều và các thế lực bên ngồi. Vì thế, triều Nguyễn
thực sự rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó thì thực dân Pháp

xâm lược Việt Nam. Tiếng súng mở màn của thực dân Pháp tại bán đảo Sơn
Trà Đà Nẵng năm 1858, là điểm khởi đầu cho một quá trình xâm lược lâu dài
của Pháp tại Việt Nam.
Trước hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ngược lại với sự
kháng cự ngày một dữ dội của nhân dân khắp nơi, thì nhà Nguyễn đã đặt quyền
lợi của dịng họ lên trên quyền lợi của dân tộc nhanh chóng đầu hàng đế quốc
Pháp, phản bội lại quyền lợi của nhân dân, phản bội tổ quốc. Ngày 05- 06 1862, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Nhâm Tuất, gồm có 12 khoản,
trong đó hầu hết là có lợi cho thực dân Pháp, tạo điều kiện cho Pháp xâm lược
nước ta. Đặc biệt trong bản Hiệp ước này, triều đình thừa nhận việc cai quản 3
tỉnh miền Đơng thuộc nước Pháp, bồi thường cho Pháp 20 Vạn quan phí, mở 3
cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên cho người Pháp thông thương, cho
phép người Pháp và người Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia tô. Về phía Pháp
sẽ “trả lại” Vĩnh Long cho triều đình khi nào triều đình buộc dân chúng thơi
chống Pháp. Với Hiệp ước này, đã chứng minh sự đầu hàng của triều đình nhà
Nguyễn trước thực dân Pháp, thể hiện sự bạc nhược, yếu đuối. Chính vì vậy,
mà ngay giữa mùa mưa 1867, quân Pháp chỉ mất có 4 ngày để chiếm luôn 3


×