Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học Đánh giá kiến thức và khảo sát sự tuân thủ vệ sinh tay (VST) của nhân viên y tế (NVYT) Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 59 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện là nơi tập trung nhiều người bệnh với đa dạng chủng loại bệnh tật,
vì vậy đã hiện diện rất nhiều loại vi khuẩn, vi rút khác nhau, đây là mầm bệnh với
cả người bệnh và nhân viên y tế.
Nhiễm khuẩn Bệnh viện (NKBV) là một trong những thách thức và mối
quan tâm rất lớn tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Nhiều nghiên cứu cho
thấy NKBV làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tăng tỷ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện,
tăng chi phí điều trị, tăng gánh nặng bệnh tật cho cả người bệnh và hệ thống y tế ở
tất cả các nước trên thế giới. Theo thống kê, tỷ lệ NKBV chiếm khoảng 5- 10% ở
các nước phát triển và 15- 20% ở các nước đang phát triển. Nhiễm khuẩn bệnh viện
là hậu quả không mong muốn trong thực hành khám bệnh, chữa bệnh và chăm sóc
người bệnh.
Có nhiều yếu tố gây ảnh hưởng NKBV như: môi trường ô nhiễm, bệnh
truyền nhiễm, xử lý dụng cụ, các thủ thuật xâm lấn nhưng ô nhiễm bàn tay của
nhân viên y tế (NVYT) là 1 mắt xích quan trọng trong dây chuyền NKBV.
Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định “Chăm sóc sạch là chăm sóc an tồn” và
“Vệ sinh tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất trong phòng ngừa NKBV”.
Đây là giải pháp rẻ tiền nhất, dễ thực hiện và hiệu quả nhất. Năm 2007, Vụ Điều trị
Bộ Y tế đã ban hành công văn số 7517/BYT- Đtr qui định và hướng dẫn quy trình
vệ sinh tay thường quy. Theo Tổ chức Y tế thế giới, rửa tay được coi là liều vaccine
tự chế, rất đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả về chi phí cũng như có thể cứu sống
hàng triệu người. Những năm gần đây, Bộ Y tế đã phát động phong trào vệ sinh bàn
tay ở cả bệnh viện và cộng đồng. Theo nhiều báo cáo của các chun gia kiểm sốt
nhiễm khuẩn trong và ngồi nước thì các bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra
trong cộng đồng hồn tồn có thể phịng ngừa được bằng cách giữ gìn vệ sinh,
trong đó có rửa tay bằng xà phịng.
Theo đó, chỉ một động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây
truyền vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế
giới. Việc rửa tay cũng có thể làm giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%,

1




nhiễm khuẩn đường hô hấp tới 19-45%. Các nghiên cứu cho thấy, bàn tay của một
người có thể mang tới 4,6 triệu mầm bệnh.
Theo trung tâm kiểm sốt và phịng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ, nhiễm khuẩn
bệnh viện lan truyền bằng nhiều đường như: bề mặt (đặc biệt là tay), nước, khơng
khí, đường tiêu hóa và phẫu thuật. Theo nhiều báo cáo của các chuyên gia KSNK
trong và ngoài nước thì các bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra trong cộng, đồng
hồn tồn có thể phịng ngừa 2 được bằng cách giữ gìn vệ sinh,trong đó có rửa tay
bằng xà phòng. Chỉ một động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây
truyền vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế
giới. Việc rửa tay cũng có thể làm giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%,
nhiễm khuẩn đường hơ hấp tới 19-45%.
Trong cơng tác chăm sóc người bệnh, có sự tham gia rất lớn của đội ngũ bác
sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên và người nhà tham gia chăm sóc. Vai trị của bàn tay
trong chăm sóc đã được các tác giả nhiều nước trên thế giới và Việt Nam nghiên
cứu từ giữa thế kỷ XIX. Tại hội nghị kiểm soát nhiễm khuẩn khu vực Châu Á Thái
Bình Dương lần thứ III và thứ VI (tháng 7/2007 và tháng 7/2009) hầu hết các báo
cáo đều có chung 1 khuyến cáo đó là cần tăng cường sự tuân thủ vệ sinh tay thường
quy.
Hiện tại, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang căng mình trong
cơng tác phòng chống dịch bệnh Covid – 19, dịch bệnh đã làm hàng triệu người
trên thế giới mắc bệnh và hàng trăm nghìn người tử vong, tổn thất tiền của và kinh
tế khơng thể tính tốn được và cịn rất nhiều tổn thất khác. Việc vệ sinh tay, đã đóng
góp hiệu quả trong việc phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm nói chung và dịch
bệnh tại Việt Nam, trong thời gian đầu triển khai các hoạt động kiểm soát nhiễm
khuẩn (KSNK) BV theo thông tư 18/2009/TT-BYT về việc hướng dẫn thực hiện
công tác KSNK trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong đó có VST, phần
lớn các BV khơng chỉ thiếu phương tiện VST như: bồn rửa tay, dung dịch rửa tay,
khăn lau tay, dung dịch sát khuẩn tay nhanh, mà thực hành VST của NVYT cũng

chưa được tuân thủ tốt. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều bằng chứng thuyết
phục về việc lây truyền vi khuẩn từ người bệnh này sang người bệnh khác qua bàn
tay của nhân viên y tế và chỉ ra các tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Nhiễm
2


khuẩn mắc phải trong bệnh viện ngày càng được chú ý và việc tn thủ rửa tay
đóng vai trị quan trọng trong ngăn ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện. Năm 2006 Bộ y
tế đã phát động chiến dịch “ Bàn tay nhân viên y tế sạch” và rửa tay hiện nay được
coi là chiến lược quan trọng để giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện.
Tại Bệnh viện Đa khoa huyện Sốp Cộp, đã Thực hiện quy trình rửa tay
thường quy (theo văn bản số 7517 / BYT ngày 12/10/2007) trong bệnh viện.
Thực trạng vệ sinh bàn tay tại Bệnh viện đa khoa huyện Sốp cộp thời gian
qua còn tồn tại nhiều bất cập. Tỷ lệ rửa tay còn thấp do nhiều yếu tố khác nhau như
thiếu phương tiện rửa tay, hệ thống lavabo, vịi nước có cần gạt cịn thiếu, chưa
trang bị đầy đủ tại các phòng bệnh, trang thiết bị y tế của bệnh viện cịn đang trong
tình trạng chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, bệnh viện chưa tổ chức các “Hội thi rửa tay”
cho nhân viên y tế để giúp nâng cao kiến thức và ý thức trong việc tuân thủ vệ sinh
tay, số lượng người bệnh đến khám và điều trị đơng, nên việc thực hiện quy trình
rửa tay thường quy đối với nhân viên y tế càng trở nên quan trọng, nó góp phần
đáng kể trong việc giảm thiểu thời gian và chi phí điều trị cho bệnh nhân. Để đánh
giá được mức độ tuân thủ quy trình vệ sinh tay của nhân viên y tế trong điều trị và
chăm sóc người bệnh và tìm ra được yếu tố liên quan dẫn đến việc nhiễm khuẩn
bệnh viện do bàn tay nhân viên y tế gây nên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Đánh giá kiến thức và khảo sát sự tuân thủ vệ sinh tay (VST) của nhân
viên y tế (NVYT) Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp năm 2020 với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá kiến thức về việc vệ sinh tay của nhân viên y tế Bệnh viện đa
khoa huyện Sốp Cộp.
2. Khảo sát sự tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế Bệnh viện đa khoa
huyện Sốp Cộp và đưa ra các giải pháp đề xuất, kiến nghị.


3


Chương 1
TỔNG QUAN
Cơ sở khoa học của vệ sinh bàn tay Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở Châu Âu
và Hoa Kỳ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên
nhân là do vi khuẩn Streptococcus pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell
Holmes (Hoa Kỳ) cho rằng, vệ sinh bàn tay có thể phòng ngừa được sốt hậu sản.
Trước tỉ lệ sốt hậu sản tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ, ông tin tưởng rằng nguyên
nhân chính là do sự lây truyền vi khuẩn từ sản phụ này sang sản phụ khác qua
bàn tay các bác sỹ. Ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ cùng thời phản đối
Cuối những năm 1840, Bác sĩ Ignaz Semmelweis (1818-1865) khám phá ra
sự khác biệt về tỉ lệ tử vong ở các bà mẹ sau sinh con giữa hai khoa sản của bệnh
viện. Năm 1846, Semmelweis nghiên cứu và thấy rằng tại hai khoa sản của bệnh
viện, cùng thực hành một kỹ thuật rửa tay: Khoa thứ nhất là khoa thực hành của
sinh viên y khoa, nơi mà chỉ có các bác sĩ và sinh viên y khoa làm việc có tỷ lệ tử
vong do sốt hậu sản là 13.1%, tỷ lệ này cao gấp gần 5 lần so với khoa thứ 2 là khoa
hướng dẫn thực hành cho nữ hộ sinh (bao gồm các nữ hộ sinh và học sinh hộ sinh)
có tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ sau sinh là 2.03%. Ông quan sát và thấy rằng các bác
sĩ và sinh viên y khoa thường không rửa tay sau khi thăm khám mỗi bệnh nhân,
thậm chí sau khi mổ tử thi. Trên cơ sở đó, ơng cho rằng ngun nhân sốt hậu sản là
do bàn tay không rửa của các bác sỹ và các sinh viên y khoa chứa tác nhân gây
bệnh. Vì vậy, ơng đã đề xuất sử dụng dung dịch nước vôi trong (chứa chlorine) để
rửa tay vào thời điểm chuyển tiếp sau mổ tử thi sang thăm khám bệnh nhân. Kết
quả cho thấy tỷ lệ tử vong của các bà mẹ sau đó đã giảm từ 12,24 % xuống 2,38%.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, nhiều người cho rằng khuyến cáo rửa tay giữa những
lần tiếp xúc với người bệnh của Semmelweis là quá nhiều và không bác sĩ nào chấp
nhận đơi bàn tay của họ chính là nguyên nhân gây tử vong hậu sản. Một số người

khác thì cho rằng kết quả nghiên cứu của ơng là thiếu bằng chứng khoa học. Năm
1849 ông bị sa thải khỏi bệnh viện Vienne và tới làm việc ở khoa sản phụ bệnh
viện Pest's St. Rochus ở Hungari (1851-1857) [10]. Ngày nay, ở Hungary, người
ta lập nên bảo tàng Semminweis, bệnh viện Semminweis. Tại Áo người ta
4


thành lập bệnh viện sản khoa Semminweis và ông đã được ghi nhận là người mở
đường cho học thuyết về vô trùng và học thuyết về nhiễm khuẩn bệnh viện.
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã lên
tiếng: “Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản chính là
các bác sĩ đã sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi khám các bà mẹ mạnh
khoẻ”. Sau đó, ơng đã đưa ra lý thuyết về “Mầm bệnh” và phương pháp tiệt khuẩn
Pasteur được sử dụng tới ngày nay. Năm 1910, Bác sĩ Rosephine Baker ( Hoa Kỳ)
đã tổ chức khoá tập huấn đầu tiên giảng dạy về vệ sinh bàn tay cho các nhân viên y
tế chăm sóc bệnh nhi.
Năm 1992, tạp chí Y học New England (the New England Journal of
Medicine) công bố kết quả nghiên cứu về rửa tay tại khoa hồi sức cấp cứu. Báo cáo
cho thấy, mặc dù đã áp dụng những biện pháp giáo dục và giám sát đặc biệt, nhưng
tỷ lệ tuân thủ rửa tay ở nhân viên y tế chỉ xấp xỉ 30% và tỷ lệ cao nhất chỉ đạt 48%.
Cũng năm đó CDC ước tính mỗi năm tại Hoa Kỳ có khoảng 2,000,000 bệnh nhân
mắc nhiễm khuẩn bệnh viện và chi phí cho việc điều trị các bệnh nhân trên tiêu tốn
hơn 45 tỉ đô la Mỹ. Năm 1993 đã có 11 nhân viên y tế mắc bệnh viêm gan A do
không rửa tay sau khi tiếp xúc với 1 trong 2 bệnh nhân viêm gan A.
2. Nhiễm khuẩn bệnh viện
2.1. Định nghĩa nhiễm khuẩn bệnh viện
Theo Tổ chức y tế Thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV)
là các nhiễm khuẩn xuất hiện sau 48h kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không
hiện diện cũng như không ở giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện.
2.2. Tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện

Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra bởi các vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh
trùng. Trong đó nhiễm trùng đường tiết niệu thông qua thủ thuật đặt dẫn lưu nước
tiểu không đảm bảo vô khuẩn là phổ biến nhất, đứng hàng thứ 2 là viêm phổi.
2.3. Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện hiện nay
* Trên thế giới

5


Bất kỳ nơi nào trên thế giới, các nước phát triển cũng như các nước nghèo
đều phải đối diện với NKBV. Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới tại 55
bệnh viện của 14 nước trên các châu lục, khoảng 8.7% bệnh nhân nội trú mắc
NKBV.
Tại Hoa Kỳ, theo Trung tâm dự phịng và kiểm sốt bệnh (CDC) có
khoảng 5 – 10% bệnh nhân nội trú mắc NTBV, ước tính mỗi năm trên tồn quốc
có khoảng hơn 1 triệu người mắc NTBV. Trong số này, có đến 36% các NTBV có
thể phịng ngừa được bằng việc NVYT tn thủ các qui định và hướng dẫn trong
chăm sóc bệnh nhân .Tại Châu Âu, theo thống kê của WHO năm 2008, tỉ lệ NKBV
tại các BV ở Châu Âu giao động từ 4% đến 10%.
* Tại Việt Nam
Theo nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện năm 2006 –
2007 tại 62 bệnh viện khu vực phía Bắc đại diện các tuyến: Trung ương, tỉnh/Thành
phố và Quận/Huyện cho thấy, tỉ lệ NKBV trung bình là 7.8%. Trong đó các bệnh
viện tuyến TW có tỉ lệ NKBV là 5.4%; các BV tuyến tỉnh/thành phố có tỉ lệ
NKBV là 8.3% cao hơn tỉ lệ NKBV ở các BV tuyến quận/huyện là 6.4%. Tác
nhân gây NKBV hàng đầu là Pseudomonas aeruginosa, tiếp đó là Acinetobacte
baumani và nấm Candida.
1.2.4 . Hậu quả của Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra những hậu quả nặng nề với bệnh nhân cũng
như các nhân viên y tế. Các hậu quả của NKBV bao gồm:

a) Tăng chi phí và tăng ngày điều trị:
Tại Việt Nam, thơng tin tại Đại hội Hội Kiểm sốt nhiễm khuẩn Hà Nội
năm 2008 cho thấy, mỗi nhiễm khuẩn bệnh viện làm kéo dài thời gian nằm viện
trung bình từ 9.4 đến 24.3 ngày và làm tăng chi phí điều trị trung bình từ 2 - 32.3
triệu đồng . Đây quả là một số tiền lớn so với mức thu nhập trung bình của người
dân tại thời điểm năm 2008 mới là 1024 USD tương đương gần 16 triệu đồng.
Theo thống kê của CDC (Hoa Kỳ) năm 2009, ước tính hàng năm Hoa Kỳ
phải chi một số tiền cho việc điều trị NKBV là từ 28 đến 48 tỉ đô la Mỹ (tương
đương từ 378,000 tỉ đến 816,000 tỉ đồng), cao hơn tổng ngân sách nhà nước của
6


Việt Nam chi cho Đầu tư phát triển và phát triển kinh tế xã hội năm 2008
(494,600 tỉ đồng).
Nhiều nghiên cứu tiến hành tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ cho thấy, NKBV
kéo dài thêm hời gian nằm viện trung bình từ 7.4 đến 9.4 ngày. Các bệnh nhân mắc
NKBV địi hỏi nhu cầu chăm sóc và điều trị cao hơn do đó làm tăng thêm áp lực
cơng việc cho các nhân viên y tế vốn đã làm việc trong tình trạng quá tải.
Sau đây là bảng tổng hợp các nghiên cứu về chi phí cho điều trị NVKB kéo
dài từ năm 1977 – 2000 tại một số quốc gia trên thế giới.
Loại
NKBV

Nhiễ
m
khuẩn
đường
tiết
niệu


Nhiễ
m
khuẩn
vết
mổ

Số
ngày
điều
trị
thêm

Số tiền
điều trị
thêm
trên
mỗi BN

Nguồn

Nước

Khoa

Khoa
Số BN
mắc
NKBV

Haley và cộng sự

1981

Hoa
Kỳ

Tất cả

177

1

1,031

Rubenstein và
cộng sự 1982

Hoa
Kỳ

Phẫu thuật tổng
hợp, chấn thương

30

5.1

756

36


3.6

576

107

5

1,122

Phẫu thuật tổng
hợp, chấn
thương
và sản khoa
Nội, Ngoại, chấn
thương, Tiết
niệu, sản phụ
khoa,
chăm sóc người
già, TMH

Coello và cộng
sự, 1993

Anh

Plowman và
cộng sự 1999

Anh


Rubenstein và
cộng sự 1982

Hoa
Kỳ

Phẫu thuật tổng
hợp và chấn
thương

19

12.9

1,912

Anh

Thủ thuật Xeda

41

2.1

1,170

Anh

Phẫu thuật tổng

hợp, chấn
thương

12

10.2

1,798

Mugford và cộng
sự 1989
Coello và cộng
sự, 1993

7


và sản khoa
Poulson và cộng
sự 1999

Đan
Mạch

Ngoại

291

5.7


-

Anh

Nội, Ngoại, chấn
thương, Tiết
niệu,
sản phụ khoa,
chăm sóc người
già, TMH

38

7

1,594

Kapp và cộng sự
1992

Đức

Điều trị tích cực

34

10.13

6,405


Rubenstein và
cộng sự 1982

Hoa
Kỳ

8

18

2,668

43

25

4,154

48

8

2,080

57

29

8,631


Plowman và
cộng sự 1999

Nhiễ
m
khuẩn
phổi

Liu-yi và Shu-qun Trung
năm1990
Quốc

Phẫu thuật tổng
hợp và chấn
thương
Phẫu thuật tim
mạch
Phẫu thuật tổng
hợp, chấn thương
và sản khoa
Nội, Ngoại, Chấn
thương, Tiết
niệu,Sản phụ
khoa, chăm sóc
người già,TMH

Đa
Coello và cộng sự
nhiễm
1993

trùng

Anh

Plowman và cộng
sự 1999

Anh

Haley và cộng sự
1981

Hoa
Kỳ

Tất cả

75

6

8,639

Anh

Nội, Ngoại, chấn
thương,Tiết
niệu,sản phụ
khoa,chăm sóc
người già,TMH


48

8

2,080

Tất cả

8

7

5,326

Điều trị tích cực
Ngoại

86

14

26,034

Viêm
đường
hơ hấp Plowman và cộng
dưới
sự1999
Nhiễ

m
khuẩn
huyết

Haley và cộng sự
1981
Pittet và cộng sự
1994

Hoa
Kỳ
Hoa
Kỳ

*: Các giá được tính theo bảng Anh theo số liệu y tế (1996) của tổ chức
OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - Organization for Economic Co8


operation anddevelopment) và được điều chỉnh theo giá của năm 1999/2000 có tính
đến trượt giá của chi phí đầu vào tại bệnh viện ở Anh.
b) Tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật
Nhiễm khuẩn bệnh viện không những gây hậu quả nặng nề về mặt lâm sàng,
kinh tế mà còn là nguyên nhân làm tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật, làm xuất
hiện những chủng vi khuẩn đa kháng kháng sinh (ví dụ như MRSA – tụ cầu kháng
kháng sinh Methicillin) là nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các bệnh viện.
Tại Hoa Kỳ, tháng 10/2010, CDC công bố số người chết do MRSA đã vượt
quá số người chết vì bệnh AIDS. Trong số các bệnh viện được khảo sát, MRSA
được tìm thấy ở 176 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 45%, trong đó 7,7% bị lây khi đang
nằm viện.
Ở Anh, mỗi năm có khoảng 5000 bệnh nhân chết vì MRSA. Tại Đức, Italia

và Bồ Đào Nha, tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện lên tới hơn 50%. Tại châu
Á, các chủng loại vi khuẩn đa kháng kháng sinh được xác định là nguyên nhân gây
ra từ 70 - 80% trường hợp lây nhiễm trong bệnh viện. Theo giáo sư Xiao Yonghong
của Viện Dược lý lâm sàng của trường ĐH Bắc Kinh, tỷ lệ lây nhiễm MRSA trong
các bệnh viện Trung Quốc đã tăng từ 30% lên 70%.
c) Các hậu quả khác NKBV còn làm tăng tỉ lệ tử vong và tăng các biến
chứng cho người bệnh. Các NKBV là nguyên nhân gây tử vong cho 99.000 bệnh
nhân tại Hoa Kỳ năm 2002 Không chỉ gây biến chứng nặng nề cho bệnh nhân, là
nguy cơ lây nhiễm cho nhân viên y tế, NKBV còn làm giảm chất lượng điều trị và
uy tín của bệnh viện.
3. Mối liên quan giữa tuân thủ rửa tay và tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện
NKBV lây truyền qua một số con đường, tuy nhiên việc lây truyền thông qua
bàn tay của nhân viên y tế là phổ biến nhất. NKBV gây ra những hậu quả vô cùng
nghiêm trọng không chỉ với bệnh nhân mà còn đối với các nhân viên y tế. Sự tuân
thủ rửa tay của NVYT (như rửa tay với nước và xà phòng, rửa tay với dung dịch sát
khuẩn tay chứa cồn) được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất để phòng
ngừa hiệu quả nhiễm khuẩn bệnh viện.
9


Bàn tay nhân viên y tế chứa từ 3.9 x 104 đến 4.6 x 106 vi khuẩn. Trong một
nghiên cứu được thực hiện ngẫu nhiên trên 77 bàn tay của nhân viên y tế tại bệnh
viện Chợ Rẫy – TP Hồ Chí Minh cho kết quả, trung bình có 267,378 vi
khuẩn/cm2 , trong đó: bàn tay của BS có chứa 275,110 vi khuẩn/cm2; bàn tay Điều
dưỡng chứa 126,875 vi khuẩn/cm2. Vệ sinh bàn tay đúng cách sẽ làm loại bỏ hầu
hết lớp vi sinh vật gây ra nhiễm khuẩn bệnh viện cho bệnh nhân.
Hiệu quả của vệ sinh bàn tay với các loại hóa chất khác nhau được mơ
tả ở hình 1.
A: Tay chưa rửa
B: Tay sau khi rửa với nước và xà phòng

C: Tay sau khi sát khuẩn bằng dung dịch
cồn

Hình 1. Hiệu quả của việc rửa tay với các loại hóa chất khác nhau
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định vệ sinh tay bằng dung dịch có chứa cồn
là biện pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyên tác nhân gây bệnh trong các
cơ sở y tế. Một nghiên cứu ở Thụy Sỹ từ năm 1994 đến 1997 trên 20,000 cơ hội rửa
tay của NVYT tại BV Geneva đã cho thấy: khi tỉ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y
tế tăng từ 48% (1994) lên 66% (1997) thì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giảm từ
16.9% (1994) xuống còn 6.9% (1997). Tại Việt Nam, can thiệp làm tăng sự tuân
thủ vệ sinh bàn tay của NVYT cũng mang lại hiệu quả tích cực trong việc làm giảm
tỉ lệ NKBV. Tại BV Hà Đông, tỉ lệ NKBV giảm từ 14.8% (trước can thiệp) xuống
còn 1.28% (sau can thiệp).
Đánh giá được tầm quan trọng của vệ sinh bàn tay trong việc phòng ngừa và
giảm bớt tỉ lệ NKBV, từ năm 1996 Bộ Y tế đã đã ban hành Quy trình rửa tay
thường quy có minh hoạ bằng hình ảnh. Năm 2007, dựa trên hướng dẫn mới nhất
của Tổ chức Y tế Thế giới về phương pháp rửa tay thường quy và sát khuẩn tay
10


bằng cồn, Bộ Y tế đã mời các chuyên gia y tế và chuyên gia kiểm soát nhiễm khuẩn
sửa đổi quy trình cho phù hợp với điều kiện Việt Nam và ban hành công văn số
7517/BYT-Đtr ngày 12 tháng 10 năm 2007 đề nghị các Sở Y tế, các đơn vị tổ chức
cho cán bộ, nhân viên bệnh viện học tập và thực hiện theo hướng dẫn mới và treo
Quy trình rửa tay bằng hình ảnh ở những vị trí thuận lợi để nhân viên y tế thực hiện
theo quy định [2]. Năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 18/2009/ TT-BYT:
Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác KSNK tại các cơ sở khám, chữa bệnh. Điều
1 của Thông tư quy định “Thầy thuốc, nhân viên y tế, học sinh, sinh viên thực tập
tại các cơ sở khám chữa bệnh phải tuân thủ rửa tay đúng chỉ định và đúng quy
trình kỹ thuật theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Người bệnh và người nhà người bệnh,

khách đến thăm phải rửa tay theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám, chữa
bệnh”.
Các thời điểm nhân viên y tế bắt buộc phải vệ sinh bàn tay bao gồm:
(1) Trước khi tiếp xúc với bệnh nhân
(2) Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn
(3) Sau khi tiếp xúc với bệnh nhân
(4) Sau khi tiếp xúc với máu và dịch thể cơ thể
(5) Sau khi tiếp xúc vùng xung quanh bệnh nhân
Quy trình VSBT của NVYT với nước và xà phòng hoặc với dung dịch sát
khuẩn tay chứa cồn gồm 6 bước như hình vẽ sau:

11


Hình 2. Quy trình vệ sinh tay thường quy
4. Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ vệ sinh bàn tay
của NVYT
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện tại các bệnh viện nhằm
đánh giá tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT, trong đó có một số nghiên cứu được thực
hiện theo phương pháp đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ
vệ sinh bàn tay trước và sau can thiệp. Các can thiệp nhằm tăng cường kiến thức về
tỉ lệ tuân thủ VSBT thường có một số hoạt động như: tổ chức các buổi tập huấn,
xem video clip, nghe các bài giảng về vệ sinh bàn tay cho NVYT, tăng cường số
lượng các vị trí rửa tay, cung cấp hóa chất sát khuẩn tay nhanh, giám sát sự tuân thủ
rửa tay và phản hồi lại với các NVYT để họ biết và tuân thủ tốt hơn, tổ chức các
chiến dịch khuyến khích NVYT rửa tay.
4.1. Nghiên cứu trên thế giới
Tuân thủ vệ sinh bàn tay phòng tránh được nhiễm khuẩn bệnh viện, tuy nhiên
tỉ lệ tuân thủ rửa tay của các nhân viên y tế còn rất thấp. Tại Hoa Kỳ, một số nghiên
cứuvề tỉ lệ này được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2000 cho

thấy, tỉ lệ tuân thủ rửa tay chỉ đạt từ 29% đến 40% .
12


Năm 2002, tại Italia, Nobile và cộng sự đã tiến hành đánh giá Kiến thức, thái
độ và thực hành vệ sinh bàn tay của các NVYT tại các khoa hồi sức tích cực của 24
BV vùng Campania và Calabria. Kết quả cho thấy 53.2% NVYT có kiến thức đúng,
tỉ lệ có thái độ tích cực về vệ sinh bàn tay là 96.8%, thái độ tích cực của nhóm
NVYT có trình độ học vấn cao và nhóm nữ, lớn tuổi cao hơn một cách có ý nghĩa
so với các nhóm khác. Trong nghiên cứu này tỉ lệ TTRT của NVYT tại thời điểm
trước khi chăm sóc người bệnh đạt 60% và sau khi chăm sóc người bệnh đạt
72.5%. Tỉ lệ này ở nhóm nữ NVYT cao hơn một cách có ý nghĩa so với các nhóm
khác. Nghiên cứu của Khaled M và cộng sự thực hiện năm 2008 tại Bệnh viện Đại
học Ain Shams (Cairo, Ai Cập) cho thấy, điều dưỡng có kiến thức về VSBT tốt hơn
bác sỹ nhưng các BS lại là những người tuân thủ RT tốt hơn (37.5%) tuy nhiên tỉ lệ
RT đúng của họ chỉ là 11.6%.
4.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Khoảng 10 năm trở lại đây, vệ sinh bàn tay của NVYT được chú trọng hơn
tại Việt Nam, do đó đã có nhiều các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Năm
2005, nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện tại một số
bệnh viện khu vực phía bắc cho thấy tỉ lệ NVYT nhận thức về VSBT chưa tốt ở
mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Trong nghiên cứu này tỉ lệ NVYT có nhận thức tốt về
VSBT chỉ đạt 42.2% .
Một nghiên cứu can thiệp của Nguyễn Việt Hùng, Trương Anh Thư và cộng
sự thực hiện năm 2005 cho thấy, trước can thiệp tỉ lệ TTRT của NVYT chỉ là 6.3%.
Sau 4 tháng tổ chức chiến dịch vận động NVYT tăng cường vệ sinh bàn tay, tỉ lệ
TTRT đã tăng lên 65,7%.
Nghiên cứu của Bàn Thị Thanh Huyền tại BVĐK tỉnh Hịa Bình năm 2010
cho thấy 72% NVYT có nhận thức tốt về vai trò của VSBT. Tỉ lệ này ở nữ là 76.1%
cao hơn một cách có ý nghĩa so với nam (62.5%). Tuy tỉ lệ có nhận thức tốt về vai

trò của VSBT khá cao nhưng tỉ lệ TTRT chỉ đạt 34%, trong đó, điều dưỡng tuân thủ
VSBT tốt hơn BS (34.9% so với 27%).
5.5. Đặc điểm tình hình BVĐK huyện Sốp Cộp

13


Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp là bệnh viện hạng III trực thuộc Sở Y tế
Sơn La. Bệnh viện được thành lập từ năm 2005. Hiện nay bệnh viện có 14
khoa/phịng trong đó gồm 9 khoa lâm sàng, 1 khoa cận lâm sàng và 4 phòng chức
năng. Với tổng số giường thực kê là 200 giường, trung bình 1 tháng, bệnh viện có
1570 lượt người đến khám.
Từ khi thành lập Bệnh viện (năm 2006), Bệnh viện cũ, cơ sở trật hẹp, xuống
cấp, khơng có đủ vị trí để lắp đặt trang thiết bị, đặc biệt là hệ thống vệ sinh tay cho
nhân viên y tế, dung dịch sát khuẩn tay cũng khơng có đủ. Đến đầu năm 2015,
Bệnh viện chuyển sang cơ sở mới, khang trang sạch sẽ, rộng rãi, có đủ vị trí để lắp
đặt hệ thống, trang thiết bị. Tuy Bệnh viện mới xây dựng và đưa vào sử dụng, mới
được 5 năm, nhưng đến nay, một số hạng mục đã bắt đầu xuống cấp, đặc biệt là hệ
thống nhà vệ sinh và hệ thống các chậu rửa tay. Qua khảo sát ban đầu, chúng tôi
nhận thấy 70% các khoa lâm sàng tại bệnh viện có điểm rửa tay đều xuống cấp, bị
lung lay, sắp rơi và tại các chậu rửa tay đa số khơng có khăn lau, hoặc khăn lau cũ,
bẩn, một số vị trí cịn khơng có chỗ treo khăn, tuy nhiên dung dịch rửa tay lại có rất
đầy đủ. Có đến 80% buồng bệnh hoặc hành lang đã được lắp đặt bình đựng dung
dịch sát khuẩn tay nhanh chứa cồn phục vụ nhu cầu VSBT của NVYT.

14


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Bác sỹ, Điều dưỡng, NHS, KTV đang công tác tại
các khoa Lâm sàng, (Khoa Nội-HSCC, Khoa Ngoại, Khoa Truyền nhiễm,
Khoa YHCT, Khoa Khám bệnh, Khoa Nhi, Khoa Liên khoa, khoa Sản, Khoa Xét
nghiệm) của Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp.
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: Từ tháng 6 năm 2020 đến tháng 9 năm
2020.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tiến cứu;
- Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trước sau can thiệp
- Vật liệu nghiên cứu:
+ Khảo sát kiến thức và thái độ về VST của NVYT được thực hiện bằng
phương pháp phát phiếu tự điền (bộ câu hỏi).
+ Đánh giá tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay (rửa tay , sát khuẩn tay) của NVYT được
thực hiện bằng phương pháp quan sát (bảng kiểm)
2.3. Chọn mẫu và cỡ mẫu
Chọn mẫu toàn bộ: 63 Bác sỹ và Điều dưỡng, NHS, KTV đang công tác tại
các khoa lâm sàng (Khoa Nội-HSCC, Khoa Ngoại, Khoa Truyền nhiễm, Khoa
YHCT, Khoa Khám bệnh, Khoa Nhi, Khoa Liên khoa, khoa Sản) của Bệnh viện đa
khoa huyện Sốp Cộp.
2.4. Tiêu chí chọn mẫu:
- Nhân viên y tế làm công tác chuyên môn hoặc tiếp xúc với bệnh nhân theo
5 thời điểm của WHO
- Loại trừ mẫu: Những trường hợp nghỉ ốm, thai sản, công tác và đi học dài
hạn, ngắn hạn.
15


2.5. Xử lý và phân tích dữ kiện
- Sử lý số liệu bằng phương pháp thống kê thông thường để phân tích kết quả.

- Phân tích số liệu: Các kỹ thuật thống kê sử dụng là tính tỷ lệ phần trăm, trung
bình chung.
2.6. Cách thức tiến hành nghiên cứu
2.6. Cách thức tiến hành nghiên cứu
Đánh giá kiến thức và thái độ về vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế trước và
sau can thiệp được thực hiện bằng phương pháp phát phiếu điền, sử dụng bộ công
cụ đánh giá kiến thức và thái độ về vệ sinh bàn tay gồm những câu hỏi tự điền.
Đánh giá tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế được thực hiện bằng
phương pháp quan sát điền vào bảng kiểm (quan sát không tham gia). Các
quan sát viên sử dụng bộ công cụ và cách đánh giá sự tuân thủ rửa tay (được xây
dựng dựa trên bộ công cụ và cách tiến hành đánh giá tuân thủ vệ sinh tay đã được
chuẩn hóa của Tổ chức Y tế thế giới thực hiện trên khắp các bệnh viện toàn thế
giới) chọn vị trí quan sát khơng gây sự chú ý đối với NVYT và quan sát các đối
tượng thực hiện những thao tác chăm sóc, điều trị bệnh nhân tại buồng bệnh hoặc
giường bệnh trong khoa.
Thời gian của mỗi lần giám sát là 20±10 phút (tùy thuộc vào thao tác chăm
sóc NVYT thực hiện trên người bệnh), nếu hết thời gian quan sát NVYT chưa kết
thúc thao tác chăm sóc bệnh nhân, thì quan sát viên tiếp tục quan sát cho tới khi
NVYT hồn thành thao tác chăm sóc đó, NVYT chỉ được ghi nhận có VSBT khi
thực hiện quy trình này tại các vị trí VSBT trong buồng bệnh và tại nơi có dụng cụ
VTBT.
Tại mỗi khoa tiến hành giám sát vào hai thời điểm 7h30 đến 10h sáng và 14h
đến 16h chiều hoặc vào các thời điểm đặc biệt khác. Nghiên cứu được tiến hành
theo 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Tiến hành đánh giá kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay
của NVYT tại BV (tháng 6 năm 2020).
Giai đoạn 2: Can thiệp (tháng 7/2020)

16



Giai đoạn 3: Đánh giá kiến thức thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT
tại BV sau can thiệp (tháng 8/2020 - 9 / 2020)
Tổ chức đánh giá sau can thiệp.
+ Rửa tay đúng: Rửa tay với nước và xà phòng hoặc với dung dịch sát khuẩn
tay nhanh theo đúng quy trình vệ sinh bàn tay gồm 6 bước của Bộ Y tế trong Công
văn Số: 7517/BYT- ĐTr ngày 12 tháng 10 năm 2007 về việc Hướng dẫn thực hiện
Quy trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn.
+ Rửa tay: Rửa tay dưới bất kỳ hình thức nào đúng hoặc khơng đúng
theo quy trình vệ sinh bàn tay gồm 6 bước của Bộ Y tế trong Công văn Số:
7517/BYT- ĐTr ngày 12 tháng 10 năm 2007 về việc Hướng dẫn thực hiện Quy
trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn.
+ Thời gian thực hiện vệ sinh tay với nước và xà phòng là khoảng 45 - 60
giây, với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn là từ 20 đến 30 giây.
+ Các cơ hội rửa tay trong phạm vi nghiên cứu:
1. Trước khi chuẩn bị dụng cụ
2. Trước khi chuẩn bị thuốc
3. Trước khi khám hoặc chăm sóc người bệnh
4. Trước khi làm thủ thuật xâm lấn
5. Trước khi đi găng
6. Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng người bệnh
7. Sau khi làm thủ thuật xâm lấn
8. Sau khi tháo găng
9. Sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ bẩn và máu, dịch và các chất bài tiết.
10. Sau khi khám hoặc chăm sóc bệnh nhân

Chương 3
17



KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 1: Về nhóm tuổi người tham gia nghiên cứu

Object 3

Nhận xét:
Qua Biểu đồ ta thấy số người trong nhóm nghiên cứu có độ tuổi từ 23 đến 35
tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 57,1%; Nhóm người có độ tuổi từ 36 đến 50 chiếm tỷ lệ
38,1%; Nhóm người có độ tuổi > 50 chiếm tỷ lệ 4,8%;
Biểu đồ 2: Về giới

Object 5

Nhận xét: Theo biểu đồ ta thấy, số người tham gia khảo sát thì nam chiếm
tỷ lệ 31,7%; nữ chiếm tỷ lệ 68,3%.
Biểu đồ 3: Nghề nghiệp của người được khảo sát
18


Object 7

Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy, số cán bộ tham gia khảo sát thì bác sĩ chiếm
tỷ lệ 34,9%; điều dưỡng chiếm tỷ lệ 52,4%; Hộ sinh chiếm tỷ lệ 11,1%; kỹ thuật
viên chiếm tỷ lệ 1,6%;
Biểu đồ 4: Trình độ chun mơn của người được khảo sát

Object 9

Nhận xét: Theo biểu đồ ta thấy, số người tham gia khảo sát có trình độ sau

đại học chiếm tỷ lệ 7,9%; trình độ đại học chiếm tỷ lệ 38,1%; trình độ cao đẳngtrung cấp chiếm tỷ lệ 54%;
Biểu đồ 5: Thời gian công tác tại bệnh viện của người được khảo sát

19


Object 11

Nhận xét: Theo biểu đồ ta thấy cán bộ công tác dưới 10 năm chiếm tỷ lệ
63,5%; cán bộ công tác từ 11 -25 năm chiếm tỷ lệ 31,7%; cán bộ công tác > 25 năm
chiếm tỷ lệ 4,8%;
3.2. Kết quả khảo sát trước khi tập huấn
3.2.1. Đánh giá kiến thức về Vệ sinh bàn tay
Biểu đổ 6: Tác nhân gây nhiễm khuẩn và tác dụng của việc chấp hành
vệ sinh bàn tay?

Object 13

20


Nhận xét:
Qua bảng số 01 ta thấy, khi được hỏi Bàn tay của NVYT là tác nhân quan
trọng trong việc lây truyền Nhiễm khuẩn bệnh viện? Số người trả lời cho là đúng
chiếm tỷ lệ 79,4%; Số người trả lời cho là sai chiếm tỷ lệ 19%; Số người trả lời là
không biết chiếm tỷ lệ 1,6%;
NVYT tuân thủ đúng quy trình rửa tay sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm
khuẩn ở người bệnh và chính bản thân mình? Số người trả lời cho là đúng chiếm tỷ
lệ 93,7%; Số người trả lời cho là sai chiếm tỷ lệ 4,8%; Số người trả lời là không
biết chiếm tỷ lệ 1,6%;

Rửa tay đúng quy trình là phương pháp đơn giản, hiệu quả để phòng ngừa
nhiễm khuẩn bệnh viện? Số người trả lời cho là đúng chiếm tỷ lệ 71,4%; Số người
trả lời cho là sai chiếm tỷ lệ 23,8%; Số người trả lời là không biết chiếm tỷ lệ 4,8%.
Khoảng 7% găng sạch bị thủng ngay sau khi xuất xưởng? Số người trả lời
cho là đúng chiếm tỷ lệ 61,9%; Số người trả lời cho là sai chiếm tỷ lệ 27%; Số
người trả lời là không biết chiếm tỷ lệ 11,1%;
Mang găng sạch là biện pháp thay thế cho rửa tay? Số người trả lời cho là
đúng chiếm tỷ lệ 30,2%; Số người trả lời cho là sai chiếm tỷ lệ 66,6%; Số người trả
lời là không biết chiếm tỷ lệ 3,2%;
Rửa tay thường quy loại bỏ hầu hết vi sinh vật thường trú trên da bàn tay?
Số người trả lời cho là đúng chiếm tỷ lệ 77,8%; Số người trả lời cho là sai chiếm tỷ
lệ 20,6%; Số người trả lời là không biết chiếm tỷ lệ 1,6%.
Mức độ ô nhiễm bàn tay của NVYT phụ thuộc vào thời gian thực hiện thao
tác trên người bệnh? Số người trả lời cho là đúng chiếm tỷ lệ 58,7%; Số người trả
lời cho là sai chiếm tỷ lệ 31,7%; Số người trả lời là không biết chiếm tỷ lệ 9,5%;

21


Biểu đồ 7: Các thời điểm rửa tay, phương pháp và loại hóa chất rửa tay
như thế nào cho đúng và thích hợp nhất?

Object 15

Nhận xét:
Qua biểu đồ ta thấy khi được hỏi các thời điểm rửa tay sau đây, chúng ta cần
phải sử dụng loại hóa chất rửa tay như thế nào cho đúng và thích hợp nhất?
Sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu, dịch và các chất bài tiết của
người bệnh, số người chọn rửa tay bằng nước và xà phòng chiếm tỷ lệ 68,3%; Số
người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát khuẩn chiếm tỷ lệ 31,7%.

Trước khi đi găng sạch số người chọn rửa tay bằng nước và xà phòng chiếm
tỷ lệ 71,4%; Số người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát khuẩn chiếm tỷ lệ 28,6%.
Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng người bệnh, số người
chọn rửa tay bằng nước và xà phòng chiếm tỷ lệ 41,3%; Số người chọn Rửa tay
bằng cồn/dd sát khuẩn chiếm tỷ lệ 53,9%. Số người trả lời không biết chiếm tỷ lệ
4,8%.
Bất cứ thời điểm nào bàn tay NVYT xuất hiện vết bẩn, số người chọn rửa tay
bằng nước và xà phòng chiếm tỷ lệ 63,5%; Số người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát
khuẩn chiếm tỷ lệ 33,3%. Số người trả lời không biết chiếm tỷ lệ 3,2%.
22


Ngay sau khi bàn tay bị rủi ro do vật sắc nhọn, số người chọn rửa tay bằng
nước và xà phòng chiếm tỷ lệ 50,8%; Số người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát
khuẩn chiếm tỷ lệ 49,2%.
Sau khi khám bụng cho một người bệnh nội khoa, số người chọn rửa tay
bằng nước và xà phòng chiếm tỷ lệ 50,8%; Số người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát
khuẩn chiếm tỷ lệ 49,2%. Số người trả lời không biết chiếm tỷ lệ 1,6%.
Trước khi tiêm bắp cho người bệnh, số người chọn rửa tay bằng nước và xà
phòng chiếm tỷ lệ 14,3%; Số người chọn Rửa tay bằng cồn/dd sát khuẩn chiếm tỷ
lệ 84,1%. Số người trả lời không biết chiếm tỷ lệ 1,6%.
Biểu đồ 8: Thời gian tối thiểu để VST với dung dịch chứa cồn theo
khuyến cáo của WHO?

Object 17

Nhận xét:
Qua biểu đồ trên ta thấy, khi được hỏi Nếu VST với dung dịch chứa cồn thì
thời gian tối thiểu để VST theo khuyến cáo của WHO là bao nhiêu?Số người chọn
thời gian 10 - 15 giây chiếm tỷ lệ 46,1%; Số người chọn thời gian 20 - 30 giây

chiếm tỷ lệ 36,5%; Số người chọn thời gian 30 - 40 giây chiếm tỷ lệ 7,9%; Số
người chọn thời gian 50 - 60 giây chiếm tỷ lệ 9,5%.
23


Biểu đồ 9: Thời gian tối thiểu để rửa tay với xà bông với nước?

Object 20

Nhận xét:
Qua biểu đồ trên ta thấy, khi được hỏi Nếu rửa tay với xà bông với nước, thì
thời gian rửa tay tối thiểu là bao nhiêu ? Số người chọn thời gian 10 - 15 giây
chiếm tỷ lệ 1,6%; Số người chọn thời gian 15 - 20 giây chiếm tỷ lệ 19%; Số người
chọn thời gian 30 - 40 giây chiếm tỷ lệ 46,1%; Số người chọn thời gian 50 - 60 giây
chiếm tỷ lệ 33,3%.
Biểu đồ 10: Thời điểm bắt buộc phải vệ sinh tay khi chăm sóc người
bệnh?

Object 23

Nhận xét: Qua biểu đồ trên ta thấy, khi được hỏi Có mấy thời điểm bắt buộc
phải vệ sinh tay khi chăm sóc người bệnh? Số người trả lời 3 thời điểm chiếm tỷ lệ
23,8%; Số người trả lời 4 thời điểm chiếm tỷ lệ 27%; Số người trả lời 5 thời điểm
chiếm tỷ lệ 30,2%; Số người trả lời 6 thời điểm chiếm tỷ lệ 19%;
24


Biểu đồ 11. Hình thức rửa tay nào có tác dụng diệt vi khuẩn trên bàn tay
tốt nhất?


Object 25

Nhận xét:
Qua biểu đồ trên ta thấy, khi được hỏi Hình thức rửa tay nào có tác dụng
diệt vi khuẩn trên bàn tay tốt nhất? Số người trả lời xà phòng + nước chiếm tỷ lệ
55,6%; Số người trả lời Cồn/dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn chiếm tỷ lệ 44,5%;
Số người trả lời không biết chiếm tỷ lệ 0%.
Biểu đồ 12. Thời điểm nào sau đây không nằm trong hướng dẫn của
WHO?

Object 27

25


×