Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.19 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------

LÊ THỊ KIM ANH

TRÁCH NHIỆM CỦA VỢ CHỒNG VỀ
TÀI SẢN ĐỐI VỚI BÊN THỨ BA

CHUYÊN NGHÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TRÁCH NHIỆM CỦA VỢ CHỒNG VỀ
TÀI SẢN ĐỐI VỚI BÊN THỨ BA

SVTH: LÊ THỊ KIM ANH
Khóa: 36

MSSV: 1155020006

GVHD: ThS. LÊ THỊ MẬN


TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp niên khóa 2011- 2015, tác giả xin trân
trọng cảm ơn Thạc sỹ Lê Thị Mận - Giảng viên khoa Luật Dân sự Trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt thời gian thực hiện
luận văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cơ trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong
thời gian tác giả học tập tại trường.
Xin cảm ơn Thư viện Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tịa án nhân dân tỉnh Cà
Mau và Tịa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả
nghiên cứu đề tài.
Lời cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên
cạnh động viên và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thời gian làm khóa
luận.
Xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, ngày 17 thánh 7 năm 2015
Sinh viên
Lê Thị Kim Anh


DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

TAND


Tịa án nhân dân

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

BTTH

Bồi thường thiệt hại

Luật HN&GĐ năm 1959

Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959

Luật HN&GĐ năm 1980

Luật Hơn nhân và gia đình năm 1980

Luật HN&GĐ năm 2000

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000
(sửa đổi năm 2010)

Luật HN&GĐ năm 2014

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

BLDS năm 2005


Bộ luật Dân sự năm 2005

NĐ 126/2014/NĐ-CP

Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA VỢ
CHỒNG VỀ TÀI SẢN ĐỐI VỚI BÊN THỨ BA...................................... 01
1.1 Khái niệm cơ bản ........................................................................................ 01
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm liên đới, trách nhiệm riêng rẽ .............. 01
1.1.2 Khái niệm tài sản .......................................................................................... 03
1.1.3 Khái niệm trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba ..................... 04
1.2 Đặc điểm của trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba .......... 05
1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba .... 09
1.3.1 Vợ chồng xác lập giao dịch hợp pháp với bên thứ ba .................................... 09
1.3.2 Mục đích của giao dịch giữa vợ chồng với bên thứ ba .................................. 12
1.3.3 Ngoại lệ ........................................................................................................ 13
1.4 Lược sử pháp luật về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba
...................................................................................................................... 16
1.4.1 Giai đoạn trước khi Luật HN&GĐ năm 1959 có hiệu lực ............................. 16
1.4.2 Giai đoạn Luật HN&GĐ năm 1959 có hiệu lực (từ ngày 13/1/1960 ở miền
Bắc; 25/3/1977 ở miền Nam) ................................................................................. 18
1.4.3 Giai đoạn Luật HN&GĐ năm 1980 có hiệu lực (từ ngày 3/1/1987 đến ngày

31/12/2000) ........................................................................................................... 21
1.4.4 Giai đoạn Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực (từ ngày 1/1/2001 đến ngày
31/12/2014) ........................................................................................................... 22
1.5 Pháp luật trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba của một số
quốc gia trên thế giới ........................................................................................... 23

CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA VỢ CHỒNG VỀ TÀI SẢN VỚI
BÊN THỨ BA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.... 27
2.1 Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba theo thỏa thuận ..... 27
2.2 Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba theo luật định ........ 29


2.2.1 Trách nhiệm chung của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba .......................... 29
2.2.2 Trách nhiệm riêng rẽ của vợ, chồng về tài sản với bên thứ ba....................... 47

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM CỦA VỢ CHỒNG VỀ TÀI SẢN VỚI BÊN THỨ BA VÀ GIẢI
PHÁP PHÁP LÝ HOÀN THIỆN .............................................................. 53
3.1 Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với
bên thứ ba….. ...................................................................................................... 53
3.1.1 Vợ chồng tự thỏa thuận việc thực hiện trách nhiệm tài sản với bên thứ ba .... 53
3.1.2 Trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba phát sinh trong thời kỳ hôn
nhân ...................................................................................................................... 54
3.1.3 Trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba phát sinh sau khi ly hôn .. 65
3.1.4 Trách nhiệm tài sản phát sinh với bên thứ ba của người nam và người nữ
chung sống với nhau như vợ chồng........................................................................ 70
3.2 Nguyên nhân phát sinh thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm tài
sản của vợ chồng với bên thứ ba ......................................................................... 72
3.3 Giải pháp pháp lý hoàn thiện về trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên
thứ ba ................................................................................................................... 73

3.3.1 Trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba liên quan đến giao dịch do
vợ, chồng thực hiện ............................................................................................... 73
3.3.2 Trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba không phát sinh từ giao dịch
dân sự.................................................................................................................... 79
3.3.3 Trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba phát sinh sau khi ly hôn ... 79

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong tiến trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người, gia
đình đóng vai trị hết sức quan trọng. Mỗi con người từ khi mới là phôi thai trong
bụng mẹ, rồi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi nhắm mắt xi tay dù giàu nghèo,
sang hèn, địa vị cao thấp đều gắn liền với gia đình.
Từ xa xưa, cha ơng ta đã có “Đạo minh gia huấn” để giáo dục nhân cách sống
cho mỗi cá nhân trong từng gia đình, cùng với những luật lệ nghiêm khắc đối với
những hành vi sai trái của mỗi con người trước gia đình, dịng họ và xã hội. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của xã hội, việc thiết lập các mối quan hệ trong văn hố
gia đình để xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững được đặt ra hết sức quan trọng.
Nam nữ khi khi xác lập quan hệ vợ chồng với nhau, ngồi chức năng sinh sản, ni
dưỡng, giáo dục con cái, thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên gia đình
cịn xác lập quan hệ với chủ thể thứ ba về tài sản. Vấn đề tài sản đóng vai trị ít nhất
30% vào sự ổn định và phát triển của “tế bào” gia đình trong xã hội. Pháp luật được
xây dựng nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản, cịn quan hệ tình cảm thì khơng dựa vào
luật.
Trong đời sống gia đình có rất nhiều quan hệ nảy sinh, vợ chồng bên cạnh

nghĩa vụ yêu thương, gắn kết, tôn trọng lẫn nhau cịn đặt mối quan hệ đó trong một
xã hội. Có nghĩa là họ khơng chỉ chung sống với nhau, mà phải thiết lập giao dịch
với bên thứ ba nhằm duy trì cuộc sống gia đình. Điều đó trở thành một tất yếu
khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Cụ thể là quan hệ giữa một
bên vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng đối với chủ thể thứ ba liên quan đến tài
sản như: vay mượn, mua bán, tặng cho… điều này cũng xuất phát từ nguyên tắc
chung của pháp luật trong viêc bảo về quyền lợi của bên thứ ba.
Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba không những được quy
định trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự và Luật Hơn
nhân và Gia đình. Trong bối cảnh Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 hiệu lực từ
ngày 1/1/2015 quy định có nhiều điểm mới sửa đổi mà đặc biệt là liên quan đến chế
định tài sản của vợ chồng. Theo đó, ngồi chế độ tài sản luật định, nay cịn bổ sung
chế độ tài sản theo thỏa thuận. Điều này có ý nghĩa trong việc xác định chủ tài sản
có quyền xác lập, thay đổi, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản được hình
thành trước và sau khi kết hơn. Do đó, việc phân chia đâu là tài sản chung, đâu là tài
sản riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi lẽ giúp xác định được đó là trách nhiệm
được đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung hay riêng. Khi một bên thứ ba xác lập,
thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, để


xác định đó là tài sản chung hay riêng, cần lưu ý ngồi việc xác định rõ hai vợ
chồng có thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân hay nhập tài sản riêng thành
tài sản chung hay không, cần xác định có thỏa thuận lựa chọn áp dụng chế độ tài sản
theo thỏa thuận hay không. Bên cạnh đó vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa
thuận khi xác lập, thực hiện giao dịch có nghĩa vụ thông báo với bên thứ ba, nếu
không thông báo bên thứ ba sẽ được coi là người ngay tình và được bảo vệ theo quy
định tại Điều 138, 257, 258 của Bộ luật Dân sự 2005. Do đó, khi một bên thứ ba xác
lập giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng thì các bên buộc phải tuân thủ thực
hiện nghĩa vụ đúng theo thỏa thuận, khi vợ chồng không thực hiện, hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ, hoặc khi gây ra thiệt hại... sẽ phát sinh trách nhiệm của

vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Cần làm rõ trách nhiệm đó là trách nhiệm gì,
đồng thời với việc sử dụng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ đối với bên thứ ba
có được sử dụng tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ này hay khơng.
Từ đó cho thấy chế định tài sản mới này làm nảy sinh nhiều vấn đề liên quan
đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Bên cạnh đó, tác giả
nhận thấy có rất ít cơng trình nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chế định này cho nên
tác giả chọn “Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm hồn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của vợ chồng về tài
sản, đồng thời đề cao việc bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba, tác giả đi vào phân tích
về chế độ tài sản của vợ chồng, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm, đặc điểm của
trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Quan trọng là đưa ra thực
trạng, bất cập và hướng giải quyết chấm dứt sự thiếu thống nhất trong thực tiễn xét
xử của Tòa án. Với đề tài “Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba” tác
giả đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ các vấn đề liên quan đến giao dịch của vợ chồng đối với bên thứ ba
và trách nhiệm của vợ, chồng trong trường hợp người thứ ba là người có quyền cịn
vợ chồng là người có nghĩa vụ phải thực hiện. Cụ thể hóa các quy định chung của
pháp luật như: các khái niệm cơ bản liên quan đến tài sản, trách nhiệm liên đới,
trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba; các quy định của pháp luật liên
quan đến trách nhiệm tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành.
- Mô tả thực trạng các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng với bên
thứ ba và hướng giải quyết của Tòa án. Đồng thời, nêu ra ý kiến cá nhân bình luận
về thực trạng nói trên.
- Đề xuất những giải pháp nhằm pháp lý hoàn thiện quy định của pháp luật.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba.

Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu toàn bộ các quy định của pháp luật liên
quan đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba.
- Về phạm vi: Bên cạnh phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến chế định trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ ba, còn đối chiếu
với những quy định liên quan đến pháp luật nước ngoài, cụ thể là Mỹ và Thái Lan.
4. Tổng quan về thực trạng nghiên cứu
Trong thời gian qua có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến tài sản
và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tiêu biểu như:
- Lê Vĩnh Châu (2001), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và
Gia đình hiện hành, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Hiền (2011), Giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn
của vợ chồng và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Trung Tín (2014), Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt
hại do con chưa thành niên gây ra, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh.
- Nguyễn Thị Hồng Mai (2003), Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, thực
trạng và kiến nghị, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
- Lê Vĩnh Châu – Lê Thị Mận (2011), Tuyển tập các bản án, quyết định của
Tòa án Việt Nam về HN&GĐ, Nxb. Lao động.
- Đỗ Văn Đại (2007), “Giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng và đồng
thừa kế”, Tòa án nhân dân, số 21/2007, tr. 6-13.
- Nguyễn Hồng Hải (2000), “Nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định
của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000”, Luật học, tr. 19-23.
- Nguyễn Văn Cừ (2014), “Một số giao dịch cơ bản về chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật Việt Nam – được kế thừa và phát triển trong dự thảo Luật Hơn
nhân và gia đình sửa đổi, Tịa án nhân dân, tr. 3-7.
- Đoàn Thị Phương Diệp (2014), “Chế độ tài sản giữa vợ chồng trong dự thảo
Luật Hôn nhân và Gia đình”, Nghiên cứu lập pháp, tr. 20-24… và các cơng trình

nghiên cứu khác.
Những nghiên cứu trên là nguồn thơng tin quan trọng trong việc phân tích,
tổng quan, nhận định phù hợp với những thay đổi của chế độ hôn nhân và gia đình.


Những cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu đi sâu vào chế độ tài sản của vợ chồng
hoặc liên quan đến việc thiết lập giao dịch của vợ, chồng mà chưa đề cập đến trách
nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Hơn nữa, do những quy định mới
của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 mới đi vào thực tế nên khi tìm hiểu về
trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba cần phải nghiên cứu đối chiếu
cả lý luận với thực tiễn xét xử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu về “Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên
thứ ba”, tác giả mong muốn đóng góp cơng sức của mình vào việc nghiên cứu về
pháp luật hơn nhân và gia đình và đặc biệt là trách nhiệm của vợ chồng về tài sản
với bên thứ ba.
Với kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả hy vọng cung cấp đầy đủ và toàn
diện các quy định của pháp luật liên quan đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản
đối với bên thứ ba. Qua đó, hy vọng sẽ thu hút được sự quan tâm của quý độc giả và
nghiên cứu sâu hơn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giải sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp liệt kê: Phương pháp này được sử dụng trong quá trình thu thập
số liệu, bản án trong thực tiễn xét xử của ngành Tòa án khi giải quyết tranh chấp về
quan hệ hôn nhân và gia đình liên quan đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với
bên thứ ba.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng hầu như
xuyên suốt cả đề tài. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp đề nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba,
khái quát nội dung cơ bản của từng vấn đề được tìm hiểu.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được thực hiện khi tìm hiểu về trách
nhiệm của vợ chồng với bên thứ ba của một số giai đoạn trong lịch sử. Đồng thời,
còn nghiên cứu so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới liên quan đến
chế định này.
- Phương pháp bình luận: Phương pháp này sử dụng để đưa ra ý kiến, đánh
giá, bình luận của tác giả về chế định trách nhiệm tài sản của vợ chồng với bên thứ
ba.
7. Bố cục
Kết cấu đề tài được chia thành 3 chương:


Chương 1. Lý luận chung về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ
ba.
Chương 2. Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Chương 3. Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm của vợ chồng về tài
sản với bên thứ ba và giải pháp hoàn thiện.


1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA VỢ CHỒNG VỀ
TÀI SẢN VỚI BÊN THỨ BA
Vợ và chồng là những người xác lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Kể từ thời điểm xác lập quan hệ hơn
nhân, vợ và chồng có các quyền và nghĩa vụ pháp lý, nhưng trong đó, quyền và
nghĩa vụ về tài sản được quan tâm đặc biệt. Với tình hình kinh tế xã hội hiện nay,
khi vợ chồng càng tích cực tham gia vào các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần của cá nhân và gia đình, các mối quan hệ về tài sản đối với bên thứ
ba phát sinh ngày càng đa dạng và phức tạp. Việc xác định đúng đắn trách nhiệm
của vợ chồng đối với chủ thể thứ ba là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu

một cách toàn diện và cụ thể.
Pháp luật hơn nhân và gia đình (sau đây gọi là pháp luật HN&GĐ) Việt Nam
đã kế thừa và phát triển các quy định về trách nhiệm tài sản của vợ chồng đối với
chủ thể thứ ba qua các thời kỳ là một quá trình tất yếu và mang tính lịch sử.
1.1 Khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm liên đới, trách nhiệm riêng rẽ
1.1.1.1 Khái niệm trách nhiệm
Thuật ngữ “trách nhiệm” trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống có những
cách hiểu khác nhau.
Trong lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, thuật ngữ “trách nhiệm” được
hiểu theo nghĩa tích cực, là toàn tâm toàn ý thực hiện một việc cho người nào đó.
Có thể kể đến như trách nhiệm của cha mẹ, trách nhiệm của con cái, trách nhiệm
của công dân… Nếu một người sống “thiếu trách nhiệm” sẽ bị xã hội lên án.
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm được hiểu theo cả hai nghĩa tích cực và
tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, trách nhiệm có nghĩa là phần công việc, nhiệm vụ
được giao, là những nghĩa vụ phải thực hiện. Chủ thể có trách nhiệm phải có thái độ
tích cực thực hiện. Ở khía cạnh tiêu cực, trách nhiệm lại được hiểu là hậu quả bất
lợi mà các cá nhân hoặc cơ quan tổ chức phải gánh chịu nếu không thực hiện, thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Pháp luật bên cạnh việc quy định một người được thực hiện quyền đồng thời
cũng quy định cho họ những nghĩa vụ tương ứng. Bởi vậy khi các chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định, đều phải chịu trách nhiệm
trước người có quyền. Nói như vậy khơng có nghĩa trách nhiệm là một sự trừng


2
phạt, mà có thể là việc buộc người vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ nào đó hoặc
buộc phải khắc phục, sửa chữa một thiệt hại hoặc cũng có thể là phải gánh chịu một
hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần.

Một chủ thể khi bị xâm phạm có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ thể thực hiện
hành vi xâm phạm thực hiện trách nhiệm bằng nhiều phương thức khác nhau, phổ
biến nhất là buộc phải thực hiện nghĩa vụ hoặc buộc phải bồi thường.
1.1.1.2 Khái niệm trách nhiệm liên đới
Khái niệm nghĩa vụ dân sự liên đới được quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2005 (sau đây gọi là BLDS năm 2005). “Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do
nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
1

những người có nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ” . Từ khái niệm này, có
thể rút ra khái niệm về trách nhiệm liên đới như sau:
Trách nhiệm liên đới là loại trách nhiệm nhiều người, mà theo đó, mỗi người
trong số những người có trách nhiệm phải gánh chịu đối với toàn bộ nghĩa vụ và
mỗi người trong số những người có quyền đều có quyền yêu cầu người chịu trách
nhiệm phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cho mình.
Có thể thấy, trách nhiệm liên đới phát sinh khi trước đó giữa các bên có thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định các bên tồn tại với nhau nghĩa vụ dân sự liên đới. Có
nghĩa là những người có nghĩa vụ ln có mối liên hệ với nhau trong suốt q trình
thực hiện tồn bộ nghĩa vụ. Trong trường hợp có phát sinh thiệt hại thì thiệt hại
trong trách nhiệm liên đới là một thể thống nhất không thể phân định được cho từng
người gây ra thiệt hại. Do đó, khi một người trong số những người có trách nhiệm
đã thực hiện tồn bộ trách nhiệm thì quan hệ trách nhiệm của tất cả những người đó
đối với người có quyền chấm dứt. Đồng thời, phát sinh trách nhiệm hoàn lại của
những người chưa thực hiện với người đã thực hiện tồn bộ trách nhiệm. Có thể lấy
ví dụ về trách nhiệm liên đới như: A và B vay tiền của C 30 triệu đồng, số tiền vay
được sử dụng vào mục đích là mua nhà chung. Khi đó, A và B tồn tại nghĩa vụ liên
đới đối với C. Trước đó, các bên có thỏa thuận nếu hết thời hạn trả nợ mà A và B
không thanh tốn thì A và B phải liên đới thực hiện việc trả nợ cho C. Thực tế là, đã
hết thời hạn trả nợ, A và B vẫn khơng thanh tốn cho C, điều này đồng nghĩa với

việc phát sinh trách nhiệm liên đới giữa A và B đối với C.

1

Khoản 1 Điều 248 BLDS năm 2005.


3
1.1.1.3 Khái niệm trách nhiêm riêng rẽ
Trách nhiệm riêng rẽ cũng là loại trách nhiệm nhiều người. Tuy nhiên, mỗi
người trong số những người có trách nhiệm chỉ phải thực hiện phần trách nhiệm đối
với nghĩa vụ của mình hoặc với phần thiệt hại do mình gây ra một cách độc lập,
không liên quan đến người khác và mỗi người trong số những người có quyền chỉ
có quyền yêu cầu người có trách nhiệm đó thực hiện riêng phần quyền của mình.
Xét về măt bản chất, loại trách nhiệm này xác định giữa những người cùng
thực hiện nghĩa vụ không có sự liên quan lẫn nhau, cho nên nghĩa vụ được xác định
thành từng phần và mỗi người thực hiện nghĩa vụ theo phần của mình một cách
riêng rẽ. Và khi người có trách nhiệm riêng rẽ thực hiện xong trách nhiệm của
mình, lúc này quan hệ trách nhiệm của họ đối vói người có quyền chấm dứt nhưng
quan hệ trách nhiệm giữa người có trách nhiệm khác với người có quyền đó vẫn cịn
tồn tại.
1.1.2 Khái niệm tài sản
Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai, bởi đơn giản tài sản gắn
liền với cuộc sống của mỗi người. Tuy nhiên, quan niệm đời thường với quan niệm
pháp lý về tài sản có phần khác biệt.
Theo nghĩa thông thường “tài sản là của cải vật chất, hoặc tinh thần có giá trị
2

đối với chủ sở hữu” . Về mặt pháp lý, BLDS năm 2005 không giải nghĩa như khái
niệm được nói ở trên mà khái niệm về tài sản là sự liệt kê “Tài sản bao gồm vật,

3

tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” .
Tài sản bao gồm vật, song phải là vật có thực, có thể tồn tại hiện hữu hoặc
hình thành trong tương lai, mang lại lợi ích cho con người và đặc biệt là phải được
sở hữu, tức là thuộc quyền sở hữu của chủ thể trong quan hệ pháp luật.
Tiền là vật ngang giá chung làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác.
Dưới góc độ kinh tế, tiền có chức năng dùng để thanh tốn, phương tiện lưu thông
và phương tiện cất giữ. Bản thân tiền khơng có giá trị nhưng khi dùng trên thị
trường với vai trị trung gian thì tiền lại là tài sản.
Giấy tờ có giá bao gồm giấy tờ có giá ngắn hạn, giấy tờ có giá dài hạn, giấy tờ
có giá ghi danh, séc, công trái và các loại chứng khốn…

2
3

Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Hà Nội, tr. 884.
Điều 163 BLDS năm 2005.


4
Ngồi ra, tài sản cịn bao gồm quyền tài sản. “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí
4

tuệ” . Khác với vật là tài sản hữu hình thì quyền tài sản là tài sản vơ hình, một
quyền được xem là quyền tài sản nếu trị giá được bằng tiền và đồng thời là đối
tượng có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự.
Mọi cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác đều có quyền sở hữu tài sản. Pháp
luật quy định có nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, sở hữu tư

nhân, sở hữu chung. Trong đó sở hữu của vợ chồng về tài sản là sở hữu chung hợp
nhất.
1.1.3 Khái niệm về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba
Sự kiện kết hôn hoặc việc sống chung như vợ chồng đủ tiêu chí xác định là
“hơn nhân thực tế” làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Bên cạnh
nhóm quan hệ về nhân thân, nhóm quan hệ về tài sản đóng vai trị quan trọng trong
đời sống gia đình, chứa đựng nét đặc trưng gắn liền với nhân thân vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 2014 là văn bản luật chứa đựng nhiều tiến bộ trong lĩnh
vực HN&GĐ, cụ thể là những quy định về chế độ tài sản. Bên cạnh chế độ tài sản
pháp đinh, vợ chồng còn có thể thỏa thuận lựa chọn chế độ tài sản ước định để điều
chỉnh mọi vấn đề phát sinh liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Tuy nhiên, dù là
chế độ nào được áp dụng thì quy định về trách nhiệm tài sản của vợ chồng đối với
bên thứ ba vẫn được quan tâm, chú trọng. Bởi tính chất cộng đồng tài sản của hôn
nhân, tài sản chung được sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sống chung của gia đình. Mặt
khác, pháp luật cũng tơn trọng quyền về tài sản riêng của vợ, chồng. Vợ và chồng
có quyền và nghĩa vụ về tài sản, đồng thời các giao dịch của vợ, chồng liên quan
đến tài sản với chủ thể thứ ba ngày càng trở nên phổ biến đặt ra trách nhiệm của vợ,
chồng về tài sản đối với bên thứ ba.
Đối tượng được đảm bảo thực hiện trách nhiệm này của vợ, chồng là tài sản,
đó có thể là tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ, chồng. Ví dụ như A và B là vợ
chồng, cùng nhau thiết lập giao dịch mua bán xe với C. Trong quá trình thực hiện
giao dịch, A và B cùng gây thiệt hại cho C, nếu C có yêu cầu bồi thường thiệt hại
thì lúc này trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba phát sinh, có
nghĩa là A và B phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C bằng tài sản chung
của họ (hoặc phần đóng góp của mỗi bên, nếu tài sản chung khơng có, khơng đủ).

4

Điều 181 BLDS năm 2005.



5
Pháp luật dân sự và pháp luật HN&GĐ vẫn chưa dự liệu được thế nào là trách
nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Vì vậy, dựa trên các khái niệm
5

6

liên quan về nghĩa vụ dân sự , trách nhiệm liên đới của vợ chồng , tác giả đưa ra
khái niệm về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba như sau: Trách
nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba là loại trách nhiệm đặc biệt của
vợ chồng, có thể phát sinh do thỏa thuận của các bên trước khi kết hôn hoặc do
pháp luật quy định, tức là thơng qua các phán quyết của Tịa án (nếu có tranh
chấp) hoặc do vợ chồng tự thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba, nhằm bảo đảm lợi ích
hợp pháp của bên thứ ba xuất phát từ giao dịch do vợ, chồng thực hiện.
Từ những khái niệm được nói ở trên về trách nhiệm, trách nhiệm liên đới,
trách nhiệm riêng rẽ…Có thể rút ra những đặc điểm cơ bản về trách nhiệm của vợ
chồng về tài sản đối với bên thứ ba.
1.2 Đặc điểm của trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba
Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba là loại trách nhiệm
mang tính đặc thù, chứa đựng những đặc điểm sau đây:
Đặc điểm thứ nhất: Một bên chủ thể trong chế định trách nhiệm của vợ
chồng về tài sản đối với bên thứ ba luôn là vợ, chồng. Trong mối quan hệ này, bên
chịu trách nhiệm về tài sản là hai vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng. Sở dĩ, nói cả
hai vợ chồng thực hiện là khi trách nhiệm phát sinh là trách nhiệm chung của vợ
chồng. Ngược lại, do một bên vợ, chồng thực hiện khi trách nhiệm phát sinh là trách
nhiệm riêng rẽ của vợ, chồng gắn với những nghĩa vụ riêng mà mỗi bên vợ, chồng
phải thực hiện. Bên có quyền yêu cầu trách nhiệm về tài sản là chủ thể thứ ba đã
thiết lập giao dịch hợp pháp với vợ chồng hoặc gánh chịu thiệt hại đối với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại (sau đây gọi là BTTH) ngoài hợp đồng. Cụ thể là cá

nhân, cơ quan, tổ chức…
Đây là một loại trách nhiệm dân sự, cho nên, các bên đều có quyền tự mình
thiết lập theo ý chí, nguyện vọng của chính mình. Trách nhiệm ràng buộc giữa các
bên chủ thể có mối quan hệ bình đẳng với nhau, hồn tồn khác với trách nhiệm
pháp lý hành chính hay trách nhiệm pháp lý hình sự là quan hệ bất bình đẳng giữa
người vi phạm với Nhà nước. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp thì việc giải
quyết thơng thường sẽ do các bên tự thỏa thuận, thực hiện. Cơ quan giải quyết tranh

5
6

Điều 280 BLDS năm 2005.
Điều 27 Luật HNGĐ năm 2014.


6
chấp chỉ can thiệp trong trường hợp các bên không tự giải quyết được và có yêu
cầu.
Đặc điểm thứ hai: Luôn mang đến hậu quả cho vợ, chồng. Hậu quả có thể
được xác định dựa vào thỏa thuận trong hơn ước của vợ chồng trước khi kết hôn
hoặc do thỏa thuận của vợ chồng đối với chủ thể thứ ba hoặc do luật định. Chung
quy lại, hậu quả mà vợ chồng phải gánh chịu là việc thực hiện nghĩa vụ thanh tốn
hoặc BTTH nhằm thỏa mãn lợi ích chính đáng của bên thứ ba, khắc phục hậu quả
vật chất cho bên thứ ba. Có quan điểm cho rằng “trách nhiệm của vợ chồng về tài
sản đối với bên thứ ba luôn mang đến hậu quả bất lợi cho vợ, chồng”. Theo quan
điểm của tác giả, nói “hậu quả bất lợi” là không hợp lý. Bởi lẽ, không phải trong
trường hợp nào vợ, chồng cũng phải gánh chịu hậu quả bất lợi, mà hậu quả bất lợi
chỉ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng. Trong khi trách nhiệm về
tài sản của vợ, chồng có thể phát sinh từ một giao dịch hợp pháp, khơng hề có hành
vi vi phạm pháp luật, như giao dịch vay tài sản, khi đến hạn thanh toán vợ chồng

đứng ra liên đới thanh toán khoản nợ đối với bên cho vay. Vậy, đối với chế định
trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể thứ ba, chủ thể phải gánh chịu
hậu quả là vợ, chồng.
Đặc điểm thứ ba: Bao gồm trách nhiệm chung (trách nhiệm liên đới) và trách
nhiệm riêng của vợ, chồng về tài sản đối với bên thứ ba. Khi có căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm của vợ chồng đối với chủ thể thứ ba, trước hết phải xác định nghĩa
vụ ràng buộc trước đó giữa các bên là nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng của vợ,
chồng. Nếu nghĩa vụ chung phát sinh từ giao dịch do hai vợ, chồng thực hiện hoặc
từ giao dich do một bên vợ, chồng thực hiện nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết
yếu, vì lợi ích chung hoặc từ việc BTTH ngồi hợp đồng thì xác định đó là trách
nhiệm chung về tài sản của vợ chồng. Cịn nếu là nghĩa vụ riêng thì xác định đó là
trách nhiệm riêng rẽ của vợ, chồng.
Đặc điểm thứ tư: Trách nhiệm riêng về tài sản của một bên vợ, chồng cũng
có thể được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng và ngược lại. Đặc
điểm này có thể hiểu như sau:
- Trường hợp 1: Trách nhiệm riêng rẽ về tài sản của một bên vợ, chồng có thể
được đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng.
- Trường hợp 2: Trách nhiệm liên đới về tài sản của vợ chồng ngoài việc được
đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung, còn được dùng tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng vào thanh toán.


7
Về mặt nguyên tắc, giao dịch thiết lập dựa trên sự thỏa thuận của hai bên vợ
chồng và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì khi trách nhiệm phát sinh, vợ
chồng có nghĩa vụ sử dụng tài sản chung để đem ra thanh toán. Ngược lại, nếu giao
dịch do một bên vợ, chồng thiết lập khơng vì lợi ích chung của gia đình mà bên cịn
lại khơng đồng thuận thì bên vợ, chồng đó phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
riêng của mình.
Tuy nhiên, kể từ lúc kết hơn, vợ, chồng khơng cịn là những cá thể độc lập,

mọi hoạt động của cuộc sống đều hướng đến mục đích chung là duy trì và phát triển
gia đình. Để thực hiện các nghĩa vụ chung nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình thì
tài sản chung được đem ra chi dùng. Ngồi ra, tài sản riêng cịn được sử dụng để
thực hiện các nghĩa vụ chung của gia đình tùy thuộc vào quyền tự định đoạt của một
bên vợ, chồng là chủ sở hữu. Trong trường hợp các bên thỏa thuận dùng tài sản
riêng để đảm bảo thực hiện cho trách nhiệm chung hoặc dùng tài sản chung để đảm
bảo thực hiện cho trách nhiệm riêng thì vẫn được pháp luật cơng nhận. Bởi lẽ, nó
phù hợp với nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, được
ghi nhận trong BLDS, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do thỏa thuận để xác
lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó khơng vi phạm điều cấm của
pháp luật và đạo đức xã hội. Hơn nữa, xét trong phạm vi của quan hệ gia đình, vợ
chồng có bổn phận, trách nhiệm phải đảm bảo những điều kiện về tinh thần cũng
như vật chất cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Những thỏa thuận của vợ
chồng hướng đến lợi ích chung của gia đình được pháp luật khuyến khích và ghi
nhận. Điều này được thể hiện thơng qua ví dụ sau đây: H và K là vợ chồng, trong
q trình chung sống, H có thực hiện giao dịch vay tài sản của M để cho con riêng
của mình là P. Việc H xác lập giao dịch vay tiền đối với M khơng có sự đồng thuận
của K và mục đích của giao dịch hướng đến là vì lợi ích cá nhân của H. Cho nên
xác định đây là nghĩa vụ riêng của H và không liên quan đến một bên vợ, chồng còn
lại là K. Đến hạn trả nợ, H thanh toán cho M, tuy nhiên tài sản riêng của H không
đủ trả nợ. Lúc này H và K thỏa thuận đưa tài sản chung của vợ chồng vào thanh
toán cho M. Việc trách nhiệm riêng của một bên vợ, chồng được bảo đảm thực hiện
bằng tài sản chung được pháp luật thừa nhận. Giả xử, nếu K không đồng ý đưa tài
sản chung của vợ chồng ra để thanh toán cho khoản nợ riêng của chồng thì có thể sẽ
dẫn đến việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện nghĩa vụ. Việc phân
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tuy đảm bảo được lợi ích của hai bên vợ
chồng, nhưng xét trên khía cạnh của quan hệ hơn nhân, sự ổn định của gia đình lúc
này có thể khơng được đảm bảo. Đối với trách nhiệm liên đới cũng vậy, về mặt
nguyên tắc đó là trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng, cho nên sẽ được bảo đảm



8
thực hiện bằng khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, nếu tài sản chung
khơng có, khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ thì các bên vợ chồng có quyền dùng tài
sản riêng của mình đem ra thực hiện nghĩa vụ chung. Dù là trách nhiệm chung hay
trách nhiệm riêng thì chủ thể thực hiện trách nhiệm cũng là vợ, chồng và liên quan
trực tiếp đến lợi ích của gia đình. Mà gia đình là tế bào của xã hội, gia đình ổn định
thì xã hội mới phát triển. Vậy, đối với những thỏa thuận của vợ chồng vì lợi ích
chung, đảm bảo sự phát triển ổn định của gia đình thì ln được pháp luật tơn trọng.
Đặc điểm thứ năm: Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba
có thể được xác định bằng thỏa thuận của vợ chồng trước khi kết hơn (cịn gọi là
chế độ tài sản ước định) hoặc theo pháp luật thực định (còn gọi là chế độ tài sản
pháp định).
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định bên cạnh chế độ tài sản pháp định, vợ
chồng có quyền lựa chọn chế độ tài sản ước định để điều chỉnh những vấn đề liên
quan đến tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó
pháp luật đã dự liệu về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia
tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc
gia trên thế giới dự liệu. Khác với chế độ tài sản pháp định, các quy định tương ứng
về chế độ tài sản của vợ chồng sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận. Khi áp dụng chế độ tài
sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận về chế độ tài sản áp dụng trong thời
kì hôn nhân và khi hôn nhân chấm dứt. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó là hơn
ước.
Nếu các bên lựa chọn chế độ tài sản ước định thì thỏa thuận đó phải lập trước
khi kết hơn, bằng văn bản, có thể cơng chứng hoặc chứng thực theo quy định của
pháp luật. Thỏa thuận có những nội dung cơ bản sau: tài sản nào được xác định là
tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; trách nhiệm của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu
của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ

tài sản; nội dung khác có liên quan. Các vấn đề phát sinh liên quan đến chế độ tài
sản của vợ chồng nói chung hay trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể
thứ ba nói riêng được áp dụng theo đúng những gì được ghi nhận trong thỏa thuận.
Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được
vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận khơng rõ ràng thì áp dụng quy định tại các
điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HNGĐ năm 2014, quy định tương ứng của chế độ tài
sản theo luật định.


9
Những quy định về trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể thứ ba
được áp dụng dù là theo chế độ luật định hay thỏa thuận thì đều khơng được trái
pháp luật, đạo đức xã hội.
1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba
Quan hệ của vợ chồng với chủ thể thứ ba về tài sản là quan hệ pháp luật dân
sự. Quan hệ này phát sinh khi có những căn cứ luật định dưới đây:
1.3.1 Vợ chồng đã xác lập giao dịch hợp pháp với chủ thể thứ ba
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự7. Theo đó, khi vợ chồng
hoặc một bên vợ chồng thiết lập giao dịch với chủ thể thứ ba, để phát sinh trách
nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba thì buộc giao dịch đó phải là một
giao dịch hợp pháp. BLDS năm 2005 ghi nhận như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hồn tồn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định”8
Theo đó, một giao dịch của vợ chồng với chủ thể thứ ba chỉ được coi là có

hiệu lực (hay cịn gọi là hợp pháp) nếu tuân thủ điều kiện về nội dung và hình thức
của một giao dịch dân sự.
Về mặt nội dung, thứ nhất, người tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực
hành vi dân sự (sau đây gọi là NLHVDS). Có nghĩa là, vợ, chồng và chủ thể thứ ba
khi thiết lập giao dịch phải có NLHVDS. NLHVDS được hiểu là khả năng của cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự9. Như vậy,
khả năng thực hiện giao dịch phụ thuộc vào NLHVDS của cá nhân, được xác định
thông qua độ tuổi. Bởi cá nhân ở mỗi độ tuổi khác nhau có mức độ nhận thức khác
nhau về hành vi cũng như là hậu quả của hành vi gây ra nên sẽ có khả năng tham
gia, xác lập giao dịch dân sự khác nhau. Căn cứ vào quy định tại Điều 8 Luật

7

Điều 121 BLDS năm 2005.
Điều 122 BLDS năm 2005.
9
Điều 17 BLDS năm 2005.
8


10
HN&GĐ năm 2014 và Điều 17, 21, 22 của BLDS năm 2005 thì vợ, chồng là người
từ đủ 18 tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố mất
NLHVDS hoặc tuyên bố hạn chế NLHVDS.
Vợ, chồng là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có tồn quyền tham gia
mọi giao dịch dân sự để tự xác lập cho mình hoặc cho người được đại diện của
mình các quyền và nghĩa vụ dân sự, đồng thời họ phải gánh chịu mọi trách nhiệm
và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện. Đối với vợ, chồng là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tịa án, họ cũng có
quyền tham gia xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự có giá trị nhỏ phục vụ

cho nhu cầu hàng ngày. Với những giao dịch liên quan đến tài sản của một bên vợ
chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật của họ (người đại diện theo pháp luật có thể là một bên vợ chồng cịn
lại). Đối với vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì khơng được tham gia xác
lập và thực hiện mọi giao dịch dân sự10. Liên quan đến vấn đề tham gia xác lập và
thực hiện giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của
người này sẽ do người đại diện hợp pháp của họ tiến hành.
Thứ hai, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Quy định này phát sinh từ yêu cầu bảo vệ
trật tự xã hội và các giá trị của cộng đồng. Theo đó, giao dịch của vợ chồng với bên
thứ ba được thiết lập phải là giao dịch hợp pháp, không vi phạm quy định của pháp
luật về việc không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, đồng thời
cũng không được vi phạm những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận.
Phải kể đến một số giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu như sau: Giao dịch
dân sự vô hiệu do khơng có sự thỏa thuận của vợ chồng; giao dịch nhằm trốn tránh
việc thực hiện một nghĩa vụ nhất định của vợ, chồng. Ngồi ra giao dịch khơng vi
phạm quy định của pháp luật nhưng theo nhận thức thơng thường thì giao dịch đó
trái với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục cũng bị coi là không hợp pháp. Ví dụ:
Vợ chồng A và B thuê thiết kế sửa nhà mình để có cửa nhà vệ sinh hướng thẳng vào
cửa chính, nơi đặt bàn thờ của gia đình hàng xóm vì muốn gia đình hàng xóm mở
cửa chính sang hướng khác cho nhà mình đẹp hơn. Hợp đồng thuê thiết kế sửa nhà
tuy đã đảm bảo về mặt hình thức, nội dung khơng vi phạm pháp luật nhưng có thể
bị tun bố vơ hiệu, do về mặt nhận thức thơng thường thì việc cửa nhà vệ sinh của

10

Điều 21, 22 BLDS năm 2005.



11
vợ chồng A hướng về phía cửa chính nhà hàng xóm nơi đặt bàn thờ đã vi phạm đạo
đức xã hội.
Nội dung cuối cùng là người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện.
Đây là điều kiện được xây dựng dựa trên nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận” của pháp luật dân sự. Quy định này nhằm bảo đảm trong giao dịch của
vợ chồng với bên thứ ba về tài sản không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái
với ý chí của mình. Điều này địi hỏi giữa các bên phải có sự bình đẳng, khơng được
viện cớ tạo sự bất bình đẳng, như vợ chồng đe dọa người thứ ba phải thực hiện hợp
đồng cho vợ chồng vay tiền, nếu không thực hiện thì sẽ bị sa thải (do người chồng
là quản lý nhân sự công ty của người thứ ba đang làm việc) hay vợ chồng lừa dối
với lý do cần tiền chữa bệnh cho con để giảm lãi suất và kéo dài thời hạn cho vay…
BLDS năm 2005 dự liệu một số trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do xác lập
thiếu sự tự nguyện của các chủ thể như: Giao dịch giả tạo11; giao dịch thiết lập do
nhầm lẫn12; giao dịch thiết lập do bị lừa dối, đe dọa13...
Trong giao dịch của vợ chồng với bên thứ ba về tài sản, bản chất của giao dịch
là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Tự nguyện được hiểu là thống nhất giữa ý chí
chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngồi của chủ thể. Chính vì vậy, sự
thống nhất ý chí của vợ chồng và bên thứ ba được thể hiện trong nội dung giao dịch
đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để đánh giá một giao dịch thực hiện có đảm
bảo sự tự nguyện hay khơng. Hay nói cách khác, giao dịch của vợ chồng với bên
thứ ba về tài sản chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của của giao dịch phản ánh
một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể.
Về hình thức của giao dịch của vợ chồng về tài sản với bên thứ ba, pháp luật
quy định hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật. Theo
đó, hình thức của giao dịch có thể tồn tại dưới dạng lời nói, văn bản, hoặc bằng một
hành vi cụ thể. Về nguyên tắc, các bên có thể thỏa thuận với nhau về hình thức của
giao dịch. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới buộc các chủ thể
phải tuân theo một hình thức nhất định. Có thể lấy ví dụ như sau: Vợ chồng A và B
đi vay ngân hàng ACB một khoản tiền có giá trị là 500 triệu đồng. Việc vay tài sản

được bảo đảm thực hiện thông qua hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thuộc tài
sản chung của vợ chồng A và B. Hợp đồng vay tài sản giữa A và B với ACB đáp
ứng đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện của một giao dịch hợp pháp.
Tuy nhiên, hợp đồng phụ là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của A và B có thể

11
12

Điều 129 BLDS năm 2005.
Điều 131 BLDS năm 2005.


12
bị tun bố vơ hiệu, vì theo khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải có cơng chứng tại Văn phịng cơng chứng
hoặc chứng thực tại Uỷ ban nhân dân cấp Xã. Tuy nhiên hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất này lại khơng có cơng chứng, chứng thực. Chính vì vậy đã vi phạm về
mặt hình thức của một giao dịch. Tuy nhiên đây chỉ là hợp đồng phụ, hợp đồng
chính là hợp đồng vay tiền vẫn có hiệu lực pháp luật, nên vẫn có giá trị ràng buộc
đối với các bên. Trong trường hợp này, hợp đồng chính vẫn có hiệu lực và vẫn được
thực hiện, song đối với hợp đồng phụ là hợp đồng thế chấp thì theo u cầu của một
hoặc các bên, Tịa án quyết định buộc các bên thực hiện quy định về mặt hình thức
trong một thời gian nhất định. Quá thời hạn đó mà khơng thực hiện thì tun bố hợp
đồng phụ vơ hiệu. Trong trường hợp này, Tịa án cũng có thể ra một quyết định để
cơng nhận hợp đồng đó đã thỏa mãn về điều kiện hình thức và buộc các bên phải
tuân theo những nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng.
Trên đây là những quy định nhằm xác định thế nào là một giao dịch dân sự
hợp pháp, và trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba dù là trách
nhiệm liên đới của vợ chồng hay trách nhiệm riêng rẽ của một bên vợ chồng thì chỉ
phát sinh khi giao dịch do vợ, chồng xác lập là giao dịch dân sự hợp pháp.

1.3.2 Mục đích của giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba
Pháp luật quy định nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản
mà một hoặc các bên xác lập giao dịch đó đưa ra để thỏa thuận với nhau. Cịn mục
đích của giao dịch dân sự là những nhu cầu, lợi ích vật chất hay tinh thần mà các
chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một giao dịch dân sự. Mục đích sẽ
đạt được thông qua sự thể hiện của các điều khoản trong giao dịch.
Giao dịch do vợ chồng thiết lập với chủ thể thứ ba đều chứa đựng những mục
đích nhất định. Và trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể thứ ba phát
sinh căn cứ vào mục đích của giao dịch đó. Xác định được mục đích của giao dịch
có ý nghĩa rất lớn trong việc quy định trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với
bên thứ ba, bởi nó xác định được lúc nào trách nhiệm của vợ chồng phát sinh là
trách nhiệm liên đới hay trách nhiệm riêng rẽ.
Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể thứ ba phát sinh khi giao
dịch được thiết lập có mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình. Trước khi kết hơn, vợ, chồng là những cơng dân độc lập, có tài sản riêng và tự
mình thực hiện những nghĩa vụ của mình bằng chính tài sản riêng đó. Nhưng sau

13

Điều 132 BLDS năm 2005.


13
khi hôn nhân tồn tại, vợ, chồng bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ và trách nhiệm của
hôn nhân, lúc này xuất hiện thêm một loại tài sản mới đó là tài sản chung của vợ
chồng. Tài sản chung được sử dụng nhằm đảm bảo việc duy trì và phát triển cuộc
sống gia đình. Vợ, chồng có quyền định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung, trừ
một số tài sản chung pháp luật buộc phải có cả hai vợ chồng cùng định đoạt tại
Khoản 3 Điều 35 Luật HN&GĐ năm 2014. Do đó, khi có căn cứ chứng minh tài sản
chung được vợ chồng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, dù giao

dịch đó chỉ do một bên vợ chồng thiết lập với chủ thể thứ ba thì vợ chồng phải cùng
chịu trách nhiệm liên đới về tài sản cho bên thứ ba.
Ngoài ra trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với chủ thể thứ ba còn phát
sinh khi giao dịch được thiết lập do mục đích cá nhân, khơng xuất phát từ lợi ích
chung của gia đình, nhưng được bên vợ chồng còn lại đồng thuận.
Việc ghi nhận quyền sở riêng về tài sản của vợ chồng trước hết là sự thể chế
hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sở hữu riêng của công dân. Xuất
phát từ thực tiễn đời sống hôn nhân, việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản
riêng là một địi hỏi khách quan. Bởi lẽ, trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh những
mối liên hệ chung, vợ chồng cũng có những mối quan tâm riêng cần phải giải quyết.
Do vậy, vợ, chồng sẽ dùng phần tài sản riêng của mình để thỏa mãn những nhu cầu
riêng, thực hiện những nghĩa vụ dân sự riêng mà không ảnh hưởng đến bên chồng
hoặc vợ còn lại.
Khi vợ chồng thực hiện giao dịch với chủ thể thứ ba, căn cứ vào mục đích của
giao dịch có thể xác định được trách nhiệm ràng buộc vợ, chồng là trách nhiệm liên
đới hay trách nhiệm riêng rẽ. Giao dịch do vợ, chồng thiết lập hướng đến lợi ích
chung của gia đình thì xác định là trách nhiệm liên đới, việc thực hiện trách nhiệm
tài sản bằng cách vợ chồng cùng nhau thỏa thuận, liên đới chịu trách nhiệm thanh
tốn hoặc bồi thường cho bên thứ ba. Cịn giao dịch hợp pháp của vợ, chồng thiết
lập với chủ thể thứ ba về tài sản chỉ nhằm phục vụ lợi ích cá nhân thì trách nhiệm
được xác định đối với một bên vợ, chồng là trách nhiệm riêng rẽ. Vợ, chồng chịu
trách nhiệm với bên thứ ba bằng tài sản riêng của mình.
1.3.3 Ngoại lệ
Ngồi những căn cứ được nói đến ở trên như giao dịch đã thiết lập với chủ thể
thứ ba là giao dịch hợp pháp, mục đích của giao dịch với chủ thể thứ ba thì trách
nhiệm về tài sản của vợ chồng với chủ thể thứ ba cịn phát sinh khi vợ chồng có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho chủ thể thứ ba tương ứng.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của vợ chồng với bên thứ ba phát sinh khi chủ



14
thể có hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bên thứ ba.
Ngồi ra cịn phát sinh ngay cả khi các bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp
gây ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng
thiệt hại xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Trách nhiệm
BTTH của vợ, chồng đối với chủ thể thứ ba liên quan đến hai trường hợp: Bồi
thường thiệt hai do tài sản của vợ chồng gây ra; và bồi thường thiệt hại do con chưa
thành niên hoặc con mất NLHVDS gây ra.
Không phải trong trường hợp nào người gây ra thiệt hại cũng phải bồi thường
cho người bị thiệt hại. Do đó, việc xác định những yếu tố, cơ sở làm phát sinh trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là rất quan trọng nhằm xác định được trách nhiệm bồi
thường, người phải bồi thường, người được bồi thường. Trách nhiệm BTTH ngồi
hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện
đó là:
- Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là tiêu chí bắt buộc để xác định trong trách
nhiệm BTTH nói chung, trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng của vợ chồng nói riêng
bởi mục đích của trách nhiệm BTTH là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất xảy
ra cho bên thứ ba bị thiệt hại. Do đó, nếu khơng có thiệt hại thì khơng phát sinh
trách nhiệm bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại xảy ra phải
là thiệt hại trên thực tế, có thể xác định được. Chủ thể bị thiệt hại trong trường hợp
này là bên thứ ba. Vợ, chồng không phải là chủ thể trực tiếp gây ra thiệt hại cho bên
thứ ba, mà thiệt hại được xác định liên quan đến tài sản của vợ chồng như nguồn
nguy hiểm cao độ, cây cối, súc vật… hoặc do hành vi trái pháp luật của con chưa
thành niên, con mất NLHVDS gây nên. Tuy vợ, chồng không phải chủ thể trực tiếp
gây ra thiệt hại, song vì vợ, chồng là chủ sở hữu của tài sản gây ra thiệt hại cho nên
phải thực hiện việc bồi thường. Lấy ví dụ cụ thể tại Khoản 2 Điều 623 BLDS năm
2005 quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Đồng thời vợ, chồng được xác định là người đại diện của con chưa thành niên và
con mất NLHVDS, cho nên đối với hành vi gây ra thiệt hại của đối tượng này, vợ
chồng phải chịu trách nhiệm BTTH đối với chủ thể thứ ba tương ứng. Việc xác định
thiệt hại căn cứ vào mục 2 chương 25 phần 3 của BLDS 2005.
- Có hành vi trái pháp luật: Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người phải tôn


×