Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.45 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
*****

NGUYỄN ĐỨC VINH

PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số
: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.,TS. MAI HỒNG QUỲ

TP. Hồ Chí Minh - 2006


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT (TIẾNG VIỆT)
CNXH

Chủ nghóa xã hội

CNH

Công nghiệp hoá


ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

HĐH

Hiện đại hoá

KCN

Khu công nghiệp

KCX

Khu chế xuất

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

y ban nhân dân


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT (TIẾNG ANH)
AFTA

Asean Free Trade Area


Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN

AIA

Asean Investment Area

Khu vực đầu tư ASEAN

ANBIP

APEC Non – Binding

Các nguyên tắc đầu tư không

Investment Principles

ràng buộc của APEC

Asea Pacific Economic

Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu

Cooperation

Á – Thái Bình Dương

Association of South East

Hiệp hội các quốc gia Đông


Asian Nations

Nam Á

ASEM

Asia – Europe Meeting

Tiến trình hợp tác Á – u

BIT

Bilateral Investment

Hiệp định đầu tư song phương

APEC
ASEAN

Treatry
BOT/BTO Build – Operate – Transfer/

Xây dựng, Kinh doanh,

/ BT

Build – Transfer – Operate/

Chuyển giao/Xây dựng, chuyển


Build – Transfer

giao, kinh doanh/ Xây dựng,
Chuyển giao

BTA

Bilateral Trade Agreement

Hiệp định Thương mại

EEC

European Economic

Cộng đồng kinh tế Châu u

Community
EU

European Union

Liên minh Châu u

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài


GATS

General Agreement on

Hiệp định chung về thương mại

Trade in Services

dịch vụ

General Agreement on

Hiệp định chung về thương mại

Tariffs and Trade

và thuế quan

International Centre for

Trung tâm quốc tế giải quyết

Settlement of Investment

các tranh chấp về đầu tö

GATT
ICSID


Disputes


IPAP

Investment promotion

Chương trình hành động

Action Plan

về xúc tiến đầu tư

M&A

Merger và Acquisition

Mua lại và sáp nhập

MFN

Most Favoured Nation

Đại ngộ tối huệ quốc

MNC/

Multinational Company/

Công ty đa quốc gia/ Công ty


TNC

Transnational Company

xuyên quốc gia

NAFTA

North American Free Trade

Hiệp định thương mại tự do

Agreement

Bắc Mỹ

NT

National Treatment

Đãi ngộ quốc gia

SL

Sensitive List

Danh mục nhạy cảm

TEL


Temporary Exclusion List

Danh mục loại trừ tạm thời

TRIMs

Trade Related Investment

Hiệp định về các biện pháp đầu

Measures

tư có liên quan đến thương mại

Trade Related Aspects of

Các khía cạnh thương mại có

Intellectual Property Rights

liên quan đến quyền sở hữu trí

TRIPS

tuệ
UNCI-

United Nations


y ban của Liên Hợp Quốc

-TRAL

Commisson on International

về luật Thương mại quốc tế

Trade law
VAT

Value Added Taxe

Thuế giá trị gia tăng

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế vận động chung. Hiện nay,
không quốc gia nào đạt được tốc độ phát triển cao mà không mở của hội
nhập. Đó là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam, trong
việc ban hành chính sách và pháp luật chủ động phục vụ cho yêu cầu mới.
Trong nước, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để đẩy nhanh tiến trình CNHHĐH. FDI là một trong những nguồn vốn mà một nước có thể huy động từ
bên ngoài, với ưu thế dễ huy động, độ ổn định cao, kèm theo chuyển giao

công nghệ, không gây nợ cho nền kinh tế và hiệu quả cao, nguồn vốn FDI
giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với Việt Nam, vì với xuất phát điểm
về kinh tế thấp, Việt Nam rất cần nhiều vốn và công nghệ để đầu tư phát
triển trong điều kiện khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế Việt Nam còn
hạn chế, trình độ công nghệ kém
Dưới ánh sáng Đổi mới từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời từ năm 1987 đã tạo cơ sở pháp
lý thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Gần 20 năm qua, thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả nhất định về qui
mô, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ – lónh vực, tuy nhiên còn quá nhiều hạn
chế, trước hết là về tính gia tăng của tốc độ thu hút, hiệu quả sử dụng… thứ
hai, việc “xé rào” của các cấp, các địa phương trong việc ban hành các
chính sách khuyến khích thu hút đầu tư dẫn đến vi phạm Luật Đầu tư nước
ngoài …. Xét về mặt chủ quan, nguyên nhân cơ bản do môi trường đầu tư
quốc tế của nước ta chưa thật ổn định và hấp dẫn, trước hết là các điều
kiện pháp lý của Việt Nam vì nhiều lý do chưa tiếp cận với chuẩn mực và
thông lệ quốc tế. Quá trình sửa đổi, bổ sung liên tục Luật Đầu tư nước
ngoài qua các năm 1992, 1996, 2000 mang tính đối phó với những phát
sinh khi thực tiễn đặt ra trong quá trình thực thi luật. Điều này không đúng
với chủ trương, không đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển nền kinh tế
được xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 07 của


Bộ Chính trị khóa IX về Hội nhập kinh tế quốc tế và nội dung Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ X là “Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa
dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh các nguồn lực của các
nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành nghề, lónh vực kinh doanh quan
trọng... Đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến mạnh mẽ thủ tục
đầu tư, thực hiện đúng các quy định của Luật Đầu tư và phù hợp với lộ trình
thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta”.

Để đáp ứng cao các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam
trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế đang gia tăng nhanh, nhằm đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp đến năm 2020 tất yếu
đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Chúng ta còn thiếu các công trình nghiên cứu một cách toàn
diện về hướng điều chỉnh pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thông
thoáng nhưng cũng phải chặt chẽ hơn, an ninh kinh tế quốc gia, chính sách
hỗ trợ doanh nghiệp trong nước cần tính đến, song quyền và lợi ích của
nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam cần được đảm bảo. Phải
đưa pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tiến đến chuẩn mực chung
của khu vực và quốc tế là nền tảng quan trọng đảm bảo cho môi trường
đầu tư quốc tế của Việt Nam, là một trong những biện pháp hiểu hiệu duy
trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế Việt Nam, ổn định và liên tục.
Từ những lý do xác đáng trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”
làm Luận văn Thạc só luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có rất nhiều bài viết và công trình nghiên cứu
được công bố dưới giác độ kinh tế, luật học có liên quan đến pháp luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, các công trình:
- Công trình khoa học của tập thể tác giả do PGS.,TS. Mai Ngọc
Cường chủ biên đã được công bố “Hoàn thiện chính sách và tổ chức
thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”. Đây là công khá


toàn diện về Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nhưng xem
xét vấn đề dưới khía cạnh kinh tế vó mô hơn là pháp lý.
- Luận án PTS luật học “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện khung
pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” của Lê Mạnh
Tuấn và Luận án PTS luật học “Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong

lónh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” của Hoàng Phước
Hiệp … Xem xét vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
trong việc kiện toàn và hiệu quả áp dụng pháp luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam.
- Luận văn Thạc só luật học “Chế độ pháp lý của các doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài – thực trạng và giải pháp hoàn thiện”
của Bùi Quốc Kỳ. Luận văn Thạc só luật học “Địa vị pháp lý của
doanh nghiệp liên doanh – một trong những hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam” của Trần Thị Liên. Luận văn Thạc só luật
học “Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật về Đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo phương thức hợp đồng BOT” của Nguyễn Thị Láng
và Luận văn Thạc só luật học “Chế độ pháp lý của doanh nghiệp liên
doanh” của Nguyễn Văn Kiên … Ở đây, hướng nghiên cứu gới hạn đi
sâu vào làm sáng tỏ tính chất pháp lý của từng nội dung cụ thể trong
pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thực trạng, giải
pháp và hướng hoàn thiện.
Do vậy, có thể nói đây là một Luận văn Thạc só luật học nghiên cứu
một cách toàn diện hướng điều chỉnh pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong giai đoạn Việt Nam tham gia sâu, rộng vào hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn đưa ra hướng điều chỉnh cụ thể pháp luật đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định
về FDI trong Luật Đầu tư 2005 và hướng điều chỉnh pháp luật liên quan
đến FDI phù hợp với các quy định về FDI trong khuôn khổ đa phương và
song phương mà Việt Nam là thành viên.


Về mục tiêu nghiên cứu: Luận văn tập trung theo các mục đích nghiên
cứu sau:

- Những nội dung cơ bản đã được bổ sung, điều chỉnh trong pháp luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987- 2005) để tổng kết kinh
nghiệm, xác định các luận cứ khoa học và thực tiễn việc áp dụng
pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
- Giải thích đúng tinh thần của Nhà làm luật về những nội dung mới
trong pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo Luật
Đầu tư 2005.
- Tiếp cận chuẩn mực pháp lý khu vực và quốc tế về đầu tư làm cơ sở
định hướng điều chỉnh pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam theo Luật Đầu tư 2005 trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
(2006 – 2010).
Nhằm mục đích nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ như sau:
- Tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm ở Việt Nam về xây dựng và triển
khai pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm giải thích đúng ý chí
của Nhà làm luật về những điểm mới trong pháp luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam trong Luật Đầu tư 2005.
- Nghiên cứu chuẩn mực pháp lý quốc tế về đầu tư nước ngoài làm
luận cứ định hướng các vấn đề pháp lý về nội dung đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Xác định hướng điều chỉnh cụ thể pháp luật đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghóa Mác-Lênin và các quan điểm, chủ trương, đường lối xây dựng pháp
luật nói chung và trong hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng của Đảng và
Nhà nước Việt Nam làm cơ sở để phân tích, đánh giá. Bên cạnh đó, Luận
văn cũng sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu,
diễn giải, qui nạp và dự báo. Đồng thời, kết hợp nghiên cứu lý luận với



kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng pháp luật đầu tư nước ngoài những
năm vừa qua.
5. Những đóng góp của luận văn
- Đưa ra giải thích đúng chủ trương, chính sách pháp luật về Đầu tư
trực tiếp ngoài ở Việt Nam theo Luật Đầu tư 2005.
- Tài liệu tham khảo đối với việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu
của giáo viên, sinh viên trong trường Luật, Ngoại thương,…
- Căn cứ hướng dẫn thi hành pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam theo đúng tinh thần, nội dung của Luật Đầu tư 2005 và
phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục Luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài và những nội dung, bổ
sung, điều chỉnh trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987 – 2005)
Chương 2: Những nội dung mới của pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam trong Luật Đầu tư năm 2005
Chương 3: Định hướng điều chỉnh pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế (2006-2010)


CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
NHỮNG NỘI DUNG, BỔ SUNG, ĐIỀU CHỈNH TRONG LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM (1987 – 2005)
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM (1987 – 2005)
1.1.1. Điều chỉnh pháp luật trong lónh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam
FDI ngày càng quan trọng, khi số lượng các doanh nghiệp có vốn FDI
càng nhiều, quy mô vốn FDI ngày càng lớn, lónh vực và địa bàn đầu tư

ngày càng mở rộng và tầm ảnh hưởng của nó đối với nước tiếp nhận đầu tư
ngày càng cao. Điều đó, đòi hỏi các nước tiếp nhận vốn FDI đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam phải không ngừng hoàn thiện
khung pháp luật thực định, để điều chỉnh hoạt động FDI phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong tiến trình CNH-HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Điều chỉnh pháp luật trong lónh vực FDI cho phép Nhà nước cũng như
nhà ĐTNN bảo đảm chắc chắn và lường trước được các vấn đề có thể xảy
ra trong hoạt động FDI tại nước tiếp nhận đầu tư.
Việc điều chỉnh các quan hệ ĐTNN và pháp luật ĐTNN phải tuân theo
các nguyên tắc và những đặc trưng của quy luật kinh tế, để đảm bảo cho
các quy định của pháp luật ĐTNN được thực hiện trong cuộc sống theo
đúng dự kiến mong muốn của Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác, cần
phải xác định mức độ, phạm vi các quan hệ ĐTNN nào cần phải điều
chỉnh, để đảm bảo lợi ích quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm
lợi ích của nhà ĐTNN, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn.


Thực tế hoạt động FDI tại Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh
pháp luật trong lónh vực ĐTNN trên tất cả các mức độ, đặc biệt là những
cấp độ chung nhất, có tính vó mô trên toàn lónh vực. Mức độ điều chỉnh
pháp luật trong lónh vực FDI tại Việt Nam phải tạo ra sự “bình đẳng”; “tự
do cạnh tranh” giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà ĐTNN, giới hạn mức độ can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp của các cơ
quan Nhà nước vào hoạt động kinh doanh tự chủ của các nhà ĐTNN và
các doanh nghiệp có vốn FDI dựa trên quy định của Luật Đầu tư.
Điều chỉnh pháp luật trong hoạt động FDI phải dựa trên các quy chế
pháp lý trong lónh vực FDI, đó là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định
địa vị pháp lý của nhà ĐTNN, hình thức đầu tư, các thiết chế bảo đảm đầu
tư, các lónh vực, địa bàn đầu tư, quyền và nghóa vụ của nhà ĐTNN...

Bên cạnh đó, quan hệ ĐTNN có phạm vi rất rộng. Do vậy, điều chỉnh
pháp luật ĐTNN không chỉ dừng lại ở những quy định của Nhà nước tiếp
nhận đầu tư thể hiện chủ quyền quốc gia liên quan đến các nhà ĐTNN với
tư cách là một chủ thể kinh doanh mà còn gồm cả những cam kết vượt ra
khỏi tầm quốc gia. Theo đó, điều chỉnh pháp luật ĐTNN của nước tiếp
nhận đầu tư phải dựa trên các chuẩn mực quốc tế, các cam kết trong khuôn
khổ đa phương và song phương mà quốc gia là thành viên.
Tóm lại, theo tác giả, điều chỉnh pháp luật về ĐTNN được hiểu là tổng
thể những quy định quốc gia và một bộ phận quy định mang tính quốc tế có
liên quan đến hoạt động của nhà ĐTNN với tư cách là các chủ thể kinh
doanh.
Điều chỉnh pháp luật trong lónh vực FDI dựa trên hệ thống quy phạm
pháp luật ĐTNN, quan hệ pháp luật ĐTNN và hoạt động của các cơ quan
Nhà nước trực tiếp quản lý FDI tại Việt Nam.
- Hệ thống các quy phạm pháp luật ĐTNN tại Việt Nam bao gồm Hiến
pháp các đạo luật trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh hoạt động FDI. Ví dụ:


Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại... và các văn bản dưới
luật hướng dẫn hoạt động FDI tại Việt Nam.
- Quan hệ pháp luật ĐTNN điều chỉnh trong lónh vực FDI
Quan hệ pháp luật ĐTNN hình thành trên cơ sở các quy phạm pháp
luật ĐTNN trong Luật Đầu tư và các luật liên quan, bao gồm: chủ thể, nội
dung và khách thể.
+ Theo Luật Đầu tư 2005, chủ thể của quan hệ pháp luật ĐTNN được
mở rộng gồm nhà ĐTNN; doanh nghiệp có vốn ĐTNN ... [36].
+ Quyền và nghóa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật ĐTNN tại Việt
Nam: khi tham gia vào các quan hệ pháp luật chủ thể đó có các quyền và
nghóa vụ trên cơ sở các quy phạm của Luật Đầu tư Việt Nam, các điều ước
quốc tế đa phương, song phương mà Việt Nam là thành viên, hoặc trên cơ

sở kết hợp hai loại quy phạm đó
+ Khách thể quan hệ pháp luật ĐTNN bao gồm: những lợi ích có giá trị
vật chất, hoặc giá trị tinh thần, trong lónh vực FDI tại Việt Nam mà pháp
luật ĐTNN nhằm đạt được; các hoạt động của cơ quan quan lý Nhà nước
và các chủ thể khác trong lónh vực FDI tại Việt Nam; và các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể pháp luật ĐTNN.
- Các cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý FDI tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật: Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về FDI; các Bộ,
Ngành và UBND cấp tỉnh tham mưu giúp Chính phủ quản lý hoạt động
FDI tại Việt Nam.
1.1.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(1987 – 2005)
Quá trình xây dựng và điều chỉnh pháp luật chính sách FDI của Việt
Nam được đánh dấu bằng những cột mốc quan trong sau đây:
Điều lệ ĐTNN tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định
115/1977/NĐ-CP ngày 18/4/1977. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên cuûa


Chính phủ Việt Nam quy định về FDI và cũng là văn bản pháp luật đầu
tiên hướng tới nền kinh tế thị trường, thể chế hoá quan điểm “mở cửa” của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Do được ban hành trong cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp, nên Điều lệ mang tính khái quát, chung chung, khó áp
dụng thống nhất trong thực tiễn và quy định theo hướng thắt chặt, tạo sự
phân biệt đối xử đối với FDI, chưa xây dựng được cơ chế đảm bảo cho
hoạt động của nhà ĐTNN. Cụ thể, Điều lệ có nhiều điểm chưa hấp dẫn
các nhà ĐTNN như quy định xí nghiệp tư doanh chỉ được phép thành lập
với điều kiện chuyên sản xuất hàng xuất khẩu (một điều kiện khắt khe đối
với doanh nghiệp FDI); thời hạn cho phép ĐTNN quá ngắn (từ 10 đến 15
năm kể từ ngày được cấp phép đầu tư); thuế suất thuế lợi tức quá cao
(30%, 40% và 50%) so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực;

chủ đầu nước ngoài bị khống chế, không chủ động trong việc lãnh đạo
công ty hỗn hợp có vốn FDI vì họ chỉ được góp tối đa 49% vốn pháp định;
không quy định rõ việc Nhà nước có quốc hữu hoá các xí nghiệp có vốn
FDI hay không (làm các nhà ĐTNN không an tâm đối với tài sản của
mình); thiếu các qui định về ngân hàng, quản lý ngoại hối, đất đai, lao
động, tài nguyên… Từ những hạn chế kể trên, Điều lệ không phát huy được
tác dụng, trên thực tế không có giấy phép đầu tư nào được cấp theo các
trình tự, thủ tục quy định trong Điều lệ này.
Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành ngày 29/12/1987 (gọi là Luật
ĐTNN 1987) trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới sau Đại
hội là VI của Đảng, nền kinh tế về cơ bản vẫn được quản lý theo nguyên
tắc kế hoạch hóa tập trung chưa có đạo luật về kinh tế theo nguyên tắc
kinh tế thị trường; quan hệ kinh tế đối ngoại vẫn tập trung chủ yếu là Liên
Xô và các nước thuộc Đông u cũ. Do vậy, Luật ĐTNN 1987 được xây
dựng như là đạo luật kết hợp giữa luật chung và luật chuyên ngành, qui
định không chỉ những vấn đề có tính nguyên tắc mà cả những vấn đề cụ
thể liên quan đến việc tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
FDI trên nhiều lónh vực khác nhau. So với Điều lệ ĐTNN 1977, Luật


ĐTNN 1987 đã tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với
tập quán và luật pháp quốc tế, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ
cho hoạt động FDI tại Việt Nam. Điều 2 Luật ĐTNN 1987 đã nêu 12 khái
niệm quan trọng, tạo điều kiện nhận thức và áp dụng thống nhất. Bên cạnh
đó, luật quy định cụ thể các vấn đề như đối tượng hợp tác đầu tư với nước
ngoài, lónh vực khuyến khích đầu tư, hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm
đầu tư, thuế, vốn pháp định, chế độ kế toán thống kê, bảo hiểm, thời hạn
đầu tư… Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 139/1988/NĐ-CP ngày
5/9/1988 và 27 văn bản hướng dẫn thực hiện Luật ĐTNN 1987.
Hạn chế trong Luật ĐTNN 1987 là phân biệt đối xử như: chỉ tập trung

hướng dẫn xí nghiệp có vốn FDI; giới hạn tư nhân phải chung vốn với tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân để thành bên Việt Nam; chỉ có xí
nghiệp liên doanh được miễn giảm thuế lợi tức và chuyển lỗ; nguyên tắc
nhất trí được áp dụng đối với việc quyết định các vấn đề quan trọng nhất
trong tổ chức và hoạt động của xí nghiệp liên doanh; Tổng Giám đốc hoặc
phó Tổng giám đốc thứ nhất phải là công dân Việt Nam; thời hạn hoạt
động của xí nghiệp có vốn FDI không quá 20 năm, trong trường hợp cần
thiết thời hạn này có thể kéo dài những luật không quy định kéo dài thêm
bao lâu và cơ quan nào có thẩm quyền quyết định việc kéo dài.
Luật sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành ngày
30/6/1990 góp phần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về FDI tại Việt
Nam. Luật sửa đổi, bổ sung tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: xác định
rõ ràng, cụ thể hơn khái niệm và nội dung quan hệ trong các doanh nghiệp
liên doanh; cho phép tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được trực tiếp hợp
tác đầu tư với nước ngoài. Bổ sung hình thức ĐTNN là hình thức hợp tác
và liên doanh nhiều bên, liên doanh tiếp. Sau đó, nhiều văn bản pháp luật
có liên quan đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Điều này làm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường FDI tại Việt Nam. Có
thể khẳng định, sau khi Luật ĐTNN sửa đổi năm 1990 được ban hành, hoạt
động FDI tại Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, đánh dấu sự thaønh


công của chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Tuy nhiên, Luật ĐTNN sửa đổi 1990 chưa khắc phục hết những hạn
chế của Luật ĐTNN 1987. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế – xã hội của
Việt Nam trong những năm đầu thập niên 90 có nhiều chuyển biến tích
cực, đòi hỏi hệ thống pháp luật đối với FDI phải tiếp tục được hoàn thiện.
Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành ngày
23/12/1992. So với lần sửa đổi, bổ sung năm 1990 có những nội dung, tính
chất phù hợp với xu thế tự do hoá FDI như: mở rộng phạm vi tham gia FDI

của phía Việt Nam; mở ra các phương thức thu hút FDI mới (KCX, BOT);
đưa ra các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam và Nhà nước
Việt Nam; Nhà nước cam kết bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự
thay đổi của pháp luật; tăng thời hạn đầu tư tối đa từ 50 năm lên đến 70
năm; cho phép doanh nghiệp có vốn FDI mở tài khoản vốn vay tại ngân
hàng ở nước ngoài; xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế lợi tức giữa doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Trên cơ sở Luật
sửa đổi bổ sung luật ĐTNN Chính phủ ban hành Nghị định 18/1993/NĐ-CP
ngày 14/4/1993 để hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, luật sửa đổi lần này vẫn
còn những rào cản đối với FDI như hạn chế góp vốn bằng nguồn tài
nguyên; tăng dần tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam; thủ tục thành lập
vẫn phức tạp …
1.1.2.1. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996
Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành ngày 12/11/1996. Ra đời trước sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế- xã hội của đất nước, trước sức ép cạnh
tranh thu hút FDI ngày càng mạnh giữa các nước trên thế giới, Luật ĐTNN
1987 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN năm 1990 và 1992 tỏ ra nhiều
bất cập. Ngày 12 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Luật ĐTNN
tại Việt Nam, Luật mới được xây dựng theo hướng tiếp tục tạo môi trường
pháp lý hấp dẫn, thể hiện tinh thần nhất quán và liên tục trong chính sách
thu hút FDI của Việt Nam. Luật ĐTNN năm 1996 được ban hành trong bối
cảnh hệ thống pháp luật về kinh tế của Việt Nam đầy đủ hơn. Tiếp đến,


Chính phủ ban hành Nghị định 12/1997/NĐ-CP ngày 18/2/1997 để hướng
dẫn chi tiết thi hành Luật ĐTNN 1996 và một hệ thống các văn bản hướng
dẫn thực hiện, các văn bản đó phù hợp với xu hướng tự do hoá FDI và tạo
thuận lợi hơn cho hoạt động FDI như:
- Quy định cụ thể những lónh vực, địa bàn khuyến khích, đặc biệt khuyến
khích FDI; lónh vực đầu tư có điều kiện, lónh vực không cấp giấy phép đầu

tư;
- Đa dạng hóa các phương thức đầu tư (BTO, BT);
- Mở rộng và quy định cụ thể hơn các đối tượng được phép tham gia vào
hoạt động FDI: cho phép bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu của Việt
Nam được hợp tác đầu tư với nước ngoài; cho phép doanh nghiệp liên
doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập doanh nghiệp
liên doanh mới;
- Mở rộng hình thức góp vốn: cho phép bên nước ngoài góp vốn bằng tiền
Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam;
- Nới lỏng hạn chế về ngoại hối: Nhà nước Việt Nam đảm bảo hỗ trợ cân
đối ngoại tệ cho các công trình hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập
khẩu thiết yếu và các công trình quan trọng khác;
- Thu hẹp các vấn đề cần phải biểu quyết theo nguyên tắc nhất trí trong
hội đồng quản trị;
- Quy định cụ thể mức thuế lợi tức đối với trường hợp chuyển nhượng vốn
có phát sinh lợi nhuận;
- Cho phép doanh nghiệp có vốn FDI mở chi nhánh ngoài tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính;
- Quy định rõ hơn quyền, chức năng và việc phối hợp giữa các cơ quan
quản lý Nhà nước về FDI và các Bộ, Ngành, UBND cấp tỉnh;


- Bổ sung quyền khiếu nại, khởi kiện cho các nhà ĐTNN, doanh nghiệp có
vốn FDI đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật gây khó khăn,
phiền hà của cơ quan nhà nước, viên chức Nhà nước;
- Mở rộng các đầu mối cấp Giấy phép đầu tư cho một số, sau đó là tất cả
UBND các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương và Ban quản lý KCN
cấp tỉnh.
Một thực tế, do xuất phát từ chủ trương không thu hút FDI tràn lan nên
Luật ĐTNN năm 1996 vẫn còn những quy định thắt chặt kiểm soát và thu

hẹp một số biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Ví dụ như loại bỏ qui
định đương nhiên và đồng loạt hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho
phần lợi nhuận tái đầu tư; thu hẹp phạm vi hàng hóa miễn thuế nhập khẩu
của các dự án FDI; tăng cường quản lý Nhà nước đối nước FDI như giám
định, nghiệm thu, quyết toán công trình, đấu thầu, kiểm toán... Chính vì
vậy, Luật ĐTNN năm 1996 không được các nhà ĐTNN đón nhận nhiệt
tình. Từ sau năm 1997, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển
biến phức tạp, vốn FDI giai đoạn 1997 – 1999 đăng ký liên tục giảm và
cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt giữa các nước trong khu vực
ASEAN. Nhiều nước trên thế giới đã cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư
theo hướng dành nhiều ưu đãi hơn cho FDI. Điều này làm tăng sức ép cạnh
tranh và là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tiếp
tục có những biện pháp quan trọng để cải thiện, nâng cao sức cạnh tranh
của môi trường FDI. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định 10/1998/NĐ
– CP ngày 23/1/1998 với những quy định phù hợp với xu hướng tự do hóa
FDI như:
- Quy định việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà ĐTNN trong
trường hợp có thay đổi luật pháp, chính sách;
- Quy định cụ thể các lónh vực không cấp phép đầu tư; các lónh vực đầu tư
có điều kiện; các lónh vực khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư; địa
bàn khuyến khích đầu tư FDI;


- Cải tiến thủ tục đầu tư: bỏ việc xin Giấy phép kinh doanh hoặc ngành
nghề; quy định rõ trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng; rút ngắn thời
gian cấp giấy phép đầu tư.
Quyết định 53/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ ngày 26/03/1999 về
một số biện pháp khuyến khích FDI là văn bản đánh dấu việc xoá bỏ cơ
chế hai giá đối với dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, phù hợp với yêu
cầu của tự do hóa FDI. Cụ thể quyết định yêu cầu điều chỉnh giá bán điện

theo hướng giảm bớt, thống nhất giá cước điện thoại, viễn thông, lệ phí
thành lập văn phòng đại diện và một số loại biểu phí khác đối với doanh
nghiệp có vốn FDI và nhà ĐTNN như mức đối với doanh nghiệp trong
nước và người Việt Nam được áp dụng từ 1/7/1999 đã giúp cải thiện một
phần môi trường đầu tư tại Việt Nam.
1.1.2.2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 2000
Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000 đã luật hóa các quy định của
Nghị định 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 và Quyết định 53/QĐ-TTg năm
1999, đồng thời đưa thêm nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng
mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Để cụ
thể hóa Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000, Chính phủ ban hành Nghị
định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 nhằm tăng cường và nâng cao hiệu
quả hoạt động FDI, Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 28/8/2001 đề ra các biện
pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và mở rộng ưu đãi đầu tư. Các quy
định của các văn bản trên đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong
nước và FDI, tạo thế chủ động cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập và
đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt
Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước
trong khu vực. Đặc biệt, có nhiều quy định được sửa đổi theo hướng xóa bỏ
dần hạn chế, tiến tới tự do hóa FDI. Cụ thể là:
- Phạm vi áp dụng nguyên tắc nhất trí tiếp tục được thu hẹp;


- Doanh nghiệp có vốn FDI và các bên hợp doanh trong quá trình hoạt
động được chuyển đổi hình thức đầu tư, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách;
- Tiếp tục nới lỏng hạn chế về ngoại hối: Doanh nghiệp có vốn FDI, các
bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ tại ngân
hàng thương mại để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch
được phép khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, doanh

nghiệp có vốn FDI trong trường hợp đặc biệt nếu được sự chấp thuận của
ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể mở tài khoản ở nước ngoài;
- Xóa bỏ các hạn chế về chuyển nhượng vốn: không phải xin phép cơ
quan quản lý Nhà nước; không bắt buộc doanh nghịêp 100% vốn nước
ngoài phải ưu tiên chuyển nhượng cho bên Việt Nam; xoá bỏ việc miễn
giảm thuế trong trường hợp chuyển nhượng cho các doanh nghiệp Việt
Nam;
- Cho phép cả doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng được chuyển lỗ và
bù lỗ bằng lợi nhuận của các năm sau;
- Bỏ qui định bắt buộc dành một phần lợi nhuận để lập quỹ dự phòng;
- Giảm thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài;
- Tiếp tục xóa bỏ các hạn chế liên quan đến đất đai, qui định rõ trách
nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng, mở rộng phạm vi các ngân hàng được
nhận giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất của doanh
nghiệp có vốn FDI làm tài sản thế chấp để cho vay vốn (tất cả các tổ chức
tín dụng được phép hoạt động ở Việt Nam thay cho các tổ chức tín dụng
Việt Nam theo quy định trước đây).
Ngày 19/3/2003 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 27/2003/NĐCP nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày
31/7/2000. Môi trường FDI tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện, tăng
cường tính hấp dẫn đối với nhà ĐTNN như:


- Mở rộng và quy định cụ thể hơn các đối tượng tham gia hoạt động FDI tại
Việt Nam;
- Quy định rõ hơn các nội dung và thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp có vốn
FDI;
- Bỏ quy định khống chế tỷ lệ tối đa giá trị công nghệ chuyển giao dùng để
góp vốn so với vốn pháp định;
- Cho phép doanh nghiệp có vốn FDI và các bên hợp doanh được trực tiếp
tuyển dụng lao động Việt Nam thay vì việc phải tuyển dụng lao động

thông qua các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam trước đây;
- Nới lỏng các điều kiện đối với dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép
đầu tư.
Cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật ĐTNN, các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng được các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung theo tinh
thần Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000 cơ chế chính sách FDI của
Việt Nam được sửa đổi cho phù hợp với hành lang pháp lý và với thực tiễn
hoạt động FDI. Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000 đã có những quy
định bảo đảm an toàn cho vốn đầu tư và quyền tự chủ kinh doanh của các
nhà ĐTNN, đồng thời cũng đảm bảo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, tuân
thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng và cùng có lợi. Pháp luật về FDI vừa
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam, vừa từng bước đáp ứng
yêu cầu và thông lệ quốc tế. Các qui định của các văn bản trên đã tạo điều
kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và FDI tạo thế chủ động cho Việt
Nam trong tiến trình hội nhập và đảm bảo cam kết quốc tế, làm cho môi
trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước
đây và so với một số nước trong khu vực.
1.2. LUẬN CỨ KHOA HỌC VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ SỰ
CẦN THIẾT HOÀN CHỈNH PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM


1.2.1. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật đầu tư trực nước ngoài
tại Việt Nam (1987 – 2005)
1.2.1.1. Những nội dung phù hợp
Một, các hạn chế đối với FDI được từng bước dỡ bỏ. Cụ thể:
- Đối với việc tiếp nhận và thành lập doanh nghiệp có vốn FDI: về cơ bản
các nhà ĐTNN được tự quyết định trong việc tiếp cận thị trường Việt Nam.
Điều 3 Luật ĐTNN 1987 qui định “các nhà ĐTNN được đầu tư vào Việt
Nam trong các lónh vực của nền kinh tế quốc dân”ø nội dung và tinh thần

này được giữ nguyên trong luật ĐTNN 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật
ĐTNN 2000. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước
Việt Nam đưa ra danh mục lónh vực đầu tư có điều kiện và lónh vực không
cấp giấp phép đầu tư. Danh mục lónh vực không cấp giấy phép đầu tư của
Việt Nam theo quy định của Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 là
hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế. Danh mục lónh vực đầu tư có điều
kiện cũng đã được đơn giản hoá. Việc cấp giấy phép đầu tư không còn tập
trung vào một đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND cấp tỉnh và Ban
quản lý KCN cấp tỉnh cũng được quyền cấp giấy phép đầu tư (thẩm định
cấp phép) thì nay có thêm chế độ đăng ký cấp phép. Thời gian xem xét
cấp giấy phép đầu tư được xem xét rút gọn hơn.
Từ năm 2000, FDI tại Việt Nam được phép tiến hành dưới nhiều hình
thức chia tách, sáp nhập, hợp nhất. Hình thức và phương thức đầu tư từng
bước được đa dạng hóa tạo cho nhà ĐTNN nhiều sự lựa chọn hơn.
Đối tượng tham gia vào hoạt động FDI được mở rộng. Theo quy định
của Luật ĐTNN năm 1987, đối tượng tham gia vào hoạt động FDI gồm hai
bên là bên Việt Nam và bên nước ngoài, trong đó bên Việt Nam chỉ bao
gồm các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân (tư nhân Việt
Nam muốn tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài phải chung vốn với tổ
chức Việt Nam thành bên Việt Nam). Nay theo quy định của Luật ĐTNN
1996 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000, đối tượng tham gia hợp


tác FDI là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế của Việt Nam;
các cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học ở
trong nước đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định; doanh nghiệp có
vốn FDI; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT [33], [34], [42].
- Về vốn và quyền kiểm soát của nhà ĐTNN: quy định về tỷ lệ phần trăm
vốn góp tối thiểu của nhà đầu tư được nới lỏng (trước đây các nhà ĐTNN

không được góp ít hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn FDI,
Luật ĐTNN 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN 2000 tỷ lệ góp vốn
có thể thấp đến 20% nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan Nhà nước).
Tỷ lệ vốn pháp định trên tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp có vốn
FDI cũng có thể giảm xuống thấp hơn (trước đây mức tối thiểu là 30%,
theo Luật ĐTNN 1996 và Luật sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN 2000 có thể
giảm xuống 20%). Hình thức góp vốn được mở rộng (các nhà ĐTNN được
góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại Việt Nam). Các vấn
đề phải biểu quyết theo nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của
doanh nghiệp liên doanh được thu hẹp chỉ còn hai vấn đề. Bên nước ngoài
không còn phải ưu tiên chuyển nhượng vốn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Hợp đồng chuyển nhượng vốn không cần sự xem xét phê duyệt của cơ
quan cấp giấy phép đầu tư như theo Luật ĐTNN 1987.
- Hoạt động của các dự án FDI:
+ Tuyển dụng lao động: các doanh nghiệp có vốn FDI, các bên hợp
doanh được trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam và lao động nước
ngoài từ năm 2003.
+ Thương mại: Doanh nghiệp có vốn FDI được mở chi nhánh ngoài
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính,
được phép mua hàng ở Việt Nam để xuất khẩu…
+ Chính sách quản lý ngoại hối đối với hoạt động FDI có sự điều
chỉnh, sửa đổi theo chuẩn mực quốc tế. Doanh nghiệp có vốn FDI và bên


hợp doanh nước ngoài được mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản đồng Việt
Nam. Doanh nghiệp có vốn FDI cũng có thể mở tài khoản ở ngân hàng
nước ngoài nhưng phải xin phép ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các
doanh nghiệp có vốn FDI, bên hợp doanh nước ngoài không còn phải tự
đảm bảo nhu cầu về ngoại tệ như trước đây nữa mà được mua ngoại tệ của
các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng cho các giao

dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo quy định của pháp luật
về quản lý ngoại hối. Doanh nghiệp có vốn FDI, bên hợp doanh nước
ngoài không bị bắt buộc phải bán một phần ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai
cho ngân hàng.
+ Chuyển giao công nghệ: các bên tham gia vào hoạt động FDI ở Việt
Nam được góp vốn dưới dạng máy móc, thiết bị, phát minh sáng chế trên
cơ sở chuyển giao công nghệ. Giá trị chuyển giao công nghệ trước đây bị
khống chế tỷ lệ phần trăm tối đa so với tổng vốn pháp định của doanh
nghiệp FDI nhưng nay hoàn toàn do các bên thoả thuận.
+ Chính sách giá: quyết định 53/QĐ-TTg/1999 của Thủ tướng Chính
phủ đã xóa bỏ cơ chế hai giá đối với dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại Việt
Nam. Từ 1/7/1999 giá các loại dịch vụ được từng bước điều chỉnh theo
hướng giảm dần chênh lệch và tiến tới áp dụng chung một giá cho khu vực
có vốn FDI và các doanh nghiệp trong nước.
+ Đất đai: các dự án FDI có quyền thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản
thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất (đi thuê hoặc do bên Việt Nam góp
vốn) tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Trường hợp
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư
tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất trả tiền thuê đất cho
cả thời gian thuê, nhà đầu tư có thêm quyền chuyển nhượng quyền thuê
đất và cho thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của mình
trong thời hạn thuê đất; góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thuê và tài
sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác, sản xuất, kinh
doanh trong thời gian thuê đất. Việc cho phép nhà ĐTNN sử dụng giá trị


quyền sử dụng đất thuê để góp vốn là một điểm mới và đảm bảo nguyên
tắc NT đối với các nhà ĐTNN tại Việt Nam (theo Luật ĐTNN 1987 chỉ có
bên Việt Nam được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất). Đặc biệt, các
đối tượng Việt kiều có công với đất nước và những nhà hoạt động văn hóa,

nhà khoa học là Việt kiều có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt
Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, được phép mua nhà ở
gắn liền với đất ở tại Việt Nam và được hưởng các quyền lợi giống như
công dân Việt Nam. Trách nhiệm tổ chức bồi thường giải phóng mặt bằng,
hoàn thành các thủ tục cho thuê đất được quy định rõ ràng hơn. Trường
hợp Nhà nước Việt Nam cho thuê đất, UBND cấp tỉnh nơi có dự án FDI có
trách nhiệm tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, hoàn
thành các thủ tục giao đất, cho thuê đất. Chi phí bồi thường, giải tỏa được
tính vào vốn của dự án, UBND cấp tỉnh thoả thuận với doanh nghiệp được
thuê đất về nguồn tài chính để thực hiện bồi thường, giải tỏa. Trường hợp
bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trách nhiệm này
thuộc về bên Việt Nam với chi phí thực hiện được tính trong phần góp vốn
của bên Việt Nam hoặc do các bên cùng thoả thuận [7]. Khung giá thuê
đất cho các dự án FDI giảm dần.
Hai, các ưu đãi cho nhà ĐTNN mang tính phân biệt đối xử từng bước được
điều chỉnh. Theo Luật ĐTNN 1987 các doanh nghiệp có vốn FDI và bên
nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được hưởng thuế thu
nhập doanh nghiệp theo thuế suất riêng thấp hơn thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Từ năm 2004 ưu
đãi này đã bị xóa bỏ, một Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới được ban
hành áp dụng chung cho cả các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp
có vốn FDI. Đồng thời, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được loại bỏ.
Các chủ ĐTNN không được hoàn thuế thu nhập khi dùng lợi nhuận được
chia từ hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư. Thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao được điều chỉnh theo hướng giảm dần sự khác biệt


giữa các mức thuế áp dụng cho người Việt Nam và các mức thuế áp dụng
cho người nước ngoài.
Ba, phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI

từng bước được xoá bỏ. Nhà nước Việt Nam cam kết đảm bảo đối xử công
bằng và thoả đáng đối với các nhà ĐTNN tại Việt Nam (điều 20 Luật
ĐTNN 1996) phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp có vốn FDI đang từng bước được dỡ bỏ. Việt Nam đã áp dụng NT
cho FDI trong một số lónh vực như giá hàng hóa, dịch vụ…)
- Giải quyết tranh chấp trong đầu tư. Tranh chấp giữa Nhà ĐTNN và Nhà
nước Việt Nam được xem xét giải quyết bằng các BIT mà Việt Nam đã ký
kết với các nước chủ đầu tư. Các giải quyết giữa Nhà nước Việt Nam và
các nhà đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT là loại tranh chấp có đặc thù
riêng, được quy định riêng trong pháp luật Việt Nam. Các tranh chấp này
trước hết phải thông qua thương lượng, hòa giải; nếu không giải quyết
được, các bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết tại một hội đồng Trọng
tài do các bên thỏa thuận thành lập. Thủ tục Trọng tài và pháp luật áp
dụng để giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp thoả thuận trong hợp
đồng. Cách giải quyết tranh chấp như trên là phù hợp với thông lệ quốc tế,
theo đó nhà đầu tư cũng như nước chủ đầu tư có quyền tiếp cận cơ chế giải
quyết tranh chấp trên cơ sở công bằng và bình đẳng.
- Việc chuyển tiền: Việt Nam không hạn chế việc các nhà ĐTNN chuyển
các khoản thu nhập hợp pháp ra khỏi Việt Nam.
- Tính minh bạch: các văn bản pháp luật về FDI đã được sửa đổi theo
hướng ngày càng rõ ràng hơn, cụ thể hơn đảm bảo tính minh bạch để nhà
ĐTNN có thể tiếp cận
- Các biện pháp bảo đảm đầu tư: trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn
và tài sản hợp pháp khác của nhà ĐTNN không bị trưng dụng hoặc tịch thu
bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn FDI không bị quốc hữu
hóa. Quyền sở hữu công nghiệp, các quyền lợi ích hợp pháp của nhà


×