Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.41 KB, 41 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TĨM TẮT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ĐƢỢC SINH RA
BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Ngô Thị Anh Vân
Thành viên đề tài: ThS. Nguyễn Nhật Thanh

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018



1

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình



Nghị Định




2

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN ....................................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .................. 5
1.1.1. Khái niệm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ......................... 5
1.2. Ý nghĩa của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ................................. 7
1.3. Cơ sở hình thành và phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .......................... 9
1.3.1. Cơ sở khoa học .............................................................................................. 9
1.3.2. Cơ sở hạ tầng - xã hội ................................................................................... 9
1.3.3. Cơ sở pháp lý ............................................................................................... 10
1.4. Nguyên tắc thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............... 10
1.4.1. Nguyên tắc tự nguyện ................................................................................. 10
1.4.2. Nguyên tắc bảo mật thông tin ..................................................................... 10
1.4.3. Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật ..................................................... 11
1.5. Các trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản................................ 11
1.5.1. Thụ tinh nhân tạo ....................................................................................... 11
1.5.2. Thụ tinh trong ống nghiệm......................................................................... 12
KẾT LUẬN CHƢƠNG I .......................................................................................... 14
Chƣơng 2. NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ĐƢỢC SINH RA
BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ............................................................................................................................. 15
2.1. Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con đƣợc sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản theo pháp luật hiện hành ................................................................................... 15

2.1.1. Đối tượng áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .............................................. 15
2.1.2. Trường hợp biện pháp hỗ trợ sinh sản được áp dụng với người phụ nữ
độc thân hoặc cặp vợ chồng vơ sinh khi người phụ nữ có khả năng mang thai
và sinh con ............................................................................................................. 15


3

2.1.3. Trường hợp hỗ trợ sinh sản đối với cặp vợ chồng vơ sinh khi người vợ
khơng có khả năng mang thai và sinh con .......................................................... 16
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con đƣợc sinh ra
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .................................................................................. 18
2.2.1. Xác định quan hệ cha, mẹ - con trong trường hợp mang thai hộ ............ 18
2.2.2. Vấn đề xác định cha cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
sau 300 ngày kể từ ngày người chồng chết.......................................................... 26
2.2.3. Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
thông qua sự thoả thuận ....................................................................................... 30
KẾT LUẬN CHƢƠNG II ........................................................................................ 34
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 35



1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ có thể phát huy hết ý nghĩa nếu như dưới
góc độ pháp lý, quan hệ giữa người áp dụng kỹ thuật và trẻ sinh ra được thừa nhận.
Xác định quan hệ cha, mẹ - con vì thế ln là nội dung quan trọng, tạo tiền đề cho việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể sau đó (đặc biệt là với người con). Sự

phát triển của các phương pháp khoa học, cũng như nhu cầu của các chủ thể áp dụng
phương pháp khoa học đã khiến cho quy định về xác định cha, mẹ cho con được sinh
ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã khơng cịn đáp ứng được một số vấn đề mà thực tiễn
đặt ra. Xuất phát từ sự quan tâm đối với một vấn đề phức tạp, đan xen giữa yếu tố khoa
học, đạo đức và pháp lý, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài “Xác định cha, mẹ cho con
được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong pháp luật Việt Nam” để tìm hiểu và
báo cáo trong hoạt động nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu trong nƣớc
Sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 2000 đã mang đến các quy định mới về sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Điều này đã nhận được sự quan tâm của các học giả. Có
thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như sau:
Vũ Ngọc Huy (2017), “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội. Tác giả Vũ
Ngọc Huy
Phan Thị Lan Anh (2017), “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh
trùng từ ngân hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Đại học
quốc gia Hà Nội.
Hoàng Thị Thu Hằng (2017), “Pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm”, Luận văn thạc sỹ, Đại học quốc gia Hà Nội.


2

-

Trương Hồng Quang (2015), “Tìm hiểu quy định về sinh con bằng kỹ thuật

thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

Lê Thị Kim Chung (2004), “Những vấn đề nảy sinh từ quy định về xác định
cha, mẹ cho con sinh ra nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 9 (150)/ 2004; Nguyễn Hồ Bích Hằng – Ngơ Thị Anh Vân (2015), “Một số góp ý về
người thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự - Bàn về tư cách hưởng thừa kế của
người được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 5/2015; Ngô Thị Anh Vân (2017), “Xác định quan hệ cha mẹ, con khi có sự vi phạm
pháp luật về mang thai hộ và xử lý hậu quả”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 13/
2017.
Nguyễn Quế Anh (2015), “Quy định về mang thai hộ - một nội dung mới
trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 08/
2015; Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí Luật
học, số 6/ 2016; Nguyễn Huy Cường (2016), “Một số bất cập trong các quy định về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 09/ 2016; Trần Đức Thắng (2016), “Một số vấn đề về thực
hiện quy định pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí nghề Luật, số
tháng 3/ 2016; Nguyễn Văn Lâm (2016), “Bàn về mang thai hộ trong pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Viện kiểm sát, số 04/ 2016…
Nguyễn Thị Lan (2016), “Thụ tinh trong ống nghiệm và những vấn đề pháp
lý phát sinh”, Tạp chí Luật học, số 02/2016. Bài viết phân tích các điều kiện về mặt chủ
thể, cũng như hệ quả pháp lý khi áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Tác giả
đã có sự nhìn nhận và nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của Nghị định
10/2015/NĐ–CP, qua đó nêu ra một số điểm bất hợp lý và đề xuất quan điểm giải
quyết của mình.
2.2.

Các nghiên cứu trên thế giới


3


-

Richard Jonh Blauwhoff (2009), “A comparative law study on children’s right

to know their genetic origins” (Nghiên cứu quyền được biết về cha mẹ sinh học của trẻ
em), Intersentia.
John De Witt Gregory, Peter N. Swisher, Robin Fretwell Wilson (2013),
Understand family law, LexisNexis, 4th edition.
-

-

Jonathan Hering (2013), Family law, Pearson, 4th edition.

-

Patrick Parkinson, Juliet Behrens (2004), “Australian Family law in context “

Commentary and Materials“, Tomson lawbook co, 3rd edition.
- Kirsty Horsey (2010), Challengeing presumptions: Legal parenthood and
surrogacy arrangements ( Tư cách cha mẹ và thoả thuận mang thai hộ), Child and
Family Law Quarterly, Vol. 22;
Jennifer Rimm (2009), Booming Baby Business: Regulateing Commercial
Surrogacy in India (Sự điều chỉnh về mang thai hộ vì mục đích thương mại tại Ấn Độ),
University of Pennsylvania Journal of International Law;
-

-

Tuininga, Kevin (2008), “The ethics of surrogacy contracts and Nebraska's


surrogacy law” (Đạo đức trong thoả thuận mang thai hộ và pháp luật Nebraska về
mang thai hộ), Creighton Law Review, Vol. 41;
Brigitte Clark (2012), “A balancing act? The rights of donor – conceived
children to know their biological origins” (sự cân bằng trong luật pháp, quyền được
biết nguồn gốc của trẻ sinh ra từ nguồn được hiến), Georgia journal of international
and comparative law, Volume 40.
-

Jenna H. Bauman (2001), Discovering Donors: Legal Rights to Access
Information About Anonymous Sperm Donors Given to Children of Artifcial
Insemination in Johnson v. Superior Court of Los Angeles County, Issue 2 Forum on
Law & Social Change, Volume 31…
-

3.

Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu

Đề tài được thực hiện với mục đích tìm ra những bất cập trong pháp luật hiện hành
(nếu có) và đưa ra các giải pháp tương ứng.


4

Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các quy định pháp luật về sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Đề tài nghiên cứu chỉ tập trung chủ yếu trong việc tìm hiểu, phân tích và đưa ra các
kiến nghị liên quan đến việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xem các phương pháp phân tích,
đánh giá, tổng hợp, so sánh, chứng minh, khảo sát thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài cũng mang đến cái nhìn đa chiều trong việc nhìn nhận và đánh giá căn cứ
làm hình thành nên quan hệ cha mẹ - con. Nội dung đề tài cung cấp các luận điểm, luận
cứ liên quan đến việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản.
Trong khuôn khổ là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, đề tài có giá trị là
nguồn tài liệu tham khảo, phục vụ hữu ích cho q trình học tập và giảng dạy một học
Luật hơn nhân và gia đình nói riêng, cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học diễn ra
trong và ngồi trường nói chung. Các đề xuất, kiến nghị được thể hiện trong đề tài là
cơ sở để các nhà lập pháp có thể xem xét, cần nhắc và điều chính các quy định pháp
luật phù hợp hơn trong tương lai.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài khoa học được chia thành hai chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản của việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Chương 2. Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản và kiến nghị hoàn thiện pháp luật


5

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA VIỆC SINH CON RA
BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1.1.1. Khái niệm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies – ART) là “một hệ
thống các quy trình trong phịng thí nghiệm, kết hợp với các phác đồ điều trị y học
nhằm hỗ trợ trong suốt các giai đoạn của tiến trình sinh sản, để cuối cùng, tạo ra cá thể
mới.”1 Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được coi là một liệu pháp điều trị vô sinh phổ biến
nhất hiện nay. Trong đó, thụ tinh nhân tạo (IUI), thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và
tiêm tinh trùng nội bào (ICSI) là những biện pháp thường xuyên được áp dụng và mang
lại những kết quả khả quan trên thực tế.
Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản liên quan khơng cịn sử dụng
thuật ngữ sinh con theo phương pháp khoa học, mà thay bằng thuật ngữ “sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Theo Khoản 21 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014, “sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ
tinh trong ống nghiệm”. Với khái niệm kể trên, có thể hiểu rằng sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản là quá trình áp dụng các phương pháp khoa học để mang thai và sinh
con. Rõ ràng, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không phải là kết quả của một q
trình sinh học tự nhiên (thơng qua hành vi sinh hoạt tình dục giữa nam và nữ).
Tóm lại, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là những kỹ thuật y học hiện đại (thụ tinh nhân
tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm) được sử dụng để can thiệp vào quá trình sinh sản
tự nhiên, nhằm mang đến kết quả thụ thai và sinh con. Quá trình sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản và sinh con bằng cách thức tự nhiên ln có sự phân biệt rất lớn. Điều
này mang đến những khác biệt nhất định trong cách thức xác lập quan hệ cha, mẹ - con
giữa các chủ thể áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và trẻ được sinh ra.
1.1.2. Đặc điểm của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
1

Phạm Văn Phúc – chủ biên (2015), Công nghệ hỗ trợ sinh sản, NXB Khoa học và kỹ thuật, Tp. Hồ Chí Minh, tr
14.


6


Thứ nhất, dưới góc độ pháp lý, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ được áp dụng với
một số chủ thể nhất định
Việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ được pháp luật ghi nhận với một số
chủ thể đặc biệt nhằm hạn chế sự tùy tiện, gây xáo trộn, ảnh hưởng đến quy luật phát
triển chung của tự nhiên và xã hội. Theo đó, chỉ có những chủ thể thực sự cần thiết
được hỗ trợ trong sinh sản mới được được áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo hoặc
thụ tinh trong ống nghiệm. Đó chính là: cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc
thân. Trong đó, cặp vợ chồng vơ sinh cịn được phép nhờ mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo.2
Thứ hai, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là kết quả của một quá trình áp
dụng các phương pháp khoa học trên cơ thể con người
Với hai phương pháp được áp dụng chủ yếu hiện nay (thụ tinh nhân tạo và thụ tinh
trong ống nghiệm), việc người phụ nữ mang thai và sinh con (bằng phương pháp khoa
học) luôn là kết quả của sự can thiệp y học đối với q trình sinh sản tự nhiên. Nói
cách khác, mong muốn sinh con đạt được bởi sự kết hợp hàng loạt cách thành tự y học,
sinh học và công nghệ vô cùng hiện đại, phức tạp. Việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản vì thế ln địi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối ở từng giai đoạn.
Thứ ba, việc sinh con bằng phương pháp khoa học luôn thể hiện sự “hỗ trợ” đối
với quá trình sinh sản trên nhiều khía cạnh và góc độ
Sự “hỗ trợ” được thể hiện bởi chủ thể khác trong việc hiến trứng, tinh trùng hoặc
mang thai hộ. Đơi khi tình trạng vơ sinh của vợ chồng không được khắc phục cho dù
môi trường thụ tinh đã được tạo các điều kiện tốt. Khi nguyên nhân vô sinh đến từ
những hạn chế nhất định về trứng hoặc tinh trùng thì việc nhận được sự hỗ trợ từ chủ
thể khác (hiến tặng trứng hoặc tinh trùng) là điều không thể thiếu. Trong một số hoàn
cảnh khác, người thứ ba trực tiếp thể hiện sự hỗ trợ khi mang thai hộ thay cho người vợ
trong cặp vợ chồng vô sinh. Rõ ràng, mong muốn sinh con sẽ khơng thể được hiện thực
hố khi thiếu đi sự những đóng góp và giúp đỡ trực tiếp từ những chủ thể thứ ba. Đây
cũng là điểm khác biệt rất lớn so với trường hợp sinh con một cách tự nhiên.
2


Khoản 1 Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP.


7

Thứ tư, nguyên tắc xác định quan hệ cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản chứa đựng sự khác biệt so với con được sinh ra một cách tự
nhiên
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ
và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người trẻ được sinh ra. Quy
định này phù hợp với nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Điều 3 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP): Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên
nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận. Chính cặp vợ chồng vơ sinh và
người phụ nữ độc thân là người đem lại sự sống cho đứa trẻ và họ cũng là người mong
muốn có đứa trẻ chứ khơng phải là người cho tinh trùng, cho nỗn, cho phôi 3. Quy
định trên cũng nhằm tránh những tranh chấp về quan hệ cha, mẹ - con của các chủ thể
liên quan. Đây là cơ sở đảm bảo ổn định mối quan hệ cha, mẹ - con, giúp cặp vợ
chồng, người phụ nữ độc thân yên tâm nuôi dạy trẻ trong điều kiện tốt nhất.4
Thứ năm, việc xác lập mối quan hệ cha, mẹ - con trong quan hệ pháp luật về
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ln đạt được sự tự nguyện từ phía các chủ
thể được xác định là cha, mẹ
Việc hình thành mối quan hệ cha, mẹ - con luôn nằm trong sự dự liệu của người
được xác định là cha, mẹ. Khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc người con
sinh ra không cùng huyết thống với cha, mẹ (hoặc cả hai) là điều hồn tồn có thể xảy
đến. Sự tự nguyện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và chấp nhận các kết quả về mặt
huyết thống đã được dự báo từ trước là cơ sở quan trọng để hình thành nên quan hệ
cha, mẹ - con.

1.2.


3

Ý nghĩa của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Xem thêm Phan Thị Lan Anh (2017), Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với ngân hàng tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội (khoa Luật), tr 15.
4
Xem thêm, Phạm Thị Hồng Đào, Quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
và kiến nghị, (Truy cập ngày
2/10/2018).


8

Thứ nhất, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang lại cơ hội có con
cho người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh
Cùng với sự phát triển của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là sự điều chỉnh của các quy
định tương ứng trong lĩnh vực pháp lý. Theo đó, Nhà nước đã đặt ra điều kiện đối với
chủ thể áp dụng kỹ thuật, với cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật, cũng như các nguyên tắc
xác định quan hệ cha, mẹ - con. Điều này đã đảm bảo cho sự phát triển của quan hệ
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được diễn ra một cách lành mạnh, bảo vệ hiệu
quả quyền lợi chính đáng của các bên tham gia.
Thứ hai, việc sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản giúp đảm bảo khả
năng thực hiện chức năng cơ bản của gia đình - chức năng tái sản xuất con người5
Việc tái sản xuất ra con người vừa là quy luật sinh tồn của tự nhiên, vừa là quy luật
của xã hội.”6. Trong hoàn cảnh mà tỉ lệ vô sinh ngày càng tăng cao, độ tuổi của cặp vợ
chồng vơ sinh ngày càng trẻ hố thì các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đóng vai trị rất quan
trọng trong việc đảm bảo chức năng duy trì nịi giống của gia đình. Các kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản nói riêng và những thành tự y học nói chung đã mang đến những giá trị thiết
thực, giảm tải một khối lượng không nhỏ những trở ngại mà cuộc sống hiện đại đang

đặt ra.
Thứ ba, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thể hiện sự tiếp thu các
thành tựu khoa học kỹ thuật, y học
Là quốc gia tiếp thu các phương pháp hỗ trợ sinh sản khá muộn so với các nước
trên thế giới và trong khu vực, nhưng nền y học Việt Nam đã có những bước chuyển
mình rất nhanh chóng. Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
phổ biến trên thế giới với tỉ lệ thành công khá cao và ổn định. Kết quả này xuất phát từ
sự đón nhận và phát triển các thành tựu y khoa trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của y bác
sỹ và các nhà khoa học.

5

Xem thêm Phan Thị Lan Anh (2017), Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với ngân hàng tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội (khoa Luật), tr 15.
6
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình, NXB Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr 33.


9

Thứ tư, việc sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản mang ý nghĩa nhân
đạo, nhân văn cao đẹp
Trong xã hội hiện đại, vô sinh và điều trị vô sinh đã trở thành một vấn đề khơng
q khó khăn để bày tỏ. Hoàn cảnh của người phụ nữ độc thân muốn áp dụng biện
pháp khoa học để sinh sản cũng dần nhận được sự cảm thông và chia sẻ. Tất cả những
điều trên đều là những biểu hiện quan trọng của một xã hội nhân văn, tiến bộ.
1.3.

Cơ sở hình thành và phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản


1.3.1.

Cơ sở khoa học

Có thể thấy rằng, các thành tựu khoa học trong lĩnh vực sinh sản đóng vai trị quyết
định đối với sự hình thành và phát triển quan hệ pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản. Các bước tiến khoa học luôn gắn liền với tỉ lệ thành cơng trong q trình
sinh sản, đồng thời mang lại hi vọng có con cho những cặp vợ chồng vô sinh và người
phụ nữ độc thân. Với những nỗ lực không ngừng của nền y khoa nước nhà, nhu cầu
chữa bệnh và điều trị vô sinh (cũng như sinh con của người phụ nữ độc thân) đã có thể
được đáp ứng. Ngày nay, các chủ thể hồn tồn có thể theo đuổi mong muốn sinh con
của mình ở trong nước mà khơng cần phải đến những quốc gia phát triển với chi phí
điều trị và các dịch vụ liên quan vô cùng đắt đỏ và tốn kém.
1.3.2.

Cơ sở hạ tầng - xã hội

Theo tinh thần Nghị Quyết 46 - NQ/TW năm 2005 của Bộ chính trị về “Cơng tác
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”, “Nghề y là một
nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt”. Hiện nay,
Nhà nước ưu tiên phát triển nhân lực khám chữa bệnh dựa trên cơ sở thực tiễn, kế thừa
và phát huy những thành tựu, kinh nghiệm, khắc phục những bất cập và yếu kém để
đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhân lực cho việc phát triển hệ thống khám chữa bệnh, từng
bước đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng của nhân dân.
Có thể nói nhu cầu xã hội chính là cơ sở nền tảng dẫn dắt sự hình thành quan hệ
pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật sinh sản. Cũng nhờ có đó mà các phương pháp
khoa học phục vụ mục đích sinh sản ngày càng được phát triển và tối ưu hoá. Qua thời



10

gian, xã hội Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới đều có cái nhìn cảm
thơng và cởi mở hơn đối với việc sinh con bằng phương pháp khoa học.
1.3.3. Cơ sở pháp lý
Bên cạnh các quy định điều chỉnh cụ thể về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc nguyên
tắc xác định quan hệ cha, mẹ - con, Luật HN&GĐ lần đầu tiên thừa nhận việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đây được xem là những cơ sở quan trọng để xác lập
quan hệ cha, mẹ - con và mang lại sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa chủ thể áp dụng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và trẻ được sinh ra.
Nhìn chung, pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành đã có những quy định phù
hợp với nhu cầu sinh con của một số chủ thể trong xã hội, cũng như trình độ phát triển
của y học hiện đại. Các quy định không chỉ dừng lại ở mức độ cho phép áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, mà còn giải quyết quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quá
trình áp dụng các phương này. Tuy vậy, trước thực tiễn phức tạp về một mối quan hệ
nhạy cảm, pháp luật HN&GĐ cần có những quy định một cách chi tiết, cụ thể hơn để
có thể giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, đồng thời bảo vệ một
cách hiệu quả quyền lợi của người con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
1.4.

Nguyên tắc thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1.4.1.

Nguyên tắc tự nguyện

Cũng như tất cả các mối quan hệ dân sự nói chung, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản được thực hiện dựa trên sự tự nguyện. Việc các chủ thể quyết định tham
gia (hoặc khơng) trong mỗi quan hệ hồn tồn xuất phát từ mong muốn nội tâm, chứ
không phải là kết quả của sự ép buộc, lừa dối hay cản trở.

1.4.2.

Ngun tắc bảo mật thơng tin

Ngun tắc bí mật trong việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhằm đảm bảo bí
mật đời tư cá nhân. Bất cứ thơng tin nào liên quan đến đời sống riêng tư của một người
cũng cần được các chủ thể khác trong xã hội tôn trọng và bảo vệ. Áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản không giống như việc điều trị các bệnh lý thông thường. Các thông tin liên
quan đến quá trình áp dụng kỹ thuật có sự liên hệ mật thiết đến quyền lợi nhân thân và
rộng hơn là đời sống gia đình của một người.


11

1.4.3.

Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật

Về nguyên tắc chung, người bệnh có nghĩa vụ cung cấp trung thực thơng tin liên
quan đến tình trạng sức khỏe của mình, hợp tác đầy đủ với người hành nghề và cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; chấp hành chỉ định chẩn đoán, điều trị của người hành nghề.7
Để hoạt động thăm, khám đạt được hiệu quả, người bệnh cần có thái độ hợp tác một
cách tích cực với chỉ định của cơ sở y tế. Điều này tạo điều kiện để các y – bác sỹ có
thể thực hiện trọng trách về mặt chun mơn của mình. Đây cũng là u cầu tiên quyết
để việc điều trị đạt được kết quả tốt nhất.
1.5.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1.5.1.

Thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo – Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra Uterine Insemination
- IUI) là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung
của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi. Những tinh trùng khỏe mạnh nhất sẽ
được lọc rửa và lựa chọn để bơm trực tiếp vào buồng tử cung của nữ giới (nữ giới được
uống thuốc kích thích trứng rụng đúng thời điểm).

Hình 1: Mơ hình quy trình thụ tinh nhân tạo (IUI)8
7

Điều 15 Luật Khám, chữa bệnh năm 2009.
Mơ hình được tham khảo tại: (Truy cập
ngày 15/ 10/ 2018).
8


12

Việc áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo phải thực hiện theo các bước cụ thể nhằm
giảm thiếu tối đa những rủi ro gặp phải khi áp dụng kỹ thuật này vào việc hỗ trợ sinh
sản, bao gồm:
Bước 1: Tư vấn cho các trường hợp vô sinh điều trị bằng phương pháp thụ tinh
nhân tạo.9
Bước 2: Thực hiện quy trình kỹ thuật lọc rửa tinh trùng để bơm tinh trùng vào
buồng tử cung.10
Bước 3: Thực hiện quy trình kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung.11 Bơm
tinh trùng vào buồng tử cung là kỹ thuật trong đó catheter được đưa qua ống cổ tử cung
nhằm mục đích bơm trực tiếp mẫu tinh trùng đã lọc rửa vào buồng tử cung. Mục đích
của phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung là làm tăng tỷ lệ có thai cho các
cặp vợ chồng vô sinh.

1.5.2.

Thụ tinh trong ống nghiệm

Thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (In-vitro Fertilization/ embryo transfer IVF/ET) là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong đó tinh trùng thụ tinh với nỗn trong mơi
trường bên ngồi cơ thể (in-vitro). Phơi thu được sẽ chuyển vào buồng tử cung để làm
tổ hoặc sẽ được đông lạnh để sử dụng sau.12 Thụ tinh trong ống nghiệm được nhiều cặp
vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân áp dụng và mang lại hiệu quả tương đối cao.

9

Điều 5 Thông tư số 12/2012/TT-BYT.
Điều 6 Thông tư số 12/2012/TT-BYT.
11
Điều 7 Thông tư số 12/2012/TT-BYT.
12
Khoản 1 Điều 11 Thông tư 57/2015/TT-BYT ngày 30/12/2016 của Bộ Y tế.
10


13

Hình 2: Mơ hình quy trình Thụ tinh trong ống nghiệm13
Các trường hợp áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được quy định tại
khoản 1 Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP bao gồm: cặp vợ chồng vô sinh và người
phụ nữ độc thân. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể thực hiện thụ tinh
trong ống nghiệm.

13


Mơ hình được tham khảo tại: (Truy cập ngày 21/ 07/ 2018).


14

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Vô sinh, hiếm muộn là những vấn đề mà mỗi xã hội đều phải đối mặt. Tuỳ từng
giai đoạn nhất định mà việc điều trị vô sinh, hiếm muộn được nhìn nhận một cách khác
nhau. Trong qua khứ, sinh con luôn là câu chuyện giữa vợ chồng. Những khó khăn, trở
ngại về sinh sản được xem là những điều thầm kín, khó chia sẻ và ít nhận được sự cảm
thông. Ngày nay, xã hội hiện đại đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với vấn đề này. Điều trị
vơ sinh khơng cịn được thực hiện hồn tồn thầm lặng, mà trái lại, q trình sinh sản
giờ đây nhận được sự quan tâm và hỗ trợ bởi rất nhiều nguồn lực trong xã hội. Các giải
pháp y học được áp dụng một cách phổ biến để giải quyết nhu cầu sinh con của nhiều
nhóm đối tượng. Bên cạnh cặp vợ chồng vô sinh, việc người phụ nữ độc thân chủ động
mang thai và sinh con đã không còn là điều xa lạ.
Sự phát triển của khoa học – kỹ thuật nói chung và y học nói riêng đã mang lại
những lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Vơ sinh, hiếm muộn khơng cịn là
những căn bệnh vô phương cứu chữa, khả năng sinh sản không cịn là đặt quyền mà chỉ
có tạo hố mới có thể mang lại. Khoa học đã mang đến cái nhìn sáng rõ đối với quá
trình sinh sản đầy phức tạp của con người và từ đó, phát triển những giải pháp hỗ trợ
khả năng sinh sản đầy hiệu quả. Những khám phá, phát huy, cải tiến công nghệ thụ tinh
nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm đã mang lại hi vọng cho hàng triệu cặp vợ chồng
về sự chào đời của hàng triệu em bé được sinh ra từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Khơng nằm ngồi xu hướng phát triển y học thế giới, trong hồn cảnh cịn nhiều
hạn chế về kinh tế, hạ tầng, nền y học Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, bắt
kịp các kỹ thuật tiên tiến trong lĩnh vực sản khoa. Mỗi năm nước ta có khoảng hơn
5000 trẻ em ra đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Với những chuyển mình
nhanh chóng của y học và nhu cầu áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản của rất nhiều đối
tượng, sự hình thành và phát triển của pháp luật về sinh con bằng phương pháp khoa

học đang là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý và định hướng cho sự phát triển của
hàng loạt các mối quan hệ phức tạp phát sinh trong xã hội.


15

CHƢƠNG 2. NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ĐƢỢC SINH
RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT
2.1.

Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con đƣợc sinh ra bằng kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản theo pháp luật hiện hành
2.1.1
Đối tượng áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Thứ nhất, người phụ nữ độc thân
Việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nêu trên phải được áp dụng trực tiếp trên
cơ thể người phụ nữ độc thân. Điều này có nghĩa: pháp luật chỉ điều chỉnh đối với
trường hợp: người phụ nữ độc thân áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để tự mình mang
thai và sinh con. Việc lựa chọn biện pháp cụ thể (thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong
ống nghiệm) phụ thuộc vào quyết định của người phụ nữ, cũng như chỉ định y học của
bác sỹ. Ngồi ra, người phụ nữ độc thân khơng thể nhờ người khác mang thai và sinh
con thay cho mình.
Thứ hai, cặp vợ chồng vơ sinh
Vơ sinh được hiểu “là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ
tình dục trung bình 2 - 3 lần/ tuần, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ
vẫn không có thai”14. Dưới góc độ pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản,
tình trạng vơ sinh chỉ được xác định đối với vợ chồng. Ngược lại, tình trạng này khơng
được đặt ra đối với người phụ nữ độc thân.

2.1.2.
Trường hợp biện pháp hỗ trợ sinh sản được áp dụng với người phụ nữ
độc thân hoặc cặp vợ chồng vơ sinh khi người phụ nữ có khả năng mang thai và
sinh con
Thứ nhất, đối với cặp vợ chồng vô sinh: “trong trường hợp người vợ sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều
88 của Luật HN&GĐ”. Điều này có nghĩa: các nguyên tắc xác định cha, mẹ trong
trường hợp cha mẹ tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp và con được sinh ra bằng cách
thức tự nhiên sẽ được áp dụng tương tự đối với trường hợp cặp vợ chồng sinh con bằng
14

Khoản 2 Điều 2 NĐ 10/2015/NĐ–CP.


16

kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Cụ thể hơn, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người
vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân là con chung của vợ chồng; con sinh ra trước ngày
đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Thứ hai, đối với người phụ nữ độc thân: “Trong trường hợp người phụ nữ sống
độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con
được sinh ra”15. Tuỳ thuộc từng trường hợp nhất định, người phụ nữ độc thân sẽ nhận
tinh trùng hoặc phơi để có thể mang thai và sinh con. Khi noãn đảm bảo chất lượng cho
việc thụ thai, người phụ nữ độc thân chỉ nhận tinh trùng được hiến để sinh con. Điều
này dẫn đến: con sinh ra có cùng huyết thống với người được xác định là mẹ. Ngược
lại, trong trường hợp chất lượng nỗn khơng cho phép thụ thai thành cơng, người phụ
nữ được nhận phơi16 (tức tinh trùng và nỗn của người hiến) để thực hiện mong muốn
sinh con. Kết quả là trẻ được sinh ra khơng mang trong mình huyết thống của người
phụ nữ độc thân. Đây là điểm hoàn toàn khác biệt với việc sinh con bằng cách thức tự
nhiên (con sinh ra ln mang trong mình huyết thống của người mẹ). Tuy vậy, trong cả

hai trường hợp, người phụ nữ vô sinh đều được xác định là mẹ (cho dù có cùng huyết
thống với con hay khơng).
2.1.3. Trường hợp hỗ trợ sinh sản đối với cặp vợ chồng vô sinh khi người vợ
khơng có khả năng mang thai và sinh con
Biện pháp hỗ trợ sinh sản thể hiện ý nghĩa trong việc cho phép cặp vợ chồng nhận
noãn, tinh trùng hoặc phôi được hiến hoặc đơn thuần là việc áp dụng kỹ thuật khoa học
để người vợ có thể thụ thai. Trong những trường hợp này việc hỗ trợ sinh sản thường
được thực hiện ở giai đoạn giúp cho người phụ nữ có thai dễ dàng nhưng người này
vẫn trực tiếp mang thai và sinh con.
Mang thai hộ được hiểu là việc một người phụ nữ mang thai cho cặp vợ chồng
khác trên cơ sở lấy trứng (noãn) của người vợ và tinh trùng của người chồng bằng
phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phát triển thành phôi, phôi này được cấy trở lại
dạ con của người phụ nữ mang thai hộ, sau khi sinh, người phụ nữ này phải trao lại con

15
16

Khoản 2 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014.
Khoản 1, Khoản 5 Điều 5 NĐ 10/2015/NĐ–CP.


17

cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.17 Có thể khẳng định mang thai hộ là một trong
những trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm). Tuy nhiên, xuất phát từ những khác biệt nhất định về chủ thể mang thai và
mục đích của việc mang thai, sinh con mà cần có sự phân biệt trong việc xác định tư
cách cha, mẹ, con giữa mang thai hộ với các trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản đơn thuần khác.
Pháp luật đã đặt ra hai điều kiện cần phải đáp ứng khi áp dụng biện pháp mang thai

hộ.
Thứ nhất, về chủ thể: mang thai hộ chỉ được áp dụng đối với cặp vợ chồng vô sinh
dù đã áp dụng biện pháp thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm nhưng vẫn
khơng thể có con. Đồng thời, vợ chồng phải đang khơng có con chung18.
Về phía người được nhờ mang thai hộ, họ phải là người thân thích cùng hàng của
bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ19. Người mang thai hộ phải đã từng sinh
con20 và chỉ được mang thai hộ một lần. Người phụ nữ mang thai hộ phải ở độ tuổi phù

17

Nguyễn Văn Lâm, “Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ - Quan niệm thế nào về huyết thống và
mẹ ”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, (Truy cập ngày 12/10/2018).
18
Có quan điểm cho rằng: quy định kể trên của pháp luật là chưa hợp lý vì: “có những cặp vợ chồng đã có con
chung rồi nhưng đứa con đó bị tật nguyền, do quá trình sinh nở phải can thiệt sản khoa chứ không phải tật nguyền
do bệnh lý di truyền và cũng vì sự can thiệt đó mà người mẹ phải cắt bỏ tử cung” thì việc cho phép nhờ mang thai
hộ vẫn nên được đặt ra. Xem thêm: Trần Đức Thắng (2016), “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật
hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí Nghề Luật, số 03, tr 59.
19
Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú,
con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ.
(Cũng về vấn đề này, việc xác định các chủ thể nam là Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng
nhờ mang thai hộ là chưa hợp lý).
Có quan điểm cho rằng cách hiểu về “người thân thích cùng hàng” được thể hiện tại Nghị định số
10/2015/NĐ-CP không thống nhất với cách hiểu về “người thân thích” được thể hiện tại Luật HN&GĐ
năm 2014.
Xem thêm: Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 06, tr 18.
Cũng về vấn đề này, cũng có tác giả cho rằng cần mở rộng nhóm chủ thể mang thai hộ (người thân thích

cùng hàng). Xem: Ngơ Thị Hồng Ánh (2015), “Cho phép mang thai hộ nhưng còn nhiều vướng mắc”,
Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 05, tr 40, tr 41.
20
Điều này giúp giảm thiểu khả năng người mang thai phát sinh tình cảm với trẻ được sinh ra. Xem thêm:
Jennifer Rimm (2009), Booming Baby Business: Regulating Commercial Surrogacy in India, University of
Pennsylvania Journal of International Law, p1442.


18

hợp21, có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Trường
hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người
chồng. Cũng như vợ chồng nhờ mang thai hộ, người phụ nữ mang thai hộ cần được tư
vấn về y tế, pháp lý và tâm lý.22
Thứ hai, về mục đích: việc mang thai hộ chỉ được thực hiện với mục đích nhân
đạo. Người phụ nữ mang thai hộ phải tự nguyện, khơng vì mục đích thương mại tức
khơng nhằm mục đích hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác23. Quy định về mang thai
hộ thể hiện ý nghĩa nhân văn khi giúp cho nguyện vọng chính đáng của cặp vợ chồng
khơng có khả năng tự mình sinh con được thực hiện.
2.2.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con đƣợc
sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
2.2.1.
Xác định quan hệ cha, mẹ cho con trong trường hợp mang thai hộ
2.2.1.1. Vấn đề xác định cha, mẹ cho con khi có sự vi phạm pháp luật về mang
thai hộ
Vấn đề xác định tư cách cha, mẹ - con sẽ phức tạp hơn khi việc mang thai hộ vi
phạm quy định pháp luật, tức không đáp ứng điều kiện về chủ thể hoặc mục đích mang
thai hộ. Song song với đó, pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam cũng không đặt ra
quy định cụ thể nhằm giải quyết vấn đề này. Câu hỏi đặt ra là: khi có sự vi phạm pháp

luật về mang thai hộ thì liệu việc xác định quan hệ cha mẹ, con có thể áp dụng theo
Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 hay không (hay quy định này chỉ được áp dụng với
những trường hợp mang thai hộ tuân thủ quy định của pháp luật mà thôi).
Theo chúng tôi, mặc dù quy định việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được
pháp luật đặt ra với nhiều điều kiện, quy định khắt khe. Tuy nhiên, việc vi phạm một
hoặc một vài điều kiện, quy định này không đồng nghĩa với việc xem cả q trình
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là bất hợp pháp, từ đó loại bỏ nguyên tắc áp dụng
xác định cha mẹ cho con sinh ra bằng biện pháp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
theo Điều 94 Luật HN&GĐ. Như vậy, cần phân định rõ các vi phạm ảnh hưởng tới
21

Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành khơng có quy định cụ thể về độ tuổi được cho là thích hợp để mang thai hộ.
Điều 95 Luật HN&GĐ 2014.
23
Khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
22


19

việc xác định có hay khơng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và ngược lại. Việc xác
định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chỉ nên căn cứ vào hai điều kiện tiên quyết: (i)
có việc mang thai hộ và (ii) có mục đích nhân đạo.
Mang thai hộ thể hiện ở việc một người phụ nữ giúp mang thai cho cặp vợ
chồng, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh
trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con. Điều kiện này yêu cầu việc mang thai hộ phải xuất
phát từ việc một người phụ nữ đồng ý sử dụng phôi của người khác. Do đó, nếu phơi
thai này khơng được hình thành từ trứng và tinh trùng của cặp vợ chồng thì khơng thể
xác định đây là trường hợp mang thai hộ. Ngoài ra, hiện nay pháp luật chỉ thừa nhận

việc mang thai hộ áp dụng đối với cặp vợ chồng. Do đó, nếu người nhờ mang thai hộ là
phụ nữ độc thân, đàn ông độc thân, nam nữ chưa kết hôn thì không được xác định là có
sự mang thai hộ theo quy định pháp luật.
Mục đích nhân đạo trong mang thai hộ thể hiện ở việc người phụ nữ tự nguyện
mang thai giúp cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi
áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ở đây điều kiện tiên quyết là sự tự nguyện mang thai
hộ của người phụ nữ do họ có cơ sở tin rằng cặp vợ chồng không thể mang thai và sinh
con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Nếu việc mang thai hộ này do bị
cưỡng ép, đe dọa hoặc có cơ sở để xác định cặp vợ chồng có thể mang thai và sinh con
nhưng vẫn đồng ý mang thai hộ thì khơng thể xác định đây là trường hợp mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo. Ngồi ra, nếu có cơ sở để xác định hoạt động mang thai hộ giữa
các bên có yếu tố kinh doanh thương mại, xem việc mang thai hộ như một dịch vụ
được cung cấp thì yếu tố nhân đạo cũng khơng được đáp ứng.
Như vậy, theo tác giả, ngoài hai điều kiện tiên quyết mà các bên phải đáp ứng
để xác định có hay khơng việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì các vi phạm khác
về điều kiện chủ thể hoặc mục đích trong mang thai hộ khơng phải là căn cứ để loại bỏ
tính chất mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Do đó việc xác định cha mẹ cho trẻ sinh
ra trong trường hợp mang thai hộ có vi phạm quy định của pháp luật có thể phân làm
hai trường hợp:


×