Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Hoạt động hệ thống hóa pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương (từ thực tiễn ủy ban nhân dân tỉnh phú yên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.53 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

MAI THỊ TƢƠNG LAI
MSSV: 0955040038

HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TẠI ĐỊA PHƢƠNG
(Từ thực tiễn Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Niên khóa: 2009 - 2013
GVHD: ThS. NGUYỄN THỊ NGỌC MAI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG HÓA PHÁP
LUẬT ................................................................................................................1
1.1. Hệ thống pháp luật..............................................................................1
1.1.1. Khái niệm.......................................................................................1
1.1.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện
nay và những tiêu chí để đánh giá một hệ thống pháp luật hoàn thiện
3
1.2. Hoạt động hệ thống hóa pháp luật ..................................................12
1.2.1. Khái niệm.....................................................................................12
1.2.2. Nguyên tắc, căn cứ, mục đích của hoạt động hệ thống hóa pháp
luật ............................................................................................................13
1.2.2.1. Nguyên tắc của hoạt động hệ thống hóa pháp luật .............13


1.2.2.2. Căn cứ tiến hành hệ thống hóa pháp luật ............................14
1.2.2.3. Mục đích của hoạt động hệ thống hóa pháp luật ................15
1.2.3. Các hình thức của hệ thống hóa pháp luật .................................16
1.2.3.1. Tập hợp hóa ............................................................................16
1.2.3.2. Pháp điển hóa .........................................................................18
1.2.4. Mối quan hệ giữa hoạt động hệ thống hóa pháp luật với
hoạt động rà sốt VBQPPL và hoạt động xây dựng pháp luật ..........21
1.2.4.1. Hoạt động rà soát VBQPPL .................................................21
1.2.4.2. Mối quan hệ giữa hoạt động hệ thống hóa pháp luật và hoạt
động rà sốt VBQPPL ........................................................................22
1.2.5. Những quy định của pháp luật về hoạt động hệ thống hóa pháp
luật ............................................................................................................25


1.3. Ý nghĩa của hoạt động hệ thống hóa pháp luật..............................28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT
CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG HÓA PHÁP
LUẬT ..............................................................................................................32
2.1. Thực trạng ban hành VBQPPL của Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh
Phú Yên ( giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010) ...................................32
2.1.1. Thẩm quyền ban hành VBQPPL của UBND tỉnh ....................33
2.1.1.1. Thẩm quyền về nội dung .......................................................33
2.1.1.2. Thẩm quyền về hình thức ban hành VBQPPL ...................37
2.1.2. Về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL của UBND tỉnh ... Error!
Bookmark not defined.4
2.2. Hoạt động hệ thống hóa pháp luật của UBND tỉnh Phú Yên ........39
2.2.1. Mục đích, u cầu, trình tự tiến hành hệ thống hóa pháp luật 39
2.2.1.1. Mục đích:.................................................................................39
2.2.2.2. u cầu: ...................................................................................40

2.2.2.3. Trình tự tiến hành hệ thống hóa VBQPPL của cơ quan hành
chính nhà nƣớc ở địa phƣơng ............................................................40
2.2.2. Kết quả của hoạt động hệ thống hóa pháp luật .........................43
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hệ thống hóa
pháp luật......................................................................................................48
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT:
 Văn bản quy phạm pháp luật: VBQPPL
 Quy phạm pháp luật: QPPL
 Uỷ ban nhân dân: UBND
 Hội đồng nhân dân: HĐND


LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý xã hội, trong nhà nước
pháp quyền, pháp luật lại càng có vai trị quan trọng, vì tất cả các chủ thể trong xã
hội đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, không chủ thể nào
được quyền đứng trên, đứng ngoài pháp luật. Để thực hiện những vai trị quan
trọng của mình, một trong những yêu cầu bắt buộc là pháp luật trong nhà nước đó
phải đảm bảo tính pháp chế và khả năng điều chỉnh.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó có sự kết hợp quyền lực với
pháp luật; đề cao tính tối cao của pháp luật; địi hỏi nhà nước phải được tổ chức
và hoạt động theo quy định của pháp luật. Pháp luật là một thuật ngữ mang tính
trừu tượng hóa, nhưng thật chất để pháp luật đi vào cuộc sống, trực tiếp điều
chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện vai trị quản lý của mình thì thơng qua các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền pháp luật sẽ được cụ thể hóa thành các văn bản,
thành những QPPL. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình ban hành

VBQPPL có rất nhiều điểm bất cập. Tình trạng ban hành văn bản thiếu thống nhất
giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các địa phương, đặc biệt là vấn đề văn bản sai quy
định của pháp luật cả về mặt nội dung cũng như thể thức vẫn đang diễn ra. Tuy
vậy, cơng tác kiểm tra, rà sốt văn bản vẫn chưa được thực hiện tốt, vấn đề hệ
thống hóa pháp luật vẫn chưa được quy định rõ ràng; các địa phương vẫn chưa coi
trọng vấn đề rà soát, hệ thống hóa pháp luật, điều này xuất phát là do hoặc thiếu
quan tâm, không coi trọng, làm cho lấy có hoặc thiếu trình độ, chun mơn hoặc
do thiếu cơ sở vật chất, thiếu điều kiện (cả về nhân lực và vật lực), chưa được cấp
trên thực sự quan tâm. Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu khoa học về vấn
đề hệ thống hóa pháp luật vẫn chưa được nghiên cứu nhiều, thiếu cả về chất lượng
và số lượng. Từ năm 1999 đến nay, tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh chỉ có một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của sinh viên Đồng Văn Toàn
(niên khóa 1994-1999) nghiên cứu về hoạt động hệ thống hóa pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương (trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).
Đề tài này đã mang lại những ý nghĩa nhất định trong cơng tác hệ thống hóa pháp


luật, góp phần hồn thiện và nâng cao vai trị của hoạt động này. Tuy nhiên, qua
thời gian, do điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, một số văn bản dùng làm cơ sở
pháp lý cho hoạt động hệ thống hóa pháp luật đã bị thay đổi cũng như hết hiệu lực
theo thời gian, những văn bản pháp luật mới được ban hành và có những vấn đề
pháp lý mới được đặt ra cần phải được nghiên cứu.
Trong khi đó, việc hồn thiện hệ thống pháp luật là một việc làm hết sức
cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, gắn liền với nó khơng thể bỏ qua là
hoạt động hệ thống hóa pháp luật. Đây là hoạt động mang lại ý nghĩa rất lớn, giúp
cho q trình hồn thiện hệ thống pháp luật được diễn ra nhanh hơn, có hiệu quả
hơn, qua đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ phát hiện những văn bản, những
QPPL chồng chéo, mâu thuẫn, những văn bản sai và có hướng xử lý kịp thời,
đồng thời bổ sung những quy phạm mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới
đang phát sinh cần sự điều chỉnh nhưng chưa có luật. Ngồi ra, hoạt động hệ

thống hóa pháp luật cịn tạo thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền áp dụng, áp
dụng đúng pháp luật, đối tượng bị áp dụng có được những hiểu biết pháp lý nhất
định để có thể tự bảo vệ mình. Thêm vào đó là phát huy tối đa vai trị điều chỉnh
của pháp luật đối với các quan hệ xã hội.
Hiện nay, hoạt động hệ thống hóa pháp luật đang diễn ra, nhưng vẫn chưa
đạt hiệu quả cao về mặt thực tiễn, nhiều địa phương cịn lúng túng trong q trình
thực hiện và chưa thực sự quan tâm, chưa đánh giá cao vai trị của hoạt động này
trong q trình hồn thiện cũng như xây dựng, áp dụng pháp luật, chưa đánh giá
đúng ý nghĩa thực tiễn mà hoạt động này mang lại. Với mong muốn nâng cao hơn
nữa vai trò của chính quyền địa phương trong cơng tác hồn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và nâng cao hiệu quả của hoạt động hệ thống hóa pháp luật của cơ
quan hành chính địa phương nói riêng, tác giả đã chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật của mình trình bày về hoạt động hệ thống hóa pháp luật của cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương từ thực tiễn Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên
(trong giai đoạn từ năm 2008 cho đến nay). Thông qua kết quả nghiên cứu này tác


giả mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt
động này.
Với mục đích như vậy, bố cục của khóa luận bao gồm:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hệ thống hóa pháp luật
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động hệ thống hóa pháp luật của UBND tỉnh
Phú Yên và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hệ
thống hóa pháp luật
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT

1.1.

Hệ thống pháp luật
1.1.1. Khái niệm

Trong khoa học pháp lý vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hệ
thống pháp luật, nhưng tựu chung lại chúng ta có thể định nghĩa hệ thống pháp luật
là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được
phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các
văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định 1.
Từ định nghĩa này, hệ thống pháp luật bao gồm hai mặt trong một thể thống
nhất bao gồm hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống VBQPPL (hệ thống
nguồn của pháp luật).
Phương diện thứ nhất, hệ thống cấu trúc là tổng thể các QPPL có mối liên
hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật và các
ngành luật. Hệ thống cấu trúc gồm ba thành tố cơ bản thể hiện ở ba cấp độ khác
nhau
Thứ nhất là các QPPL. QPPL là thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật
hay còn gọi là tế bào của hệ thống pháp luật2. QPPL vừa mang tính khái quát vừa
mang tính cụ thể. Khái quát vì đó là những quy tắc xử sự chung, dùng để áp dụng
trên diện rộng trong thời gian tương đối dài, hay nói cách khác nó dùng để điều
chỉnh một dạng quan hệ xã hội nhất định chứ không phải chỉ dùng để điều chỉnh
một mối quan hệ xã hội cụ thể; cụ thể vì đó là hình mẫu, là chuẩn mực chung để
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể đã được dự liệu bằng
phương pháp trừu tượng hóa, nên nội dung địi hỏi phải rõ ràng, chính xác và một
nghĩa. Mặt khác, khơng thể đối lập giữa hình thức và nội dung của các QPPL, theo
1

Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008, trang 401
Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, Trường ĐH Luật Tp HCM, Khoa Hành chính-Nhà nước, năm học 2009-2010,

trang 70
2

1


đó, nội dung phải chỉ rõ quyền và nghĩa vụ để làm cơ sở cho các chủ thể tham gia
vào quan hệ xã hội; về mặt hình thức, bản thân của mỗi QPPL cũng có cấu trúc
nhất định bao gồm: giả định, quy định, chế tài.
Thứ hai là chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm
chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng. Chế định
pháp luật mang tính chất nhóm, tính chất này được quyết định bởi tính chất của
mỗi nhóm quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh tương ứng. Bản thân các nhóm quan hệ
xã hội không tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà chúng tồn tại trong hệ thống các
quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, mỗi chế định pháp
luật đều có những đặc điểm riêng nhưng chúng có mối quan hệ nội tại thống nhất
với nhau và bao giờ cũng theo quy luật vận động khách quan, chịu ảnh hưởng và
tác động của các chế định khác trong hệ thống pháp luật.
Thứ ba là ngành luật bao gồm hệ thống QPPL có đặc tính chung điều chỉnh
các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội (hệ
thống pháp luật ở Việt Nam đang dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất
lượng). Hiện nay, có một số ngành luật cơ bản như Hiến pháp, Luật Dân sự, Luật
Tố tụng dân sự, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Hành chính, Luật Tố
tụng hành chính, Luật Đất đai, ...).
Các thành tố của hệ thống cấu trúc, mặc dù có những đặc điểm khác nhau và
có những bản chất mang tính đặc thù để phân biệt với những thành tố khác. Tuy
nhiên, giữa chúng vẫn có những mối liên hệ với nhau, nếu QPPL là “tế bào” của hệ
thống pháp luật, chế định pháp luật mang tính chất “nhóm” thì ngành luật mang
tính chất “loại”. Đánh giá một cách tổng quan chúng ta có thể nhận ra chúng có
mối quan hệ cấu tạo với nhau, tức nhiều QPPL giống nhau hoặc tương tự nhau sẽ

tạo thành một chế định pháp luật và nhiều chế định pháp luật sẽ tạo ra ngành luật,
đặc điểm chung là cùng điều chỉnh những quan hệ xã hội cùng loại.

2


Phương diện thứ hai của hệ thống pháp luật là hệ thống VBQPPL.
Hệ thống VBQPPL là tổng thể các VBQPPL có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau về nội dung và hiệu lực pháp lý3. Do tính thống nhất của pháp luật nên dù rất
phong phú, đa dạng và được ban hành vào những thời điểm khác nhau, nhưng các
VBQPPL đều hợp thành một hệ thống và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Thể hiện ở cả chiều ngang và chiều dọc4
Xét theo chiều ngang, thể hiện ở chỗ hệ thống VBQPPL phải phù hợp với
hệ thống cấu trúc của pháp luật, nghĩa là văn bản đó dù được hình thành như thế
nào, thuộc hệ thống thang bậc giá trị nào thì suy cho cùng đều phải căn cứ vào đối
tượng điều chỉnh cho nên chúng hoặc toàn bộ hoặc từng phần đều hợp thành các
chế định, các ngành luật. Hay nói cách khác, các VBQPPL phải thống nhất về mặt
nội dung: không mâu thuẫn, chồng chéo, các văn bản cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý
cần phải thống nhất với nhau về nội dung;
Xét theo chiều dọc, hệ thống pháp luật mang tính thứ bậc, tùy theo thẩm
quyền ban hành ra chúng, những cơ quan khác nhau, có thẩm quyền khác nhau dẫn
đến giá trị pháp lý của từng văn bản cũng khác nhau và các văn bản có giá trị pháp
lý thấp hơn khơng được mâu thuẫn hoặc trái với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của chúng ta, văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất là Hiến pháp, các văn bản luật và những văn bản dưới luật đều phải phù hợp
với Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp.
Như vậy, hệ thống pháp luật và hệ thống VBQPPL có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Hệ thống pháp luật là cơ sở cho cơng tác hệ thống hóa các VBQPPL, vì
trong mối quan hệ này, hệ thống pháp luật được xem là nội dung, hệ thống
VBQPPL được xem là hình thức biểu hiện bên ngồi của hệ thống pháp luật. Vì

vậy, hệ thống pháp luật quy định việc hệ thống hóa VBQPPL theo dấu hiệu ngành
luật.
3

Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, trường ĐH Luật TP HCM, Khoa Hành chính-Nhà nước, năm học 2009-2010,
trang 82
4

Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Hà nội, 2008, trang 205

3


Đây là những biểu hiện về mặt hình thức của một hệ thống pháp luật, nhưng
xét về mặt lý luận thì một sự vật muốn hồn thiện cịn phải đảm bảo được về lượng
- tức là lượng đủ và chất tốt. Như vậy, đảm bảo một hệ thống pháp luật hoàn thiện
là một việc làm hết sức cần thiết.
1.1.2.

Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam

hiện nay và những tiêu chí để đánh giá một hệ thống pháp luật hoàn thiện
Hiện nay, trong khi các quan hệ xã hội đang diễn ra ngày càng phức tạp và
pháp luật đang là cơng cụ điều chỉnh có hiệu quả, nhanh chóng nhất, thì để thực
hiện tốt vai trị của mình, bản thân hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện, điều
này xuất phát từ:
Thứ nhất, yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để quản lý xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, tuy nhiên,
pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Trong tổ chức và quản lý kinh tế pháp
luật lại càng đóng vai trị quan trọng vì chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của

nhà nước có phạm vi rộng, phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà
nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm sốt như hoạch định chính sách kinh tế,
xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá... Tồn bộ q
trình này đều địi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế
đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu
quả thiết thực 5. Ngày nay, pháp luật càng đóng vai trị rất quan trọng trong việc
quản lý và điều chỉnh các quan hệ xã hội, qua thời gian, pháp luật càng không thể
thiếu trong một xã hội hiện đại.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời
sống xã hội – tương ứng với đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị xã hội, chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau.
Cơ sở hạ tầng (kinh tế) quyết định kiến trúc thượng tầng (pháp luật), còn kiến trúc
thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng6.
Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân dân, 2008,
trang76
5

6

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, trang 145

4


Ngược lại, với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát
triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí tương đối của nó
và thường xun có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội7. Như vậy,
chúng ta có thể khẳng định, pháp luật và trình độ phát triển của nền kinh tế có mối
quan hệ với nhau. Sự phát triển của một nền kinh tế địi hỏi phải có một hệ thống
pháp luật phù hợp, phải có tác dụng bảo vệ nền kinh tế, những biến đổi trong nền
kinh tế đặt ra những nhu cầu khách quan phải có sự thay đổi trong pháp luật để

phản ánh đúng sự phát triển của nền kinh tế - vai trò quyết định của nền kinh tế
trong sự phát triển và tồn tại của pháp luật. Về phía pháp luật nó cũng có ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế, có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực,
điều này phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế tại thời điểm nó điều chỉnh; nếu q trình điều chỉnh của pháp luật phù hợp
với bản chất, tính chất của cơ chế kinh tế thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, hoàn thiện hơn hệ thống kinh tế; ngược lại nó sẽ kiềm hãm hoặc thậm chí
có thể làm rối loạn nền kinh tế, đưa nền kinh tế đi khỏi quỹ đạo của mình.
Hiện nay, chúng ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế lấy mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm trọng tâm và một trong những yêu cầu đặt ra
là pháp luật phải được hồn thiện và có trình độ phát triển tương ứng với sự phát
triển của nền kinh tế, có như vậy pháp luật mới khơng bị lỗi thời, có khả năng điều
chỉnh hiệu quả, đạt được sự công bằng giữa luật và các quan hệ xã hội cần điều
chỉnh, cũng như giữa các chủ thể tham gia trong cùng một quan hệ xã hội, khơng
bỏ sót những quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, đáp ứng kịp thời nhu
cầu của xã hội.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ năm 1992, Việt Nam bắt đầu chuyển mình đổi mới – một cơng cuộc
đổi mới kinh tế, chính trị tự thân – đánh dấu q trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế của nước ta đã và đang thay đổi theo chiều hướng hướng ngoại, điều này đã
7

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, trang 146

5


thật sự chuyển biến mạnh mẽ khi chúng ta gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại
Thế giới) ngày 11/01/2007. Khi tham gia vào một tổ chức như vậy, vấn đề đầu tiên

chúng ta muốn và phải thay đổi đó là nền kinh tế, nhưng khó khăn lớn nhất lại
chính là pháp luật (kinh tế và sự điều chỉnh của pháp luật có mối quan hệ với
nhau), vì pháp luật là công cụ hiệu quả nhất để chúng ta vừa quản lý các quan hệ xã
hội đang diễn ra trong nước, vừa đảm bảo độc lập, chủ quyền quốc gia, đồng thời
phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt, trong lĩnh vực thương mại, đây là lĩnh
vực rất nhạy cảm, pháp luật cần phải hồn thiện để vừa có thể bảo vệ được nền sản
xuất trong nước vừa thu hút được đầu tư của nước ngoài; đảm bảo chủ quyền quốc
gia và phải tôn trọng, thể hiện được thiện chí hợp tác của mình trong các quan hệ.
Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ giao bang đó là pháp luật. Vì
vậy, muốn thực hiện tốt việc quản lý xã hội, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở
rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng tới việc xây dựng một hệ
thống pháp luật toàn diện, đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh
trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung của quốc tế và khu
vực.
Bên cạnh đó, đối với đầu tư của nước ngồi, pháp luật lại là cơng cụ bảo vệ
tốt nhất cho các nhà đầu tư, đây cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp họ yên tâm. Vì
trước khi quyết định, họ sẽ tìm hiểu pháp luật nơi mình đang có dự định, pháp luật
phải có những quy định theo hướng có lợi hoặc ít nhất khơng bất lợi hơn khi họ
đầu tư ở những quốc gia khác và đặc biệt phải có được sự ổn định trong một
khoảng thời gian để họ yên tâm đầu tư; đủ thời gian để thu lợi nhuận cũng như khả
năng bảo vệ mình bằng pháp luật trước những biến động của thị trường. Như vậy,
một hệ thống pháp luật ổn định và hoàn thiện sẽ tạo cơ hội tốt cho việc thu hút đầu
tư, phát triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần. Mặc dù, chúng ta đã và đang hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng đảm bảo quyền lợi và sự công bằng cho các
chủ thể khi tham gia đầu tư kinh doanh, tuy nhiên, pháp luật vẫn đang thiếu cơ sở
6



pháp lý để đảm bảo tính chủ động, tự do, bình đẳng giữa các chủ thể, nhiều QPPL
vẫn đang ngầm bảo vệ nền sản xuất trong nước và ngay trong nền sản xuất trong
nước vẫn cịn có sự bất bình đẳng giữa các chủ thể. Thực tế các doanh nghiệp tư
nhân chủ yếu chỉ hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ cịn những lĩnh
vực quan trọng thì chưa thể “chen chân” vào được, doanh nghiệp nhà nước vẫn
đang được nhận nhiều ưu đãi và thực tế vẫn chưa phát huy hết năng lực của một
chủ thể kinh tế cần phải có, vẫn cịn tình trạng bảo vệ những thành phần kinh tế có
sự tham gia của nhà nước dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng. Trong thời gian
vừa qua, chúng ta có thể kể đến những vụ việc liên quan tới các Tổng cơng ty, Tập
đồn kinh tế nhà nước như Tập đoàn kinh tế Vinashin, Vinalines.
Chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để nền kinh tế tự vận động,
pháp luật chỉ nên tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia, là trọng
tài trong một sân chơi, hướng dẫn cách chơi và chỉ tham gia xử lý khi có vi phạm
và tốt nhất là nhà nước không nên dùng pháp luật để tham gia vào nền kinh tế với
tư cách là một chủ thể kinh tế mang quyền lực công.
Thứ tư, nhu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ
Trong thời gian vừa qua vẫn có tình trạng thiếu đồng bộ giữa các quy định
của pháp luật và giữa các ngành luật với nhau. Có thể đưa ra một ví dụ cho sự thiếu
đồng bộ giữa hai ngành luật đó là cùng quy định về việc chuyển nhượng cổ phần
của người vợ hoặc người chồng.
Khoản 5 Điều 84 Luật Doanh Nghiệp năm 2005 quy định:“sau thời hạn ba
năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các hạn
chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ”. Như vậy,
hồn tồn có thể tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác.

7


Nhưng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong trường
hợp hơn nhân cịn tồn tại, tức là trong thời kỳ hơn nhân 8, thì cổ phần trên không

phải là tài sản riêng mà là tài sản chung của vợ chồng “tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh và những thu nhập khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ
chồng thoả thuận là tài sản chung”9, khi đó số cổ phần trên thuộc sở hữu chung
hợp nhất, vì vậy, khi chuyển nhượng sẽ với tư cách là định đoạt tài sản chung.
Đối chiếu với quyền định đoạt tài sản chung của chủ sở hữu theo quy định
tại Khoản 2 Điều 223 Bộ Luật Dân sự năm 2005, “việc định đoạt tài sản chung
hợp nhất được thực hiện theo sự thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo
quy định của pháp luật”. Như vậy, khi chuyển nhượng tài sản chung của vợ chồng
thì phải có sự đồng thuận của hai vợ chồng. Điều đó đồng nghĩa với việc hồ sơ
chuyển nhượng cổ phần phải có giấy tờ chứng minh sự đồng ý của người kia hay
nói cách khác người vợ hoặc người chồng phải kí vào hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần và các giấy tờ khác có liên quan.
Qua việc quy định khác nhau như vậy dẫn đến chồng chéo và khó khăn trong
việc áp dụng pháp luật khi có nhiều quy phạm mâu thuẫn nhau trong việc điều
chỉnh một vấn đề đang diễn ra.
Vì vậy, hồn thiện pháp luật sẽ giúp cho hệ thống pháp luật có được sự
thống nhất cả về chiều ngang lẫn chiều dọc, giúp cho văn bản của cấp dưới không
mâu thuẫn với cấp trên, văn bản không mâu thuẫn nhau giữa các cơ quan cùng cấp
và trong cùng một cơ quan khi điều chỉnh cùng một vấn đề.
Ngoài ra, với việc tinh giảm các thủ tục hành chính trong thời gian vừa qua
đã phần nào hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính.
8

“Thời kỳ hơn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hơn đến ngày chấm dứt
hôn nhân”, Khoản 7 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2005
9

Khoản 2 Điều 27 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2005


8


Mặc dù vậy, do thói quen hay tại tâm lý mà kết quả của các chương trình cải cách
này vẫn chưa thật sự đạt kết quả cao, vẫn còn nhiều thủ tục phức tạp, rờm rà, gây
phiền hà, nhũng nhiễu cho các cá nhân và doanh nghiệp. Tinh giảm và thống nhất
thủ tục hành chính vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật.
Thứ năm, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân,
do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và
bị giới hạn bởi pháp luật. Một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền là
sự phân công quyền lực một cách hợp lý, sự hiện diện của một chế độ dân chủ,
điều kiện làm xuất hiện nhà nước pháp quyền đó là pháp luật, phương pháp quản lý
xã hội có hiệu quả nhất chỉ có thể bằng pháp luật. Bởi vì pháp luật mang tính phổ
biến, có thể đo mức độ cân bằng, là tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi của con người và
là phương tiện xác định quyền và trách nhiệm của nhà nước cũng như của công
dân. C.Mac viết: “Tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước
dưới dạng pháp luật - đó là những tiêu chuẩn tích cực, rõ ràng, phổ biến, trong đó,
tự do có được sự tồn tại không phụ thuộc vào sự chuyên quyền của cá nhân riêng
biệt. Bộ luật là kinh thánh tự do của nhân dân”10. Để đạt được mục tiêu này, pháp
luật đóng vai trị hết sức quan trọng, nó là cơ sở pháp lý để nhân dân thật sự là chủ
của nhà nước, vì nhà nước là của dân, do dân, vì dân 11. Pháp luật thể hiện quyền
lực của nhà nước - mà bản chất quyền lực đó của nhân dân, nhà nước chỉ là chủ thể
được nhân dân trao quyền. Pháp luật phải hồn thiện mới có đủ cơ sở pháp lý bảo
vệ tốt nhất quyền của nhân dân và tránh sự lạm quyền từ chủ thể được trao quyền.
Như vậy, các quan hệ xã hội dù tồn tại ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng
chúng lại nằm trong mối quan hệ qua lại, do đó, sự điều chỉnh của pháp luật đối với
các quan hệ xã hội ở những nhóm này lại có mối quan hệ với sự điều chỉnh của
pháp luật đối với các quan hệ xã hội kia. Hiệu quả điều chỉnh các quan hệ cơ bản

phụ thuộc vào chất lượng hệ thống pháp luật, một hệ thống pháp luật duy ý chí,
Hồng Văn Hảo “Vấn đề dân chủ và những đặt trưng của mơ hình tổng thể nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam”- Tạp chí nhà nước và pháp luật số 2-5/2003 trang 6
10

11

Hồ Chí Minh: Tồn tập. t.7, “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” trang 452

9


thiếu tính đồng bộ, tất yếu dẫn đến các mâu thuẫn, làm méo mó các quan hệ xã hội,
gây ra những đảo lộn, tiêu cực trong đời sống xã hội. Vì vậy, để điều chỉnh có hiệu
quả các quan hệ xã hội thì hệ thống pháp luật đó phải hồn thiện, thống nhất. Vậy
đâu là tiêu chí để xác định một hệ thống pháp luật hoàn thiện? Xuất phát từ yêu cầu
thực tế như trên, để có thể đánh giá được một hệ thống pháp luật hoàn thiện chúng
ta phải dựa vào rất nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng tựu chung lại có những tiêu chí
cơ bản như sau:
Một là, tính tồn diện, đối với một hệ thống pháp luật được xem là hồn
thiện thì đây là tiêu chí đầu tiên; phải có, nó mang tính định lượng nhưng lại có ý
nghĩa quan trọng. Khơng thể có một hệ thống pháp luật hoàn thiện khi mà các quan
hệ xã hội, lĩnh vực quan hệ xã hội phát sinh có nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật
nhưng chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh, tức là còn những khoảng trống
pháp luật12. u cầu của sự tồn diện chính là hệ thống pháp luật phải có đầy đủ
các ngành luật theo cơ cấu nội dung logic và thể hiện thống nhất VBQPPL tương
ứng, mỗi ngành luật phải có đầy đủ các chế định pháp luật và các QPPL.
Hai là, phải mang tính đồng bộ, thể hiện sự thống nhất phải xem xét giữa
các bộ phận của hệ thống đó có trùng lập, chồng chéo, mâu thuẫn không. Đặt các
bộ phận của hệ thống pháp luật trong mối quan hệ qua lại để phân tích, đối chiếu,

xác định rõ mức độ thống nhất. Thể hiện ở hai cấp độ: Ở cấp độ chung nhất, đó là
sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau, để đạt tới mục tiêu này cần giải quyết hai
vấn đề, vấn đề thứ nhất là xác định rõ ranh giới giữa các ngành luật (ranh giới này
chỉ mang tính định tính, khơng thể có ranh giới rõ ràng giữa các ngành luật với
nhau, vì các quan hệ xã hội là một tổng thể, các ngành luật cũng chỉ điều chỉnh
những quan hệ khác nhau trong tổng thể đó), vấn đề thứ hai là tạo ra một hệ thống
QPPL căn bản để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của tồn hệ thống pháp luật; Ở
cấp độ cụ thể, các VBQPPL được sắp xếp theo một trật tự hiệu lực pháp lý từ cao
tới thấp và thống nhất với nhau về mặt nội dung, đó là không mâu thuẫn, không
trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật.
12

Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, trường ĐH Tp Hồ Chí Minh, Khoa Hành chính-Nhà nước, năm học 20092010, trang 84

10


Ba là, hệ thống pháp luật phải có tính phù hợp, thể hiện sự tương quan giữa
trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế đời
sống xã hội làm phát sinh những quan hệ cần luật điều chỉnh thì lúc đó luật mới có
thể được hình thành và chúng ta đều biết sự hình thành của pháp luật là một q
trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, vì vậy có thể dẫn đến tình trạng khi luật hình
thành thì quan hệ đó đã phát triển lên bước cao hơn hoặc có thể là khơng cịn tồn
tại và hệ quả tất yếu là sẽ dẫn đến luật mới ra đời nhưng khơng cịn đối tượng điều
chỉnh hoặc điều chỉnh khơng hiệu quả. Chính vì vậy, pháp luật phải phản ánh được
trình độ phát triển kinh tế, xã hội tại thời điểm pháp luật đang có hiệu lực. Pháp
luật khơng thể cao hơn hoặc thấp hơn, vì dù có hồn thiện đến đâu cũng không thể
lấp khoảng trống giữa luật và thực tiễn, vì vậy sự phù hợp này chỉ có thể xem xét
một cách tương đối. Cần xem xét đến các mặt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa
pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy phạm xã

hội khác.
Bốn là trình độ kỹ thuật pháp lý. Trình độ kỹ thuật pháp lý là tổng thể những
phương pháp, phương tiện được sử dụng trong q trình soạn thảo và hệ thống
hóa pháp luật, chứa đựng các nguyên tắc, quy tắc khoa học13. Một hệ thống pháp
luật hoàn thiện phải được xây dựng bởi một trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Kỹ thuật
lập pháp mang tính hình thức thể hiện tốt, trong một ý nghĩa nào đó nó mang tính
kỹ thuật được thực hiện bởi một hệ thống các thao tác từ việc phát hiện ra nhu cầu
điều chỉnh bằng pháp luật đến việc điều tra, khảo sát, thực nghiệm các mục tiêu,
các nguyên tắc lựa chọn ngôn ngữ pháp lý,...tất cả chúng đều mang tính kỹ thuật.
Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng lớn và phức tạp trong đó có ba đặc điểm quan
trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đó là: kỹ
thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong
quá trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật; thể hiện thơng qua việc xác
định chính xác cơ cấu của pháp luật; cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải
logic, đảm bảo tính cơ đọng, chính xác và một nghĩa.
13

Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, trường ĐH Luật Tp Hồ Chí Minh, Khoa Hành chính - Nhà nước, năm học
2009-2010, trang 96

11


1.2.

Hoạt động hệ thống hóa pháp luật

1.2.1.

Khái niệm


Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hệ
thống hóa pháp luật: Hệ thống hóa pháp luật có thể hiểu là cơng tác cho phép các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có sự nhìn nhận tổng quát đối với pháp luật hiện
hành, phát hiện những điểm không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo và những lỗ
hổng của hệ thống pháp luật để từ đó có biện pháp khắc phục, hồn thiện 14. Theo
cách hiểu này, cơng tác hệ thống hóa pháp luật có vai trị quan trọng, nhất là trong
công tác xây dựng và áp dụng pháp luật, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật.
Việc phát hiện và loại bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo nhau sẽ giúp cho
việc tìm kiếm các QPPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được dễ dàng,
làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của chúng để áp dụng một cách đầy đủ và chính
xác. Đồng thời thơng qua đó, cơng tác hệ thống hóa pháp luật giúp các nhà lập
pháp có được cái nhìn tổng quan hơn về hệ thống pháp luật đang hiện hành, có
những bổ sung, chỉnh lý phù hợp nhằm hướng tới mục tiêu chung là hoàn thiện hệ
thống pháp luật toàn diện, phù hợp và đồng bộ.
Theo cách hiểu quy định tại Khoản 2, Điều 2 Nghị định 16/2013/NĐ-CP về
rà sốt, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi tắt là NĐ16), thì
“hệ thống hóa văn bản là việc tập hợp, sắp xếp các văn bản đã được rà sốt, xác
định cịn hiệu lực theo các tiêu chí sắp xếp văn bản quy định tại Nghị định này”.
Như vậy, hệ thống hóa pháp luật có thể được tiến hành theo nhiều cách thức
khác nhau, tùy theo mục đích của chủ thể hệ thống hóa pháp luật. Song dù là theo
cách thức nào thì người hệ thống hóa cũng phải thu thập, sắp xếp các QPPL theo
một trật tự nhất định, làm chúng có hệ thống. Vậy, chúng ta có thể hiểu hệ thống
14

Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, trang
418

12



hoá pháp luật là hoạt động sắp xếp, chỉnh lý, bổ sung nội dung các VBQPPL nhằm
tăng cường tính hệ thống của hệ thống pháp luật15.
1.2.2. Nguyên tắc, căn cứ, mục đích của hoạt động hệ thống hóa pháp
luật
1.2.2.1. Ngun tắc của hoạt động hệ thống hóa pháp luật
Trong quá trình hệ thống hóa pháp luật, chúng ta cần phải tuân theo những
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc chung nhất là hoạt động hệ thống hóa văn bản phải được tiến
hành định kỳ, đồng bộ; kịp thời công bố tập hệ thống hóa văn bản cịn hiệu lực và
các danh mục văn bản; tuân thủ trình tự, thủ tục thực hiện hệ thống hóa16. Tuy
nhiên, có một số ngun tắc mang tính riêng biệt và đặc thù trong hoạt động hệ
thống hóa pháp luật, đó là:
Thứ nhất, đảm bảo tính hiệu lực của các các VBQPPL, các QPPL được hệ
thống hóa. Vì kết quả cuối cùng của hoạt động hệ thống hóa pháp luật là có được
một tập văn bản đang cịn hiệu lực, đã được sửa đổi, bổ sung bởi cơ quan có thẩm
quyền, với mục đích là giúp cho các chủ thể áp dụng pháp luật có thể biết những
văn bản nào đang có hiệu lực để áp dụng và chủ thể bị áp dụng cũng có thể tự bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi có dấu hiệu xâm phạm. Đặc biệt, trước khi tiến
hành hệ thống hóa thì kết quả của hoạt động rà sốt văn bản là khơng thể bỏ qua, vì
kết quả của hoạt động rà soát sẽ cho chúng ta biết những văn bản nào hết hiệu lực
thi hành, văn bản nào bị thay thế bởi văn bản nào, và những văn bản được hệ thống
hóa là những văn bản cịn hiệu lực. Vì chỉ áp dụng những văn bản còn hiệu lực thi
hành.

15

Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, trường ĐH Luật Tp Hồ Chí Minh, Khoa Hành chính - Nhà nước, năm học
2009-2010, trang 96
16


Khoản 2 Điều 4 NĐ16.

13


Thứ hai, phải đảm bảo sự phân chia hiện hành của hệ thống pháp luật. Bởi
trong quá trình lập pháp, các nhà làm luật muốn bao quát và không bỏ sót các quan
hệ xã hội cũng như những lĩnh vực cần điều chỉnh bằng pháp luật thì họ đã sắp xếp
chúng thành những chế định, các nhóm quan hệ khác nhau, thành các ngành luật
khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu đó, hoạt động hệ thống hóa pháp luật phải tiến
hành đối với những QPPL điều chỉnh theo từng vấn đề. Trên cơ sở nguyên tắc này,
hệ thống hóa pháp luật phải được tiến hành theo các ngành luật cụ thể hoặc theo
các chế định đảm bảo tôn trọng nguyên tắc phân chia ban đầu của bản thân hệ
thống pháp luật.
Thứ ba, hoạt động hệ thống hóa phải được tiến hành bởi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, nguyên tắc bắt buộc và không thể thiếu đối với hoạt động hệ
thống hóa theo hình thức pháp điển hóa17, đây là nguyên tắc đảm bảo tính pháp lý
cho các văn bản được hệ thống hóa. Hệ thống hóa pháp luật theo hình thức này
khơng chỉ là loại bỏ những văn bản hết hiệu lực, những văn bản bị thay thế, sửa
đổi, bổ sung mà còn thay đổi chúng, làm cho chúng trở nên có hệ thống, có giá trị
điều chỉnh và kết quả cuối cùng cần phải đạt tới là áp dụng những văn bản, những
QPPL được hệ thống hóa. Đây cũng được xem như quá trình lập pháp bổ sung, vì
vậy chỉ có những cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có khả năng pháp điển hóa
và những văn bản được pháp điển hóa sẽ có giá trị pháp lý, được áp dụng trên thực
tế như những VBQPPL ban đầu.
1.2.2.2. Căn cứ tiến hành hệ thống hóa pháp luật
Trong q trình hệ thống hóa pháp luật, chúng ta có một số căn cứ sau:
Một là, căn cứ vào phạm vi hiệu lực của các VBQPPL. Hiện nay, chúng ta
có một số cơ sở pháp lý cho việc hệ thống hóa pháp luật, cụ thể là Hiến pháp năm

1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
17

Hình thức tập hợp hóa thì mọi chủ thể đều có thể thực hiện.

14


và Uỷ ban nhân dân năm 2004 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành các
luật này, Nghị định 16/2013/NĐ-CP về rà sốt, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật. Dựa vào quy định của những văn bản này, giúp cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành hệ thống hóa pháp luật theo một cách có trình tự, đảm bảo có
cơ sở pháp lý cho việc tiến hành, tạo ra sự thống nhất, thuận lợi, rành mạch cho q
trình hệ thống hóa pháp luật.
Hai là, căn cứ vào tính chất của các quan hệ xã hội. Khi tiến hành hệ thống
hóa pháp luật, về mặt kỹ thuật chúng ta phải sắp xếp chúng thành từng vấn đề mà
các quy phạm hoặc các VBQPPL đang điều chỉnh. Mục đích của hoạt động này là
hồn thiện hệ thống pháp luật theo hướng toàn diện, đồng bộ, phù hợp, thống nhất.
Vì vậy, khi hệ thống hóa chúng ta phải sắp xếp chúng theo từng nhóm để thuận tiện
trong công tác sửa đổi, bổ sung và biết được những nhóm quan hệ nào cần điều
chỉnh bằng pháp luật nhưng chưa có văn bản điều chỉnh hoặc là phát hiện những
mâu thuẫn, chồng chéo để có hướng xử lý phù hợp, kịp thời.
1.2.2.3. Mục đích của hoạt động hệ thống hóa pháp luật
-

Hệ thống hóa văn bản nhằm cơng bố tập hệ thống hóa văn bản cịn

hiệu lực và các danh mục văn bản, giúp công tác xây dựng, áp dụng, thi hành pháp
luật được hiệu quả, thuận tiện, tăng cường tính cơng khai, minh bạch của hệ thống

pháp luật18.
-

Tạo ra một hệ thống VBQPPL cân đối, hoàn chỉnh, thống nhất, trong

đó vai trị của các đạo luật ngày càng quan trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
-

Khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những lỗ hổng của pháp

luật. Chính sách của nhà nước về pháp luật, hệ thống pháp luật của nhà nước là
những yếu tố cơ bản nhất của đời sống pháp luật xã hội.
-

Hoạt động này giúp nội dung của pháp luật phù hợp và đáp ứng với

những yêu cầu của đời sống xã hội, giúp chúng có hình thức rõ ràng, nội dung dễ
18

Khoản 2 Điều 3 NĐ16.

15


hiểu, tiện lợi cho việc áp dụng, cũng như thuận lợi hơn cho quá trình tìm hiểu pháp
luật. Đây cũng chính là mục tiêu của chúng ta “sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”.
1.2.3. Các hình thức của hệ thống hóa pháp luật
Hiện nay, hoạt động hệ thống hóa pháp luật có hai hình thức chủ yếu, đó là

tập hợp hóa và pháp điển hóa pháp luật
1.2.3.1. Tập hợp hóa
Khái niệm
Trong khoa học pháp lý, tập hợp hóa được hiểu là sắp xếp các văn
bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật riêng biệt theo một trật tự nhất
định (theo cơ quan ban hành, theo thời gian ban hành, theo theo lĩnh vực hoạt
động của nhà nước, ngành, cấp độ hiệu lực pháp lý)19.
Đặc điểm của hình thức tập hợp hóa:
Thứ nhất, đó là việc sắp xếp các VBQPPL hoặc các quy phạm riêng biệt
theo một trình tự nhất định. Tùy theo mục đích và chủ thể thực hiện hoạt động này
mà các QPPL hoặc các VBQPPL sẽ được tập hợp và sắp xếp theo những tiêu chí
đã định sẵn, có thể là theo thời gian ban hành, cũng có thể là theo lĩnh vực hoặc
theo hiệu lực pháp lý.
Thứ hai, hoạt động này không làm thay đổi nội dung văn bản được tập hợp
hóa; khơng bổ sung những quy định mới mà chỉ nhằm loại đạt được những mục
đích của mình. Khi được tập hợp hóa, phạm vi hiệu lực của văn bản hay QPPL đó
được giữ ngun, các chương; các điều hoặc tồn bộ văn bản pháp quy được trích
dẫn hoặc đưa vào theo nguyên bản, không tạo nên những chế định pháp lý mới mà
chỉ dừng lại ở việc tập hợp hóa các văn bản theo những chủ đề và mục đích đã đề

16


ra ban đầu. Nội dung của những VBQPPL, các QPPL này khơng có gì thay đổi so
với trước khi được hệ thống hóa.
Thứ ba, về hình thức của VBQPPL, QPPL được tập hợp hóa. Tồn bộ cấu
trúc hình thức của mỗi quy phạm, mỗi chương, điều trong bản gốc được đánh số
thứ tự chương, điều, mục, khoản, điểm như thế nào thì khi tập hợp hóa vẫn giữ
ngun như trong bản gốc. Nội dung của những văn bản hay những QPPL này
khơng có gì thay đổi so với khi chưa được tập hợp hóa.

Thứ tư, chủ thể thực hiện hoạt động này là mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu.
Chính vì khơng làm thay đổi nội dung văn bản, không bổ sung những quy định mới
mà chỉ nhằm đạt được những mục đích nhất định của chủ thể tiến hành tập hợp
hóa, cũng như hình thức của VBQPPL ban đầu không thay đổi, nên tất cả mọi chủ
thể nếu có nhu cầu đều có thể thực hiện hoạt động tập hợp hóa.
Tập hợp hóa khơng mang lại giá trị lớn về mặt thực tiễn, vì về cơ bản nó
khơng làm thay đổi nội dung của các quy phạm hay các VBQPPL được tập hợp
hóa, những tập hợp các văn bản nếu khơng phải do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành thì nó khơng có giá trị pháp lý và khơng được sử dụng làm bằng
chứng trước tịa mà chỉ có giá trị tham khảo. Tuy nhiên, nó lại có ý nghĩa rất quan
trọng:
-

Thứ nhất, hình thức tập hợp hóa sẽ làm cơ sở cho hình thức pháp điển

hóa pháp luật. Đồng thời, hình thức này cũng mang lại ý nghĩa rất quan trọng về
mặt lý luận, góp phần kiện toàn hệ thống VBQPPL để chỉnh lý những sai sót trong
q trình lập pháp cũng như hoạt động hành pháp.
-

Việc tập hợp hóa theo từng ngành, từng lĩnh vực không những giúp

cho việc áp dụng pháp luật thuận tiện hơn mà còn giúp cho các nhà lập pháp biết
được hệ thống pháp luật hiện hành đang diễn ra như thế nào, từ đó tạo cơ sở cho
q trình xây dựng, thực hiện cũng như bảo vệ pháp luật tốt hơn.
19

Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, trường ĐH Luật Tp Hồ Chí Minh, Khoa Hành chính – Nhà nước, năm học
2009-2010, trang 97


17


1.2.3.2. Pháp điển hóa
Khái niệm
Pháp điển hóa là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó
khơng những tập hợp các văn bản đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ những
quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những quy phạm mới để thay
thế cho các quy phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống được phát hiện
trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi các văn bản hiện hành, nâng cao hiệu lực
pháp lý của chúng20.
Đặc điểm của hình thức pháp điển hóa:
Thứ nhất, hình thức này làm thay đổi nội dung và hình thức của các QPPL,
các VBQPPL được thu thập, có thể làm xuất hiện thêm các QPPL, các chế định
pháp luật và các thuật ngữ pháp lý mới. Khi được pháp điển hóa, các VBQPPL,
các QPPL nếu có mâu thuẫn, chồng chéo hay bị lỗi thời sẽ được sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế bằng các QPPL khác phù hợp hơn. Như vậy, QPPL cũ có thể vẫn tồn
tại nhưng cũng có thể bị mất đi, dẫn đến cấu trúc về mặt hình thức và nội dung của
VBQPPL, QPPL sẽ bị thay đổi.
Thứ hai, các văn bản pháp luật, các QPPL dùng để pháp điển hóa phải cịn
hiệu lực tại thời điểm pháp điển hóa. Vì mục đích của hoạt động pháp điển hóa
pháp luật là kiện tồn hệ thống pháp luật, tạo nên sự đồng bộ, toàn diện của hệ
thống pháp luật; giúp cho công tác áp dụng pháp luật được dễ dàng; nhanh chóng,
để đạt được những mục đích đó thì những văn bản, những QPPL được pháp điển
hóa phải cịn hiệu lực hoặc có hiệu lực tại thời điểm pháp điển hóa, về mặt nguyên
tắc chỉ áp dụng những văn bản còn hiệu lực.
Thứ ba, kết quả của hoạt động này là một VBQPPL mới ra đời. Đó là một bộ
luật tương ứng với một ngành luật nhất định hay một bản điều lệ tập hợp các quy
20


Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, trường ĐH luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008, trang 419.

18


×