Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tặng cho quyền sử dụng đất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUYỀN TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-----------***-----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN VỀ QUYỀN TẶNG CHO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
Khóa: 35

MSSV: 1055010088


GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. HUỲNH MINH PHƢƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này hồn tồn xuất phát từ q trình nghiên
cứu và quan điểm cá nhân trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu, các cơng trình
nghiên cứu khoa học dƣới sự hƣớng dẫn của thạc sỹ Huỳnh Minh Phƣơng. Mọi
trích dẫn trong khóa luận đều đƣợc chú thích rõ nguồn trong danh mục tài liệu tham
khảo. Nếu có bất kì sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trƣớc Hội
đồng về kết quả khóa luận tốt nghiệp của mình.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Viết đầy đủ

BLDS
GCNQSDĐ

Bộ luật dân sự
Giấy chứng nhận quyền sử

QSDĐ


dụng đất
Quyền sử dụng đất


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. ...............................................................................................................4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT .............................................................................................................................4
1.1. Khái niệm..........................................................................................................4
1.1.1. Tặng cho tài sản ..........................................................................................4
1.1.2. Tặng cho quyền sử dụng đất.......................................................................6
1.1.3. Quyền tặng cho quyền sử dụng đất ............................................................9
1.2. Đặc điểm của quyền tặng cho quyền sử dụng đất ..........................................10
1.3. Ý nghĩa của quyền tặng cho quyền sử dụng đất .............................................12
1.4. Sự phát triển của quy định quyền tặng cho quyền sử dụng đất của pháp luật
đất đai trong hệ thống pháp luật Việt Nam ............................................................14
CHƢƠNG 2. .............................................................................................................18
CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN TẶNG
CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ...............................................................................18
2.1. Các chủ thể có quyền tặng cho quyền sử dụng đất .........................................18
2.1.1. Hộ gia đình, cá nhân .................................................................................18
2.1.2. Tổ chức trong nƣớc ..................................................................................20
2.1.3. Ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài ....................................................23
2.1.4. Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi..................................................24
2.2. Phạm vi thực hiện quyền tặng cho quyền sử dụng đất ...................................25
2.3. Điều kiện để thực hiện quyền tặng cho quyền sử dụng đất ............................27
2.3.1. Giấy chứng nhận ......................................................................................28
2.3.2. Đất khơng có tranh chấp ...........................................................................29

2.3.3. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án .................29
2.3.4. Trong thời hạn sử dụng đất ......................................................................31
2.4. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ...........................................................31
2.4.1. Các loại hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất .......................................31
2.4.2. Hình thức và hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ...........33
2.4.3. Trình tự, thủ tục thực hiện quyền tặng cho quyền sử dụng đất ................36


CHƢƠNG 3. .............................................................................................................40
THỰC TIỄN VỀ QUYỀN TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN – KIẾN NGHỊ HƢỚNG HOÀN
THIỆN .......................................................................................................................40
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tặng cho quyền sử dụng đất qua hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân ..........................................................................40
3.1.1. Tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha, mẹ, con .......................................40
3.1.2. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng đƣợc tặng cho nhập vào khối tài sản
chung của vợ chồng ............................................................................................44
3.2. Hƣớng hoàn thiện pháp luật về quyền tặng cho quyền sử dụng đất – Một số
kiến nghị ................................................................................................................46
KẾT LUẬN ...............................................................................................................50


LỜI MỞ ĐẦU
Thị trƣờng bất động sản là một trong những thị trƣờng quan trọng và có vai trị
nhất định đối với nền kinh tế bởi nó liên quan trực tiếp tới một lƣợng tài sản rất lớn
về cả quy mơ, tính chất cũng nhƣ giá trị. Phát triển và quản lý tốt thị trƣờng bất
động sản, đặc biệt là thị trƣờng QSDĐ là điều kiện quan trọng để sử dụng có hiệu
quả đất đai – nguồn tài sản quý giá thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nƣớc là đại diện
chủ sở hữu. Quán triệt nội dung của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
“Phát triển thị trƣờng bất động sản, trong đó có QSDĐ, tạo điều kiện thuận lợi để

chuyển QSDĐ, mở rộng cơ hội cho các công dân và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đƣợc dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh
doanh”, pháp luật Nhà nƣớc ta đã có những quy định điều chỉnh khá bao quát về
vấn đề này tuy nhiên khi nhắc đến thị trƣờng bất động sản, thị trƣờng QSDĐ thì đa
phần chúng ta sẽ hình dung và liên tƣởng nhiều đến giao dịch chuyển nhƣợng, thế
chấp trong khi giao dịch tặng cho QSDĐ là một giao dịch rất gần gũi và thông dụng
trong cuộc sống nhƣng pháp luật chỉ thực sự ghi nhận quyền tặng cho QSDĐ kể từ
Luật Đất đai năm 2003. Do đó, việc biết đến quyền này và những thủ tục luật định
để thực hiện quyền này ra sao vẫn chƣa thật sự đi sâu vào ý thức của ngƣời dân.
Hơn nữa, QSDĐ với tầm quan trọng là một loại tài sản đặc biệt và có giá trị cao,
đƣợc điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật nhƣ BLDS, Luật đất đai, Luật Nhà ở…
nhƣng lại không có sự thống nhất về một vài vấn đề nên đã gây khơng ít khó khăn
cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách khách quan và toàn diện các quy định
về quyền tặng cho QSDĐ là một vấn đề thiết thực, góp phần dung hịa lợi ích của
Nhà nƣớc và của ngƣời sử dụng đất đồng thời tạo sự đồng bộ trong các quy định
của pháp luật, từ đó mang lại một cái nhìn tổng thể và trung thực nhất cho những ai
quan tâm cũng nhƣ mong muốn tìm hiểu về nội dung này. Đó cũng chính là lý do
tác giả chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tặng cho quyền sử
dụng đất ở Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, thơng qua việc khái qt một số vấn
đề lý luận về quyền tặng cho QSDĐ đồng thời phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật hiện hành và việc áp dụng chúng trong thực tế dƣới góc độ cơng tác xét
xử của Tịa án, tác giả mong muốn tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong các chế
định về quyền tặng cho QSDĐ; làm sáng tỏ thực trạng việc thực hiện quyền tặng
cho QSDĐ để từ đó đƣa ra những kết luận, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các
quy chế pháp lý về vấn đề này.
1



Trƣớc khóa luận tốt nghiệp của tác giả, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu
về mảng đề tài này nhƣ: Nguyễn Hải An, “Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng cho
quyền sử dụng đất”, Luận án Tiến sĩ, Quyết định công nhận nghiên cứu sinh số:
2392/SĐH ngày 29 tháng 6 năm 2007; Nguyễn Hải An, Pháp luật về tặng cho
quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2012; Đỗ Văn Đại (chủ
biên), Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch quyền sử dụng đất, Nxb. Lao
động, 2012; Đỗ Văn Chỉnh, “Tặng cho quyền sử dụng đất – thực tiễn và tồn tại”,
Tạp chí Tịa án nhân dân, tháng 2/2008 (số 3); Hồ Thị Thu Hà, “Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, 2013;…
Do đó, trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin kết hợp vận dụng các phƣơng pháp khoa học nhƣ: so sánh, phân
tích, tổng hợp… tác giả chỉ hi vọng khóa luận tốt nghiệp ở cấp độ cử nhân của mình
có thể mang đến một cái nhìn mới mẻ và có hệ thống cho bạn đọc, đồng thời sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho các học viên, sinh viên trong q trình nghiên
cứu, học tập.
Ngồi lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
đƣợc trình bày với bố cục gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tặng cho quyền sử dụng đất.
Chƣơng 2: Các quy định cụ thể của pháp luật hiện hành về quyền tặng cho
quyền sử dụng đất.
Chƣơng 3: Thực tiễn về quyền tặng cho quyền sử dụng đất qua hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân – Kiến nghị hƣớng hồn thiện.
Do thời gian nghiên cứu để hồn thành khóa luận nằm trong giai đoạn pháp luật
đất đai có sự thay đổi, cụ thể là Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành vào ngày
1-7-2014 nên cho phép tác giả sử dụng kết hợp Luật đất đai năm 2003, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, 2010 cùng hệ thống các văn bản pháp luật liên quan và Luật đất đai
năm 2013 để làm rõ các vấn đề pháp lý đƣợc đề cập trong khóa luận này.
Mặc dù nhận đƣợc sự hƣớng dẫn tận tình của cơ Huỳnh Minh Phƣơng và sự
giúp đỡ động viên rất lớn từ phía bố mẹ, gia đình, bạn bè nhƣng do kiến thức

chun mơn của bản thân còn nhiều hạn chế cùng với quỹ thời gian nghiên cứu chỉ
gần 3 tháng nên chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót, chính vì vậy, tác giả rất mong
nhận đƣợc những góp ý, đánh giá phản hồi của thầy cơ, bạn bè để khóa luận tốt
nghiệp hồn thiện hơn và để tác giả có cơ hội bổ sung, trau dồi vốn hiểu biết cùng
các kĩ năng từ đó chắt lọc cho mình những kinh nghiệm q báu làm hành trang cho
quá trình học tập và nghiên cứu về sau.
2


Qua đây, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến bố mẹ, gia
đình, thầy cô, bạn bè và đặc biệt là cô Huỳnh Minh Phƣơng đã giúp đỡ để tác giả có
thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
TÁC GIẢ
NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

3


CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TẶNG CHO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Tặng cho tài sản
Với tiến trình phát triển của lịch sử, con ngƣời ngày càng tạo ra nhiều tài sản cho
cá nhân, cho xã hội và ln có nhu cầu thiết lập quyền sở hữu. Khách thể của quyền
sở hữu, nói cách khác, chính là tài sản mà theo Từ điển tiếng Việt, “Tài sản: của cải
vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”1. Còn theo Tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Điện, thuật ngữ tài sản có thể đƣợc hiểu theo hai cách: (i) về phƣơng diện
pháp lý, tài sản là của cải đƣợc con ngƣời sử dụng, (ii) trong ngôn ngữ thông dụng,
tài sản là một vật đƣợc con ngƣời sử dụng, một vật cụ thể nhận biết đƣợc bằng giác

quan tiếp xúc2. Khái niệm tài sản cũng đƣợc ghi nhận trong BLDS năm 2005, theo
đó, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản3.
Tùy theo từng tiêu chí mà tài sản đƣợc phân loại khác nhau thành: vật và quyền;
động sản và bất động sản; hiện có và hình thành trong tƣơng lai; tài sản gốc và hoa
lợi, lợi tức; cấm lƣu thông, hạn chế lƣu thông và tự do lƣu thông... Tài sản với cách
hiểu thơng thƣờng là những vật hữu hình, đƣợc thể hiện dƣới hình thức nhất định,
có khối lƣợng, trọng lƣợng, kích thƣớc, hình dáng cụ thể, hay nói cách khác, có thể
nhận biết bằng giác quan, tiếp xúc nhƣ: bàn, ghế, tủ, cặp xách…. Cịn dƣới góc độ
pháp lý, ngồi những vật hữu hình tài sản có thể là sản phẩm của hoạt động sáng
tạo, trí tuệ nhƣ: tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học…. Đây hoàn toàn là những
thứ vơ hình, là kết quả của q trình lao động trí óc. Tuy nhiên, suy cho cùng dù
hữu hình hay vơ hình thì chỉ đƣợc coi là tài sản nếu nó là đối tƣợng của các quyền
định giá đƣợc bằng tiền. Bởi vậy nên pháp luật dân sự thực định ghi nhận, bên cạnh
vật, tiền (tiền đồng Việt Nam hay ngoại tệ) và giấy tờ có giá (ngân phiếu, trái phiếu,
séc, cổ phần trong cơng ty…) thì quyền tài sản cũng là tài sản. Quyền tài sản là
quyền trị giá đƣợc bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tuệ4. Quyền tài sản chính là biểu hiện pháp lý của một vật có giá trị
tiền tệ.
Xuất phát từ thực tế sở hữu nhiều tài sản có giá trị nên mỗi cá nhân ln mong
muốn duy trì, sử dụng có hiệu quả nguồn tài sản của bản thân và định đoạt chúng
theo ý chí nhƣ: để thừa kế, cho thuê, tặng cho, chuyển nhƣợng, thế chấp… Trong số
1

Nguyễn Nhƣ Ý (CB)(1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. VH-TT, Hà Nội, tr.1483.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh, tr.5.
3
Điều 163 BLDS năm 2005.
4
Điều 181 BLDS năm 2005.

2

4


đó, tặng cho tài sản là giao dịch gần gũi và thơng dụng, chủ yếu mang tính tình cảm,
đồng thời là một loại vật quyền đƣợc thực hiện thông qua giao dịch là hợp đồng.
Tuy pháp luật hiện hành không định nghĩa cụ thể về tặng cho tài sản nhƣng lại ghi
nhận khái niệm về hợp đồng tặng cho tài sản tại Điều 465 BLDS năm 2005, theo
đó: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên về việc một bên giao
tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho bên kia mà khơng u cầu đền
bù, cịn bên kia đồng ý nhận”, cho nên ta có thể hiểu khái niệm tặng cho tài sản
thông qua quy định về hợp đồng tặng cho tài sản. Tài sản tặng cho phải là tài sản mà
ngƣời tặng, cho có quyền định đoạt. Do đó nếu tài sản tặng cho là của ngƣời khác
mà bị chủ sở hữu địi lại thì ngƣời nhận tặng cho có quyền đòi ngƣời tặng cho phải
bồi thƣờng thiệt hại và phải thanh tốn những chi phí mà ngƣời nhận tặng cho đã bỏ
ra để làm tăng giá trị của vật đƣợc tặng cho5.
Quyền định đoạt với tƣ cách là một trong ba nội dung của quyền sở hữu đƣợc
hiểu là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho ngƣời
khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó, tuy nhiên chủ sở hữu cũng có thể ủy quyền cho
ngƣời khác định đoạt tài sản của mình. Ngƣời đƣợc chủ sở hữu ủy quyền định đoạt
tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu6. Vì
vậy, ngƣời có quyền định đoạt ở đây có thể là chủ sở hữu hoặc cũng có thể là ngƣời
đƣợc chủ sở hữu trao cho quyền này thông qua hợp đồng hoặc văn bản ủy quyền.
Bên cạnh đó, bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên đƣợc tặng cho khuyết tật
của tài sản tặng cho và có thể yêu cầu bên đƣợc tặng cho thực hiện một hoặc nhiều
nghĩa vụ dân sự trƣớc hoặc sau khi tặng cho7.
Hiểu theo cách dân dã trong cuộc sống thì tặng cho tài sản là hành vi trao cho
ngƣời khác tài sản của mình mà khơng địi hỏi sự thanh tốn nào để thể hiện lịng
biết ơn hay tình cảm q mến. Đối với những tài sản mà pháp luật không quy định

phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản giá trị nhỏ, động sản thì hành vi tặng cho tài sản
diễn ra rất nhanh chóng và dễ dàng bởi lẽ quyền sở hữu đối với động sản không
phải đăng ký và việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời
điểm động sản đƣợc chuyển giao (trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác). Cho
nên, bên tặng giao tài sản cho bên nhận, kể từ đó tài sản thuộc sở hữu của bên nhận,
do bên nhận quản lý, sử dụng cũng nhƣ toàn quyền định đoạt và thƣờng ít xảy ra
tranh chấp, nếu có các bên cũng tự giải quyết trong sự thỏa thuận vì đây là những
tài sản giá trị nhỏ, thông dụng, hầu nhƣ không ảnh hƣởng đáng kể đến lợi ích của xã
hội. Cũng chính vì vậy mà ngƣời ta thƣờng tặng cho theo tâm lý chung là trao và
5

Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 450-451.
Điều 198 BLDS năm 2005.
7
Điều 469, 470 BLDS năm 2005.
6

5


nhận mà hầu nhƣ không thông qua một hợp đồng tặng cho tài sản mặc dù pháp luật
có quy định về hợp đồng tặng cho tài sản tại Điều 465 BLDS năm 2005. Tuy nhiên,
với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì tặng cho tài
sản trở thành một giao dịch pháp lý mà việc thực hiện buộc thông qua hợp đồng
tặng cho tài sản và phải tiến hành sang tên, đăng ký quyền sở hữu theo các thủ tục
luật định. Sở dĩ pháp luật quy định nhƣ vậy vì đa phần đó là những tài sản có giá trị,
ảnh hƣởng đến cộng đồng về cả an ninh trật tự lẫn kinh tế, dễ xảy ra tranh chấp nhƣ:
bất động sản, ô tô, xe máy, tàu biển. Dó đó cần phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp
lý để một mặt Nhà nƣớc có thể quản lý, kiểm sốt tình hình xã hội, các giao dịch
dân sự và lƣợng tài sản có giá trị kinh tế cao, mặt khác tạo căn cứ, cơ sở giải quyết

cho những tranh chấp có thể xảy ra.
Như vậy, tặng cho tài sản với tư cách là một loại vật quyền, được thực hiện
thông qua giao dịch hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên về việc một bên
giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho bên kia mà khơng u
cầu đền bù, còn bên kia đồng ý nhận. Đối với tài sản là động sản thì quyền sở hữu
được chuyển giao kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, giao dịch tặng cho
hoàn tất. Đối với tài sản là bất động sản, tài sản mà pháp luật quy định phải đăng
ký quyền sở hữu thì việc chuyển quyền sở hữu có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
(trừ trường hợp pháp luật có quy định khác), lúc đó giao dịch tặng cho tài sản mới
hoàn tất.
1.1.2. Tặng cho quyền sử dụng đất
Trên cơ sở Điều 53 Hiến pháp hiện hành: “Đất đai, tài nguyên nƣớc, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nƣớc đầu tƣ, quản lý là tài sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nƣớc
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”, ngày 29-11-2013, Quốc hội đã thông
qua Luật đất đai (sửa đổi), có hiệu lực vào ngày 1-7-2014 với Điều 4 quy định nhƣ
sau: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Nhà nƣớc trao QSDĐ cho ngƣời sử dụng đất theo quy định của luật này”,
bên cạnh đó, bản thân Điều 5 Luật đất đai năm 2003 cũng ghi nhận: “Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu”. Nhƣ vậy, dƣới góc độ quyền sở
hữu đất đai thì QSDĐ là một loại quyền phái sinh từ chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai. Nhà nƣớc tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tƣ cách vừa là đại diện
chủ sở hữu đối với đất đai trên phạm vi tồn quốc vừa là chủ thể quyền lực cơng
thực hiện chức năng quản lý về đất đai nhằm bảo đảm lợi ích chung của tồn xã hội.
Tính phái sinh của QSDĐ thể hiện ở chỗ quyền này chỉ có thể phát sinh trên cơ sở

6


đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc đƣợc Nhà nƣớc công nhận QSDĐ8. Cá

nhân, tổ chức đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ trở
thành ngƣời sử dụng đất và có các quyền của ngƣời sử dụng đất mà pháp luật quy
định. Tuy nhiên, ngƣời sử dụng đất chỉ đƣợc thực hiện các quyền trong giới hạn cho
phép của pháp luật và phải tuân theo những nguyên tắc, điều kiện, thời hạn sử dụng
đất luật định. Từ đó có thể thấy, QSDĐ khơng phải là quyền ban đầu mà là quyền
phái sinh từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, tồn tại trên cơ sở quyền sở hữu đất
đai và phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai.
QSDĐ còn là một quyền tài sản đặc biệt bởi nó trị giá đƣợc bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao lƣu dân sự. Mặc dù không thừa nhận quyền sở hữu tƣ nhân
về đất đai nhƣng trong q trình thực hiện vai trị đại diện của chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai, Nhà nƣớc công nhận và trao cho ngƣời sử dụng đất các quyền, trong
đó có các quyền của chủ sở hữu nhƣ: thế chấp, chuyển nhƣợng, tặng cho... Nói cách
khác, tuy không phải là chủ sở hữu nhƣng ngƣời sử dụng đất ngồi các quyền của
ngƣời sử dụng cịn đƣợc thực hiện một số quyền định đoạt trong chừng mực nhất
định mà pháp luật cho phép. Do đó, “QSDĐ khơng cịn là một quyền năng bình
thƣờng mà là một quyền sở hữu hạn chế”9. Ngoài ra, với tƣ cách là quyền tài sản,
QSDĐ đƣợc ghi nhận là một loại vật quyền, theo đó “QSDĐ là quyền của ngƣời sử
dụng đất đƣợc thực hiện việc khai thác những thuộc tính có ích từ đất theo đúng quy
định của Luật đất đai”10. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 118
BLDS năm 1995 “QSDĐ hợp pháp của hộ gia đình là tài sản chung của hộ”, Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Điện cho rằng QSDĐ là tài sản. Song, đây là một tài sản có những
đặc điểm riêng khơng đƣợc ghi nhận ở bất kỳ tài sản nào khác trong luật thực định
Việt Nam11.
Hiện nay, QSDĐ với giá trị kinh tế ngày càng cao đã dần trở thành đối tƣợng
đƣợc quan tâm bậc nhất trong giao lƣu dân sự. Nếu chuyển nhƣợng QSDĐ là giao
dịch phổ biến thì tặng cho QSDĐ lại là giao dịch rất gần gũi và thông dụng trong
cuộc sống. Theo quy định tại Điều 722 BLDS năm 2005 về hợp đồng tặng cho
QSDĐ thì có thể hiểu tặng cho QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
tặng cho giao QSDĐ cho bên đƣợc tặng cho mà khơng u cầu đền bù, cịn bên
đƣợc tặng cho đồng ý nhận theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, khoản 10

8

Viện khoa học pháp lý - Bộ tƣ pháp (2005), Chuyên đề: Các quyền của người sử dụng đất và một số quy
định nhằm bảo đảm thực hiện, tr.16.
9
Nguyễn Hải An (2012), Pháp luật về tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.57.
10
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 Thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.136.
11
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh, tr.100.

7


Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Chuyển QSDĐ là việc chuyển giao QSDĐ
từ ngƣời này sang ngƣời khác thơng qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhƣợng,
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng QSDĐ”. Với cách định nghĩa
nhƣ vậy, tặng cho QSDĐ là một giao dịch chuyển quyền, làm chấm dứt QSDĐ của
bên tặng cho và xác lập nên QSDĐ cho bên đƣợc tặng cho, nghĩa là đã tạo ra sự
thay đổi về chủ thể sử dụng đối với diện tích đất đƣợc tặng cho.
Xét ở phạm vi hẹp hơn, thực chất, tặng cho QSDĐ là một dạng đặc biệt của
quan hệ chuyển nhƣợng QSDĐ nhƣng việc chuyển nhƣợng này có giá cả thanh tốn
bằng khơng12. Bản thân chuyển nhƣợng QSDĐ là một loại giao dịch chuyển quyền
bên cạnh các hình thức khác nhƣ: chuyển đổi, chuyển nhƣợng, thừa kế, góp vốn.
Ngồi bản chất của chuyển QSDĐ là có sự chuyển giao QSDĐ từ chủ thể này sang
chủ thể khác thì với giao dịch chuyển nhƣợng QSDĐ, bên chuyển nhƣợng sẽ nhận
đƣợc một khoản tiền tƣơng ứng với giá trị QSDĐ chuyển nhƣợng theo thỏa thuận
và phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, nếu nhìn nhận dƣới khía cạnh này thì

cũng có thể xếp tặng cho QSDĐ là một dạng chuyển nhƣợng QSDĐ đặc biệt khi
khoản tiền thanh toán tƣơng ứng với giá trị QSDĐ lúc này bằng không.
Cũng giống nhƣ tặng cho tài sản, việc tặng cho QSDĐ chủ yếu hƣớng đến giá trị
tinh thần nhằm thể hiện tình cảm, lịng biết ơn, q trọng và sự quan tâm chứ khơng
xuất phát từ nhu cầu hay mục đích tìm kiếm lợi nhuận vì đây là quan hệ khơng địi
hỏi một sự đền bù ngang giá, hình thành từ sự thỏa thuận tự nguyện của các bên
thông qua hợp đồng đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Tuy nhiên, tính chất
khơng địi hỏi sự đền bù ngang giá không phủ nhận điều kiện mà ngƣời tặng cho có
thể đặt ra, yêu cầu bên đƣợc tặng cho phải thực hiện trƣớc hoặc sau khi tặng cho để
nhận đƣợc QSDĐ. Điều kiện này khơng phải là địi hỏi về mặt vật chất, kinh tế mà
có thể là yêu cầu thực hiện một công việc hay một nghĩa vụ nào đó. Căn cứ vào quy
định tại Điều 470 BLDS năm 2005 về tặng cho tài sản có điều kiện, nếu đó là nghĩa
vụ phải thực hiện trƣớc khi tặng cho, khi bên đƣợc tặng cho đã hoàn thành mà bên
tặng cho khơng giao QSDĐ thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên đƣợc
tặng cho đã thực hiện; trƣờng hợp là nghĩa vụ phải thực hiện sau khi tặng cho mà
bên đƣợc tặng cho khơng thực hiện thì bên tặng cho có quyền địi lại QSDĐ và u
cầu bồi thƣờng thiệt hại.
Như vậy, hiểu một cách khái quát, tặng cho QSDĐ là giao dịch được thực hiện
thông qua hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên tặng cho
chuyển giao QSDĐ của mình cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù một
lợi ích vật chất nào, cịn bên được tặng cho đồng ý nhận theo quy định của BLDS
12

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đất đai, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006, tr.240.

8


và pháp luật về đất đai. Bên tặng cho có thể đặt ra điều kiện yêu cầu bên được tặng
cho phải thực hiện trước hoặc sau khi tặng cho và điều kiện này phải được nêu rõ

trong hợp đồng.
1.1.3. Quyền tặng cho quyền sử dụng đất
Từ điển luật học định nghĩa quyền là những việc mà một ngƣời đƣợc làm mà
khơng bị ai ngăn cản, hạn chế gồm bốn nhóm cơ bản: quyền đƣơng nhiên (quyền
làm ngƣời, quyền đƣợc sống, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc), quyền do
luật pháp cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (còn gọi là quyền pháp lý),
quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng cho phép hội
viên đƣợc làm và quyền do ngƣời khác ủy quyền. Dƣới góc độ lý luận nhà nƣớc và
pháp luật thì quyền của chủ thể đƣợc hiểu là cách xử sự mà pháp luật cho phép tiến
hành.
Có thể thấy rằng song song với nghĩa vụ, các chế định về quyền là một trong
những quy định cơ bản nhất của hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật đất đai nói riêng. Trong Luật Đất đai 2003, quyền của ngƣời sử
dụng đất đƣợc chia làm bốn nhóm: quyền chung (Điều 105); quyền đƣợc bồi
thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất; quyền giao dịch QSDĐ (Điều 106) và quyền lựa
chọn hình thức giao đất, thuê đất (Điều 108). Vẫn là bốn nhóm quyền, nhƣng Luật
đất đai năm 2013 ghi nhận nhƣ sau: quyền chung (Điều 166), quyền giao dịch (Điều
167), quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề (Điều 171) và quyền lựa chọn
hình thức trả tiền thuê đất (Điều 172). Nhƣ vậy so với Luật đất đai năm 2003, các
điều khoản về quyền của ngƣời sử dụng đất đƣợc quy định trong Luật đất đai năm
2013 đã có một vài thay đổi: nhóm quyền chung đƣợc bổ sung thêm quyền đƣợc bồi
thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất; nhóm quyền giao dịch đã bỏ đi quyền bảo lãnh
bằng QSDĐ; quyền lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất đƣợc thay thế bằng quyền
lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất và cuối cùng là sự bổ sung quyền sử dụng hạn
chế đối với thửa đất liền kề.
So với các quyền giao dịch QSDĐ khác của ngƣời sử dụng đất, quyền tặng cho
QSDĐ đƣợc xem là quyền “non trẻ” nhất bởi nó mới chỉ chính thức đƣợc thừa nhận
kể từ Luật đất đai năm 2003. Quyền tặng cho QSDĐ là khả năng mà pháp luật cho
phép ngƣời sử dụng đất đƣợc thực hiện việc tặng cho QSDĐ của mình sang cho chủ
thể nhận tặng cho mà khơng địi hỏi nhận lấy bất kì lợi ích vật chất tƣơng ứng nào

trong q trình sử dụng đất nhằm sử dụng đất đúng mục đích, hợp lý, tiết kiệm và
đạt hiệu quả kinh tế. Việc thực hiện quyền tặng cho QSDĐ sẽ làm dịch chuyển hẳn
QSDĐ từ bên tặng cho sang bên nhận tặng cho, làm chấm dứt QSDĐ của chủ thể
này và làm phát sinh QSDĐ của chủ thể kia. Nói cách khác, quyền tặng cho QSDĐ
9


là quyền của ngƣời sử dụng đất chuyển giao QSDĐ của mình cho chủ thể khác (bên
đƣợc tặng cho) mà không yêu cầu nhận lấy một khoản tiền tƣơng ứng với giá trị
QSDĐ tặng cho.
Có thể nói, quyền tặng cho QSDĐ chính là “gốc rễ”, là nền tảng cho sự ra đời
của các quy định khác liên quan đến vấn đề tặng cho QSDĐ. Pháp luật ghi nhận
quyền tặng cho QSDĐ nhƣng cũng giới hạn về phạm vi đối tƣợng đƣợc tặng cho và
đối tƣợng nhận tặng cho. Sở dĩ có những quy định giới hạn này là bởi vì quyền tặng
cho QSDĐ chỉ có ý nghĩa trong một số trƣờng hợp nhất định; với nguyên tắc đất đai
thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nƣớc là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý,
cho nên, Nhà nƣớc chỉ cho những đối tƣợng có nhu cầu sử dụng mới đƣợc phép sử
dụng đất, hoặc có nhu cầu huy động vốn, phát triển sản xuất kinh doanh… thì đƣợc
chuyển QSDĐ, cịn nếu khơng có các nhu cầu trên thì Nhà nƣớc sẽ thu hồi để phân
phối cho ngƣời khác nhằm sử dụng quỹ đất đai có hiệu quả nhất, bảo vệ lợi ích tồn
dân13. Việc xác định chủ thể đƣợc quyền tặng cho QSDĐ chủ yếu dựa vào hình thức
sử dụng đất trên cơ sở QSDĐ tặng cho phải đáp ứng các điều kiện luật định.
Như vậy, với tư cách là một quyền pháp lý mới được chính thức công nhận và
quy định kể từ Luật đất đai năm 2003 và nằm trong nhóm quyền giao dịch QSDĐ,
quyền tặng cho QSDĐ là khả năng mà pháp luật cho phép người sử dụng đất được
thực hiện việc chuyển giao QSDĐ của mình cho chủ thể khác (bên được tặng cho)
mà không yêu cầu nhận lấy một khoản tiền hay bất kì lợi ích vật chất nào tương ứng
với giá trị QSDĐ tặng cho. Người sử dụng đất có thể thực hiện hoặc khơng thực
hiện quyền tặng cho QSDĐ bởi vì đây là quyền chứ không phải một nghĩa vụ. Tuy
nhiên, khi thực hiện quyền này, người sử dụng đất cần đáp ứng và tuân theo đầy đủ

các điều kiện cũng như trình tự, thủ tục luật định để việc tặng cho QSDĐ được
hoàn tất một cách hợp pháp và để quyền tặng cho QSDĐ đạt được ý nghĩa trọn vẹn
nhất.
1.2. Đặc điểm của quyền tặng cho quyền sử dụng đất
Bên cạnh nhóm quyền chung, Luật đất đai năm 2003 và 2013 đều ghi nhận
quyền tặng cho QSDĐ nằm trong nhóm quyền giao dịch QSDĐ. Do đó, quyền tặng
cho QSDĐ trƣớc hết sẽ mang những đặc điểm chung của nhóm quyền giao dịch
QSDĐ. Từ đây, có thể khái quát năm đặc điểm cơ bản sau đây của quyền tặng cho
QSDĐ:
Thứ nhất, quyền tặng cho QSDĐ đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng tặng
cho.

13

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đất đai, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006, tr.212, 213.

10


Nếu Luật đất đai năm 2003 (khoản 1 Điều 129) công nhận cả hợp đồng tặng
cho, văn bản cam kết tặng cho của hộ gia đình, cá nhân, ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài và quyết định của tổ chức tặng cho QSDĐ thì Luật đất đai năm 2013
(khoản 3 Điều 167) chỉ ghi nhận hình thức hợp đồng tặng cho QSDĐ, tuy nhiên
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP lại quy định thêm về văn bản tặng cho (khoản 3 Điều
79). Pháp luật thừa nhận quyền tặng cho QSDĐ, ban hành những quy định liên quan
để điều chỉnh một cách hiệu quả nhất quan hệ tặng cho QSDĐ và việc thực hiện
quyền tặng cho QSDĐ bắt buộc phải thông qua một hợp đồng, văn bản tặng cho.
Nếu quyền tặng cho QSDĐ chỉ đƣợc coi là đƣợc thực hiện một cách trọn vẹn nhất
về mặt thủ tục theo quy định của pháp luật khi bên đƣợc tặng cho hoàn tất việc đăng
ký QSDĐ thì hợp đồng tặng cho lại là một trong những điều kiện tiên quyết thể hiện

ý chí và sự thỏa thuận của các bên và cũng là một trong những thành phần không
thể thiếu của hồ sơ đăng ký tặng cho QSDĐ. Nói cách khác, hợp đồng, văn bản tặng
cho QSDĐ chính là hình thức thể hiện đầu tiên, góp phần đảm bảo tính hợp pháp
của việc thực hiện quyền tặng cho QSDĐ.
Thứ hai, quyền tặng cho QSDĐ chịu sự điều chỉnh của pháp luật đất đai và
pháp luật dân sự.
Tuy tặng cho tài sản diễn ra rất phổ biến trong cuộc sống và sớm đƣợc pháp luật
dân sự điều chỉnh nhƣng tặng cho QSDĐ nói chung và quyền tặng cho QSDĐ nói
riêng chỉ đƣợc chính thức thừa nhận trong Luật đất đai năm 2003 với các quy định
về nội dung của quyền tặng cho QSDĐ nhƣ: bên tặng cho, bên nhận tặng cho, điều
kiện, phạm vi tặng cho. Cịn về mặt hình thức thực hiện quyền tặng cho QSDĐ
thông qua giao dịch là hợp đồng lại do BLDS năm 2005 quy định. Thơng qua đó,
Nhà nƣớc giám sát và kiểm soát một cách bao quát giao dịch tặng cho QSDĐ từ đó
quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn đất đai trong phạm vi cả nƣớc.
Thứ ba, quyền tặng cho QSDĐ là một dạng quyền chuyển QSDĐ.
Dƣới góc độ pháp lý, quyền chuyển QSDĐ đƣợc hiểu là quyền của ngƣời sử
dụng đất chuyển giao hoàn toàn QSDĐ của mình cho chủ thể khác (bên nhận
chuyển quyền), làm chấm dứt QSDĐ của chủ thể chuyển quyền và làm phát sinh
QSDĐ của chủ thể nhận chuyển quyền. Quyền tặng cho QSDĐ cũng có đặc trƣng
cơ bản này do nó đƣợc thực hiện dƣới hình thức chuyển giao QSDĐ của chủ thể
này (bên tặng cho) cho chủ thể kia (bên đƣợc tặng cho) mà khơng u cầu nhận lấy
bất kì lợi ích vật chất nào tƣơng ứng với giá trị QSDĐ tặng cho, nghĩa là có sự thay
đổi về chủ thể sử dụng đất. Do đó, có thể xếp quyền tặng cho QSDĐ là một dạng
quyền chuyển quyền14.
14

Xem tại mục 1.1.2.

11



Thứ tƣ, quyền tặng cho QSDĐ khơng mang tính đền bù.
Quyền chuyển nhƣợng và quyền tặng cho QSDĐ đều nằm trong nhóm quyền
giao dịch QSDĐ. Nếu chuyển nhƣợng QSDĐ là việc chuyển giao QSDĐ theo đó
bên nhận chuyển nhƣợng phải thanh toán cho bên chuyển nhƣợng một khoản tiền
tƣơng ứng với giá trị QSDĐ đƣa vào chuyển nhƣợng thì tặng cho QSDĐ vẫn là việc
chuyển giao QSDĐ từ bên tặng cho sang bên đƣợc tặng cho nhƣng bên tặng cho
không u nhận lấy bất kì lợi ích vật chất nào tƣơng ứng đối với giá trị QSDĐ đƣa
vào tặng cho. Điều này có nghĩa là bên đƣợc tặng cho khơng có nghĩa vụ phải trả
cho bên tặng cho một khoản tiền hay một lợi ích vật chất. Nhƣ vậy so với quyền
chuyển nhƣợng QSDĐ, quyền tặng cho QSDĐ khơng địi hỏi sự đền bù ngang giá.
Thứ năm, quyền tặng cho QSDĐ đƣợc pháp luật thừa nhận muộn hơn so
với các quyền giao dịch QSDĐ khác.
Quyền giao dịch QSDĐ đƣợc quy định lần đầu tiên trong Luật đất đai năm 1993
(từ Điều 74 đến Điều 78) với năm quyền cơ bản: chuyển đổi, chuyển nhƣợng, thừa
kế, thế chấp và cho thuê QSDĐ. Tiếp đó, Luật đất đai năm 2003 đã mở rộng phạm
vi các quyền giao dịch bằng cách bổ sung và chính thức thừa nhận quyền cho thuê
lại, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ và đặc biệt là quyền tặng cho QSDĐ (Điều 106).
Đến nay, trên cơ sở kế thừa tính tích cực của Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai
năm 2013 vẫn tiếp tục ghi nhận quyền tặng cho QSDĐ (Điều 167). Có thể thấy, so
với đa số các quyền cịn lại trong nhóm quyền giao dịch QSDĐ, quyền tặng cho
QSDĐ đƣợc pháp luật thừa nhận muộn hơn.
Nhƣ vậy, quyền tặng cho QSDĐ trƣớc hết mang đặc điểm chung của quyền giao
dịch QSDĐ khi đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng; chịu sự điều chỉnh của cả pháp
luật đất đai và pháp luật dân sự dƣới sự giám sát của Nhà nƣớc và là một dạng
quyền chuyển QSDĐ. Ngồi ra, quyền tặng cho QSDĐ khơng mang tính đền bù và
đƣợc pháp luật công nhận muộn hơn so với đa số các quyền giao dịch QSDĐ khác.
1.3. Ý nghĩa của quyền tặng cho quyền sử dụng đất
Tặng cho QSDĐ là một giao dịch rất gần gũi và thông dụng trong cuộc sống. Sự
thừa nhận của pháp luật đất đai về quyền tặng cho QSDĐ mang một số nghĩa nhất

định.
Một mặt, quyền tặng cho QSDĐ gắn kết tình cảm, sự gần gũi, mối quan hệ thân
thuộc hoặc là cầu nối thể hiện lòng biết ơn, quý mến của bên tặng cho đối với bên
đƣợc tặng cho. Trong sinh hoạt hàng ngày, ngƣời ta tặng cho đất cho nhau chủ yếu
xuất phát từ mối quan hệ ruột thịt, họ hàng, bạn bè hay đơn giản là hành động hiến
tặng QSDĐ vì lợi ích của cộng đồng chung. Đó có thể là cách thể hiện tình yêu
thƣơng giữa những ngƣời trong gia đình nhƣ bố mẹ tặng cho QSDĐ cho con, anh
12


chị em tặng cho QSDĐ cho nhau hay là cách thể hiện sự quý trọng đối phƣơng
trong công việc, trong sản xuất kinh doanh. Dù hình thành trên cơ sở nào thì tặng
cho QSDĐ cũng đều hƣớng đến mục đích giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong công
việc nhằm thể hiện tình cảm. Chính vì thế, quyền tặng cho QSDĐ đƣợc xem là
phƣơng tiện pháp lý để bên tặng cho thể hiện sự quan tâm và tình cảm của mình đối
với bên đƣợc tặng cho, mang lại những giá trị đầy tính tích cực cho xã hội.
Mặt khác, quyền tặng cho QSDĐ góp phần thúc đẩy sự phát triển của sản xuất
kinh doanh, từ đó mang lại nhiều giá trị về mặt kinh tế cho xã hội. Việc quy định về
quyền tặng cho QSDĐ của pháp luật đất đai đã tạo cơ sở pháp lý cho ngƣời có
QSDĐ hợp pháp nhƣng lại khơng có nhu cầu sử dụng đƣợc tặng cho QSDĐ của
mình cho ngƣời có nhu cầu nhằm khai thác, sử dụng đất có hiệu quả. Bởi lẽ, khi
pháp luật công nhận quyền tặng cho QSDĐ, tức là cũng công nhận việc chuyển giao
QSDĐ từ chủ thể tặng cho sang chủ thể nhận tặng cho, công nhận QSDĐ hợp pháp
của chủ thể nhận tặng cho. Từ đó, họ sẽ gắn bó và ra sức lao động sản xuất, kinh
doanh trên phần đất đƣợc tặng cho, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho bản
thân, gia đình và xã hội, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nƣớc phát
triển.
Bên cạnh đó, quyền tặng cho QSDĐ ra đời đáp ứng nhu cầu thực tế của việc
hiến tặng nhà tình nghĩa cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng các trƣờng
học, mái ấm cho trẻ em cơ nhỡ và những hộ gia đình có hồn cảnh khó khăn. Sự

cơng nhận của pháp luật đối với quyền tặng cho QSDĐ đã tạọ cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện những nghĩa cử hết sức cao đẹp, đầy tính nhân văn và đậm lịng nhân
ái; thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, nhà nƣớc và thế hệ sau đến sự hy sinh
cao cả của những chiến sĩ cách mạng và công lao to lớn của các bà mẹ Việt Nam
anh hùng trong hai cuộc chiến tranh gian khổ để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Quyền tặng cho QSDĐ đã “hợp thức hóa” hành vi của các tổ chức, cá nhân hảo tâm
trong việc sử dụng QSDĐ hợp pháp của mình để xây dựng nhà ở, trƣờng học cho
những trẻ em cơ nhỡ, ngƣời già neo đơn và những mảnh đời kém may mắn trong xã
hội để giúp đỡ, mang đến cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngồi ra, quyền tặng cho QSDĐ cịn tạo ra sự đồng bộ giữa pháp luật dân sự và
pháp luật đất đai, góp phần từng bƣớc hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung. Pháp luật dân sự trƣớc đây đã điều chỉnh về vấn đề tặng cho tài sản (trong đó
có tặng cho bất động sản) nhƣng Luật đất đai lại chƣa quy định về tặng cho QSDĐ.
Việc Luật đất đai năm 2003 chính thức thừa nhận quyền tặng cho QSDĐ đã tạo ra
sự thống nhất giữa hai văn bản pháp luật. Trên cơ sở đó, BLDS năm 2005 đã bổ
sung thêm điều khoản về hợp đồng tặng cho QSDĐ, hệ thống pháp luật đã bao quát
13


thêm một quan hệ xã hội, hƣớng đến việc hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm kiểm
soát tốt hơn các giao dịch về QSDĐ đồng thời điều phối và quản lý quỹ đất hiệu
quả.
Nhƣ vậy, bên cạnh ý nghĩa gắn kết tình cảm, lịng u thƣơng và lối sống trọng
tình của dân tộc ta, sự ra đời của quy định về quyền tặng cho QSDĐ cịn góp phần
thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, kinh doanh; tạo cơ sở pháp lý cho việc hiến tặng
nhà tình nghĩa nhằm ghi nhớ công ơn của các thế hệ đã hy sinh cho đất nƣớc, giúp
đỡ những hồn cảnh khó khăn. Vì lẽ đó, quyền tặng cho QSDĐ khơng những đem
đến nhiều lợi ích kinh tế thiết thực thơng qua việc phát triển sản xuất kinh doanh mà
còn mang lại những giá trị tinh thần to lớn cho xã hội. Nhƣng quan trọng nhất, dƣới
góc độ lý, quyền tặng cho QSDĐ đã sự đồng bộ giữa pháp luật dân sự và pháp luật

đất đai, góp phần từng bƣớc hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
1.4. Sự phát triển của quy định quyền tặng cho quyền sử dụng đất của pháp
luật đất đai trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Do phạm vi khóa luận đề cập đến quyền tặng cho QSDĐ cho nên tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển của quy định về quyền này kể từ khi có
khái niệm “QSDĐ”.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, Nhà
nƣớc ta thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai, trong đó có cả sở hữu tƣ
nhân thể hiện trong quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 1959: “Ngƣời đƣợc chia
ruộng đất có quyền sở hữu đối với ruộng đất đó, ngƣời đƣợc chia gia tài có quyền
cầm, bán, cho v.v ruộng đất đƣợc chia”. Theo đó, ngƣời sở hữu đất đƣợc thực hiện
quyền sở hữu của mình, cụ thể là quyền chiếm hữu, sử dụng (khai thác công dụng,
hƣởng hoa lợi, lợi tức từ đất) và định đoạt theo ý chí nhƣ mua bán, trao đổi, tặng
cho, thừa kế…. Tuy nhiên pháp luật thời kì này vẫn chƣa có sự xuất hiện của khái
niệm “QSDĐ” cũng nhƣ chƣa ghi nhận và quy định về quyền tặng cho QSDĐ.
Ngày 18-12-1980, Quốc hội khóa VI thơng qua Hiến pháp năm 1980, khẳng
định: Đất đai thuộc sở hữu tồn dân (Điều 19 Hiến pháp năm 1980). Có thể nói,
Hiến pháp năm 1980 đã làm thay đổi căn bản về chế độ sở hữu đối với đất đai trong
phạm vi cả nƣớc khi xác lập sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu duy nhất đối với
đất đai. Trên cơ sở đó, Luật đất đai năm 1987 ra đời, trở thành Luật đất đai đầu tiên,
đánh dấu một cột mốc quan trọng của hệ thống pháp luật về đất đai, thừa nhận tƣ
cách của ngƣời sử sụng đất khi quy định: “Nhà nƣớc giao đất cho các nơng trƣờng,
lâm trƣờng, hợp tác xã, tập đồn sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, xí nghiệp, đơn
vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, cá nhân – dƣới đây gọi là
ngƣời sử dụng đất – để sử dụng ổn định, lâu dài” (Điều 1) đồng thời “Nghiêm cấm
14


việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tơ dƣới mọi hình thức” (Điều 5
Luật đất đai năm 1987). Nhƣ vậy, mọi giao dịch về đất đai trong giai đoạn này đều

khơng hợp pháp trong đó có việc tặng cho đất đai bởi “Nhà nƣớc bảo đảm cho
ngƣời sử dụng đất đƣợc hƣởng những quyền lợi hợp pháp trên đất đƣợc giao”
nhƣng chỉ đƣợc “quyền chuyển, nhƣợng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tƣ
trên đất đƣợc giao khi khơng cịn sử dụng đất và đất đó đƣợc giao cho ngƣời khác
sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” chứ không đƣợc quyền định
đoạt đất đai (Điều 3 Luật đất đai năm 1987). “Việc chuyển quyền sử dụng đất đai
chỉ thực hiện khi hộ nông dân vào hoặc ra hợp tác xã, tập đồn sản xuất nơng
nghiệp, lâm nghiệp; khi hợp tác xã, tập đồn sản xuất nơng nghiệp và cá nhân thỏa
thuận đổi đất cho nhau để tổ chức lại sản xuất; khi ngƣời đƣợc giao đất chuyển đi
nơi khác hoặc đã chết mà thành viên trong hộ của ngƣời đó vẫn cịn tiếp tục sử dụng
đất đó” (Điều 16 Luật đất đai năm 1987). Nhƣ vậy, ở một góc độ nhất định, khái
niệm “QSDĐ” đã xuất hiện trong Luật đất đai năm 1987, cụ thể tại Điều 16 với việc
giới hạn các quyền chuyển quyền của ngƣời sử dụng đất nhƣng vẫn chƣa thừa nhận
quyền tặng cho QSDĐ.
Sau đó, Hiến pháp năm 1992 ra đời và tiếp tục khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân (Điều 17 Hiến pháp năm 1992). Thuật ngữ “QSDĐ” đƣợc ghi nhận một
cách rõ ràng hơn: “Nhà nƣớc giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài” và cho phép ngƣời sử dụng đất “đƣợc chuyển QSDĐ đƣợc Nhà nƣớc giao
theo quy định của pháp luật” (Điều 18 Hiến pháp năm 1992). Trên cơ sở đó, Luật
đất đai năm 1993 đƣợc ban hành sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001 (gọi tắt là Luật
đất đai năm 1993) mở rộng phạm vi ngƣời sử dụng đất: “Tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất trong Luật này gọi chung là ngƣời sử
dụng đất” (Điều 1) và chính thức cơng nhận quyền giao dịch QSDĐ: “Hộ gia đình,
cá nhân đƣợc Nhà nƣớc giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê,
thừa kế, thế chấp QSDĐ” và “chỉ đƣợc thực hiện trong thời hạn giao đất và đúng
mục đích sử dụng của đất đƣợc giao theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật” (khoản 2 Điều 3 Luật đất đai năm 1993). Tuy nhiên, trong các
hình thức giao dịch QSDĐ này, khơng có tặng cho QSDĐ, nghĩa là pháp luật vẫn
khơng thừa nhận về quyền tặng cho QSDĐ. Ngồi ra, BLDS năm 1995, cụ thể là
Điều 181, xác định đất đai là một bất động sản và quy định về hợp đồng tặng cho tài

sản từ Điều 461 đến 466. Điều này có nghĩa, tuy BLDS năm 1995 ghi nhận việc chủ
sở hữu bất động sản đƣợc quyền tặng cho bất động sản của mình nhƣng Luật đất đai
năm 1993 vẫn chƣa công nhận quyền tặng cho QSDĐ.

15


Ngày 26-11-2003, Quốc hội khóa XI thơng qua Luật đất đai năm 2003 sửa đổi,
bổ sung năm 2009, 2010 (gọi tắt là Luật đất đai 2003) khẳng định: Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu (Điều 5 Luật đất đai năm 2003) đồng
thời quy định cụ thể và chi tiết về các đối tƣợng là ngƣời sử dụng đất bao gồm: tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trong nƣớc đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất, công
nhận QSDĐ hay nhận chuyển QSDĐ; cộng đồng dân cƣ, cơ sở tôn giáo đƣợc Nhà
nƣớc giao đất hoặc cơng nhận QSDĐ; tổ chức nƣớc ngồi có chức năng ngoại giao
đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam cho thuê đất; ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài về
đầu tƣ, hoạt động văn hóa, khoa học thƣờng xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt
Nam đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất, đƣợc mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở;
tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tƣ đƣợc
Nhà nƣớc Việt Nam cho thuê đất (Điều 9 Luật đất đai năm 2003). Cùng với đó,
Điều 106 Luật đất đai năm 2003 ghi nhận các quyền giao dịch QSDĐ của ngƣời sử
dụng đất gồm: quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho QSDĐ; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ. Có thể nói, lần
đầu tiên trong quá trình hình thành và ban hành các quy định, pháp luật nói chung
và pháp luật đất đai nói riêng đã chính thức thừa nhận quyền tặng cho QSDĐ, đồng
thời quy định các điều kiện về chủ thể, phạm vi, trình tự, thủ tục thực hiện quyền
tặng cho QSDĐ từ Điều 109 đến Điều 121 và Điều 129 Luật đất đai năm 2003.
Trên cở sở này, BLDS năm 2005 đã ghi nhận về hợp đồng tặng cho QSDĐ, quyền
và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện tặng cho QSDĐ (từ Điều 722 đến Điều 726).
Nhƣ vậy, Luật đất đai năm 2003 ra đời đã khắc phục đƣợc những hạn chế của pháp
luật đất đai giai đoạn trƣớc thông qua việc ban hành những quy định hết sức tiến bộ,

cụ thể và chi tiết khi mở rộng tối đa các quyền cho ngƣời sử dụng đất, trong đó có
quyền tặng cho QSDĐ. Nói cách khác, quyền tặng cho QSDĐ đã chính thức đƣợc
thừa nhận và quy định trong Luật đất đai năm 2003.
Xuất phát từ nhu cầu đổi mới, hội nhập với quốc tế và mong muốn hoàn thiện
hơn nữa hệ thống pháp luật, ngày 28-11-2013, Quốc hội khóa XIII, đã thơng qua
Hiến pháp nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế cho Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) (sau đây gọi là Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực
từ ngày 1-1-2014, đánh dấu một bƣớc tiến mới trong lịch sử lập hiến của nƣớc ta.
Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chƣơng, 120 điều, nghĩa là đã giảm 1 chƣơng và 27
điều so với Hiến pháp năm 1992. Bên cạnh một số điểm mới, Hiến pháp năm 2013
vẫn khẳng định rõ: Đất đai là tài sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53), “Tổ chức, cá nhân đƣợc Nhà nƣớc
giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Ngƣời sử dụng đất đƣợc chuyển QSDĐ,
16


thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. QSDĐ đƣợc pháp luật bảo
hộ” (khoản 2 Điều 54). Từ định hƣớng đó, Luật đất đai năm 2013 ra đời, đƣợc Quốc
hội thông qua vào ngày 29-11-2013 và có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2014. So với Luật
Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 có 14 chƣơng với 212 điều, tăng 7
chƣơng và 66 điều, đã khắc phục, giải quyết đƣợc những tồn tại, hạn chế phát sinh
trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003. Tuy có một số đổi mới cơ bản nhƣ:
cụ thể hóa các quyền và trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với đất đai; bổ sung những
nội dung cơ bản trong việc điều tra, đánh giá về tài nguyên đất đai, về nguyên tắc
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định rõ quyền và nghĩa vụ sử dụng đất
của ngƣời dân trong vùng quy hoạch đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phê
duyệt; đổi mới những quy định về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất; việc thu hồi đất, bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ… nhƣng Luật
đất đai năm 2013 vẫn ghi nhận các quyền giao dịch của ngƣời sử dụng đất bao gồm:
quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế

chấp, góp vốn QSDĐ (Điều 167 Luật đất đai năm 2013). Điều này có nghĩa là, Luật
đất đai năm 2013 vẫn tiếp tục ghi nhận quyền tặng cho QSDĐ với các quy định về
chủ thể, phạm vi thực hiện quyền tặng cho QSDĐ thông qua các điều luật về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng đất, cụ thể từ Điều 173 đến Điều 187. Trong
đó, đáng chú ý nhất là các điều luật mới liên quan đến quyền tặng cho QSDĐ nhƣ:
Điều 191 về trƣờng hợp không đƣợc nhận chuyển nhƣợng, nhận tặng cho QSDĐ;
Điều 192 về trƣờng hợp hộ gia đình, cá nhân chuyển nhƣợng, tặng cho QSDĐ có
điều kiện. Ngồi ra, Luật đất đai năm 2013 cịn quy định thêm về việc cơng chứng,
chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của ngƣời sử dụng đất (khoản 3
Điều 167), thời điểm đƣợc thực hiện các quyền của ngƣời sử dụng đất (Điều 168),
nhận QSDĐ (Điều 169).
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Hiến pháp năm 1992 ra
đời, pháp luật vẫn chưa thừa nhận quyền tặng cho QSDĐ. Từ sau Hiến pháp năm
1992, mặc dù Luật đất đai năm 1993 đã quy định về một số quyền giao dịch của
người sử dụng đất nhưng trong số đó khơng có quyền tặng cho QSDĐ. Phải đến khi
Luật đất đai năm 2013 được ban hành thì quyền tặng cho QSDĐ mới chính thức
được công nhận và quy định một cách khá cụ thể. Nhưng với nhu cầu đổi mới để
hội nhập với quốc tế, Hiến pháp năm 2013 ra đời và có hiệu lực vào đầu năm 2014
đã kéo theo sự thay đổi về pháp luật đất đai. Luật đất đai năm 2013 được Quốc hội
thơng qua vào ngày 29-11-2013 và có hiệu lực từ ngày 1-7-2014 tiếp tục ghi nhận
về quyền tặng cho QSDĐ với một số quy định mới bên cạnh việc kế thừa những quy
định về quyền tặng cho QSDĐ của Luật đất đai năm 2003.
17


CHƢƠNG 2.
CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN
TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
2.1. Các chủ thể có quyền tặng cho quyền sử dụng đất
Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 quy định ngƣời sử dụng đất đƣợc thực

hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho QSDĐ; thế chấp, góp vốn QSDĐ. Điều này có nghĩa, chủ thể có quyền tặng cho
QSDĐ trƣớc hết phải là ngƣời sử dụng đất. Theo quy định tại Điều 5 Luật đất đai
năm 2013 thì ngƣời sử dụng đất bao gồm tổ chức trong nƣớc (sau đây gọi chung là
tổ chức); hộ gia đình, cá nhân trong nƣớc (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá
nhân); cộng đồng dân cƣ; cơ sở tơn giáo; tổ chức nƣớc ngồi có chức năng ngoại
giao; ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật về quốc
tịch; doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tƣ. Tuy
nhiên, không phải ngƣời sử dụng đất nào cũng có quyền tặng cho QSDĐ mà chỉ có
bốn chủ thể sau đây mới có quyền tặng cho QSDĐ.
2.1.1. Hộ gia đình, cá nhân
Hộ gia đình là một chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai, gồm những thành
viên gắn bó với nhau do quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hơn nhân, cùng có tên
trong hộ khẩu, có hoạt động kinh tế chung và tài sản chung. Cá nhân sử dụng đất
cũng là chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai, đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê
đất, công nhận QSDĐ hoặc nhận chuyển QSDĐ15. Luật đất đai năm 2003 và 2013
đều xếp hai chủ thể này vào chung với nhau và quy định trong cùng một điều khoản
(cụ thể là khoản 2 Điều 9 Luật đất đai năm 2003 và khoản 2 Điều 5 Luật đất đai
năm 2013) cho nên trên tinh thần đó tác giả sẽ đƣa ra những phân tích và đánh giá
về quyền tặng cho QSDĐ của hai chủ thể này trong cùng một mục.
Hộ gia đình, cá nhân đƣợc sử dụng đất dƣới hình thức đƣợc Nhà nƣớc giao đất,
cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ, nhận chuyển QSDĐ. Tuy nhiên khơng phải
mọi hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đều có quyền tặng cho QSDĐ mà chỉ những
hộ gia đình, cá nhân đƣợc pháp luật ghi nhận quyền này mới đƣợc thực hiện việc
tặng cho QSDĐ. Trên cơ sở pháp lý đƣợc quy định tại Điều 179 và Điều 180 Luật
đất đai năm 2013 về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thì hộ
gia đình, cá nhân có quyền tặng cho QSDĐ nếu thuộc một trong các trƣờng hợp
sau:

15

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đất đai, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006, tr.224.

18


- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nơng nghiệp đƣợc Nhà nƣớc giao trong hạn
mức; đất đƣợc Nhà nƣớc giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê, đƣợc Nhà nƣớc công nhận QSDĐ; đất nhận chuyển
đổi, nhận chuyển nhƣợng, nhận tặng cho, nhận thừa kế (điểm e khoản 1 Điều 179
Luật đất đai năm 2013);
- Hộ gia đình, cá nhân th lại đất trong khu cơng nghiệp, cụm công nghiệp,
khu chế xuất mà đã trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê (điểm a khoản 3
Điều 179 Luật đất đai năm 2013);
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất không thu tiền sử dụng đất sang đất giao
đất có thu tiền sử dụng đất hoặc đất thuê thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê (điểm a khoản 2 Điều 180 Luật đất đai năm 2013);
So với Luật đất đai năm 2003 (từ Điều 113 đến Điều 115) thì Luật đất đai năm
2013 (Điều 179 và Điều 180) đã mở rộng các trƣờng hợp hộ gia đình, cá nhân đƣợc
quyền tặng cho QSDĐ. Cụ thể là sự bổ sung đối với trƣờng hợp hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất nơng nghiệp đƣợc Nhà nƣớc giao trong hạn mức; đất đƣợc Nhà
nƣớc giao có thu tiền sử dụng đất, đất đƣợc Nhà nƣớc công nhận QSDĐ; đất nhận
chuyển đổi, nhận chuyển nhƣợng, nhận tặng cho, nhận thừa kế và đất thuê lại trong
khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất mà đã trả tiền thuê đất một lần cho
cả thời gian thuê. Ngồi ra, nếu trƣớc đó, trong thời gian Luật đất đai năm 2003 có
hiệu lực thi hành (kể từ ngày 1-7-2004 đến trƣớc ngày 1-7-2014), hộ gia đình, cá
nhân đƣợc Nhà nƣớc cho thuê đất chỉ đƣợc quyền tặng cho QSDĐ nếu thuê đất
trƣớc ngày 1-7-2004 mà đã trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc đã

trả trƣớc tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn th đất đã trả tiền cịn lại ít nhất
năm (05) năm thì kể từ ngày 1-7-2014 hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đƣợc Nhà
nƣớc cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đƣợc quyền tặng
cho QSDĐ đó.
Đối với những QSDĐ đặc thù thì quyền tặng cho QSDĐ của hộ gia đình, cá
nhân có sự giới hạn nhất định (Điều 192 Luật đất đai năm 2013):
(i) Hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống xen kẽ trong phân khu bảo vệ nghiêm
ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhƣng chƣa có điều kiện
chuyển ra khỏi phân khu đó thì chỉ đƣợc tặng cho QSDĐ ở, đất rừng kết hợp sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình, cá nhân sinh
sống trong phân khu đó.

19


×