Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.25 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐỖ VĂN MINH

HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỔ CHÍ MINH, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐỖ VĂN MINH

HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tiến

TP. HỔ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của: TS. Nguyễn Văn Tiến, các số liệu, kết quả
được nêu trong luận văn là trung thực, chính xác, chưa từng được cơng bố ở
bất cứ cơng trình nào và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Tác giả

Đỗ Văn Minh


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ................................... 7
7. Bố cục của luận văn ................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.................... 9
1.1. Khái niệm, ý nghĩa về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
thi hành án dân sự ........................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án
dân sự ............................................................................................................ 9
1.1.2. Ý nghĩa về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân
sự ................................................................................................................ 13
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong thi hành án dân sự từ năm 1945 đến nay ....................... 16
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ................................................ 16

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 ................................................ 18
1.2.3. Gia đoạn từ năm 1989 đến năm 1992 ................................................. 20
1.2.4 Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2009. ................................................ 21
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay. ......................................................... 22
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT
ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ...................................................................................................... 26
2.1. Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án dân sự ................................ 26
2.1.1. Kiểm sát thủ tục ban hành quyết định thi hành án dân sự ................... 27


2.1.2. Kiểm sát thẩm quyền và thời hạn ra quyết định thi hành án ............... 33
2.1.3. Kiểm sát việc áp dụng thời hiệu thi hành án ....................................... 35
2.1.4. Kiểm sát việc áp dụng căn cứ ra quyết định thi hành án ..................... 36
2.1.5. Kiểm sát nội dung quyết định thi hành án ........................................... 39
2.2. Kiểm sát việc thực hiện thủ tục thi hành án dân sự .......................... 40
2.2.1. Kiểm sát việc thông báo về thi hành án............................................... 40
2.2.2. Kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án. .................................... 41
2.2.3. Kiểm sát việc ủy thác thi hành án ....................................................... 43
2.2.4. Kiểm sát việc hỗn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án ...................... 44
2.2.5. Kiểm sát việc kết thúc thi hành án ..................................................... 45
2.2.6. Kiểm sát việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu
nộp ngân sách Nhà nước .............................................................................. 45
2.3. Kiểm sát việc cưỡng chế thi hành án dân sự ..................................... 46
2.4. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự ..... 50
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 54
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THI HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ........................................ 55

3.1. Thực tiễn thi hành hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi
hành án dân sự ........................................................................................... 55
3.1.1. Kết quả công tác thi hành án dân sự từ năm 2010 đến năm 2015 ....... 55
3.1.2. Kết quả kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự
từ năm 2011 đến năm 2015 ......................................................................... 56
3.1.3. Nguyên nhân của những khó khăn về hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong thi hành án dân sự ....................................................................... 62
3.2. Những bất cập và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự.................... 63
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 75
KẾT LUẬN ................................................................................................ 76


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nếu như quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự của Tịa án là đi tìm sự
thật khách quan trong vụ án để ra một phán quyết đúng đắn và “thấu tình đạt
lý” thì việc thi hành bản án, quyết định chính là q trình thực thi cơng lý;
một khi phán quyết của Tòa án chỉ dừng lại trên văn bản, giấy tờ mà khơng
được thực hiện trên thực tế thì phán quyết khơng có ý nghĩa. Do đó, việc đưa
bản án, quyết định dân sự ra để thi hành có ý nghĩa rất quan trọng, vừa bảo
đảm hiệu lực của công tác xét xử, vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật và củng cố lòng tin của nhân dân đối với bộ máy công quyền.
Để bản án, quyết định được thi hành trên thực tế, không chỉ dựa vào
công tác giáo dục, thuyết phục để đương sự tự nguyện thi hành mà cần thiết
phải có một chế tài đủ mạnh để có thể răn đe, cưỡng chế, buộc người phải thi
hành án dù không muốn cũng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết

định. Do tính chất nhạy cảm của việc thi hành bản án, quyết định dân sự, hoạt
động thi hành án trên thực tế rất nặng nề, khó khăn, phức tạp.
Từ những năm đầu sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay,
Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định thi hành án dân sự là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ mày Nhà nước nên
đã từng bước ổn định và ngày càng hoàn thiện về tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án dân sự, xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
về thi hành án dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc thi hành các bản án, quyết
định dân sự, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà
nước, quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững ổn định
chính trị xã hội, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Để hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện đúng thẩm quyền, trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định, cần thiết phải có sự kiểm tra, giám sát chặt
chẽ từ phía cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Về mặt lý luận và thực tiễn,


2

những thiếu sót, vi phạm trong các quyết định, hành vi về thi hành án dân sự
của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự nếu được phát hiện kịp thời
thơng qua cơng tác kiểm sát thì mới được chấn chỉnh, khắc phục vi phạm, đưa
hoạt động thi hành án dân sự vào khuôn khổ pháp luật. Kiểm sát thi hành án
dân sự là một trong những công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự là kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân
sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan để đảm bảo cho
bản án, quyết định được thi hành trên thực tế.
Trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã có nhiều cố
gắng để thực hiện chức năng kiểm sát thi hành án dân sự, kiểm sát chặt chẽ

các quyết định, các hành vi của Chấp hành viên và các chủ thể trong hoạt
động thi hành án dân sự, kiểm sát việc chuyển giao bản án, quyết định (có
hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay
theo quy định pháp luật) giữa Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự, đảm bảo
việc chuyển giao kịp thời, đúng hạn luật định; việc nhận và trả đơn yêu cầu
thi hành án có căn cứ, đúng pháp luật; viêc ra các quyết định về thi hành án,
xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế
thi hành án đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định giúp
cơ quan thi hành án dân sự kịp thời khắc phục, sữa chữa vi phạm, tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong cơng tác, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn
thành chỉ tiêu, nhiệm vụ, đặc biệt là chỉ tiêu thi hành án xong về việc và về
tiền theo Nghị quyết của Quốc hội đã giao.
Tuy nhiên, công tác kiểm sát thi hành án dân sự hiện vẫn cịn nhiều hạn
chế, hiệu quả cơng tác chưa cao; mặc dù cơ quan thi hành án dân sự cịn nhiều
thiếu sót, vi phạm trong cơng tác thi hành án như hoạt động xác minh điều
kiện thi hành án, áp dụng biện pháp kê biên, cưỡng chế thi hành án chưa đúng
trình tự, thủ tục pháp luật quy định, nhiều Chấp hành viên có biểu hiện lệch
lạc, thậm chí tiêu cực trong cơng tác nhưng Kiểm sát viên không kịp thời phát
hiện để chấn chỉnh, yêu cầu khắc phục; một số Kiểm sát viên làm công tác


3

kiểm sát thi hành án dân sự chưa làm hết trách nhiệm, cịn có biểu hiện nể
nang trong quan hệ phối hợp hoặc do năng lực công tác yếu nên khơng phát
hiện được vi phạm trong cơng tác.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự những năm qua
đã được Nhà nước quan tâm, chú trọng, nhiều văn bản pháp luật được ban
hành và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện Luật thi
hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những

bất cập, chồng chéo dẫn tới những khó khăn, vướng mắc cho công tác thi
hành án dân sự và kiểm sát thi hành án dân sự.
Để giải quyết những vấn đề trên, cần có sự nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý
luận cũng như thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi
hành án dân sự, làm rõ nguyên nhân, điều kiện dẫn tới thực trạng, đưa ra
những kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành án nói
chung và những quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong thi hành án dân sự, đồng thời kiến nghị, đề xuất để nâng
cao hiệu quả hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự. Đây chính là lý do khách
quan, cấp thiết để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong thi hành án dân sự” làm đề tài luận văn Thạc sỹ cao học Luật,
chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài đã có một số bài viết của các nhà nghiên cứu:
- Hoàng Thế Anh (2015), “Giám sát thi hành án dân sự”, luận án Tiến
sĩ, Trường đại học quốc gia Hà Nội trong luận văn này tác giả đã cơ bản làm
rõ được cơ sở lý luận về công tác thi hành án dân sự và giám sát thi hành án
dân sự, đồng thời phân tích, làm rõ nhiệm vụ giám sát của các chủ thể liên
quan như: nhân dân, Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân cùng với thực trạng giám sát thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay. Mặc dù đề tài rất rộng, liên quan đến nhiều đối tượng nghiên
cứu nhưng luận án là tài liệu rất tốt cho tác giả nghiên cứu trong quá trình
thực hiện luận văn;


4

- Bùi Đức Long (2008), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác
kiểm sát thi hành án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, (01), tr. 21 - 26. Tác giả đã
nên lên một số vấn đề lý luận về thi hành án và kiểm sát thi hành án, kết quả

thực hiện chức năng kiểm sát thi hành án dân sự và đưa ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơng tác kiểm sát thi hành
án dân sự như: hồn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và kiểm sát thi hành
án dân sự, đổi mới tổ chức và hoạt động trong công tác kiểm sát thi hành án
nói chung kiểm sát thi hành án dân sự nói riêng và tăng cường cơ sở vật chất,
phương tiện, điều kiện cho công tác kiểm sát thi hành án dân sự.
- Vũ Hùng (2008), “Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động
kiểm sát thi hành án trong ngành Kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, (10),
tr. 26 - 29. Tác giả đã nêu lên những nội dung trọng tâm về công tác quản lý,
chỉ đạo điều hành hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự và thi hành án hình
sự, vai trị tham mưu của Vụ kiểm sát thi hành án, Phòng kiểm sát thi hành án
và đưa ra một số đề xuất như: sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thi hành án, đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật, tạo thuận lợi cho các
ngành hữu quan thực hiện chức năng nhiệm vụ; lãnh đạo Vi ện kiểm sát các
cấp cần chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng thêm số lượng cán bộ làm
công tác kiểm sát thi hành án và kiện toàn lại hệ thống sổ sách, biểu mẫu
nghiệp vụ, thống kê, báo cáo cho phù hợp với thực tiễn.
- Trần Thị Nguyệt (2008), “Một số vấn đề về công tác quản lý, chỉ đạo
và tổ chức hoạt động kiểm sát thi hành bản án, quyết định dân sự”, Tạp chí
Kiểm sát, (10), tr.31-33. Tác giả đã nêu lên thực trạng hoạt động kiểm sát thi
hành án dân sự của Viện kiểm sát các cấp; việc phát hiện vi phạm và thực
hiện quyền kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát các cấp và những vướng
mắc, bất cập và những vấn đề cần chú ý trong công tác quản lý, chỉ đạo và tổ
chức hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự.
- Nguyễn Hồng Sinh (2011), “Những khó khăn, vướng mắc trong cơng
tác kiểm sát việc bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Kiểm sát, (23), tr.
17-19. Tác giả đã nêu lên một số khó khăn trong cơng tác kiểm sát việc bán


5


đấu giá tài sản thi hành án như: chưa có quy định cơ quan thi hành án dân sự
phải có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết việc ký hợp
đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản thi hành án với Trung tâm bán đấu giá tài
sản, chưa có căn cứ pháp lý cụ thể để tiến hành kiểm sát hồ sơ và quá trình tổ
chức bán đấu giá tài sản. Từ đó, tác giả đã đề nghị Quốc hội và ngành kiểm
sát nhân dân cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
và ban hành quy chế về công tác kiểm sát thi hành án dân sự.
- Nguyễn Mạnh Hùng (2013), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
kiểm sát việc thi hành án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, (01), tr. 24 - 27. Tác giả
đã nêu lên một số kết quả đã đạt được, những hạn chế trong cơng tác kiểm sát
thi hành án dân sự. Qua đó tác giả đã đưa ra một số việc cần tập trung trong
thời gian tới như: tiếp tục quán triệt những nội dung của Luật thi hành án dân
sự và các văn bản hướng dẫn cho cán bộ làm công tác kiểm sát thi hành án
dân sự, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác, nhận thức đúng về vị trí tầm
quan trọng của cơng tác kiểm sát thi hành án dân sự, đề nghị xây dựng thông
tư liên tịch hướng dẫn luật thi hành án dân sự, đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số quy định tại Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 về thủ
tục thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 14/2010/TTTL-BTP-VKSTCTATC ngày 26/7/2010 về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành
trong thi hành án dân sự.
Nhiệm vụ của tác giả tiếp tục làm sáng tỏ những quy định của luật thi
hành án dân sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
công tác kiểm sát thi hành án dân sự. Đồng thời, nêu lên những nguyên nhân
dẫn đến hạn chế trong công tác kiểm sát để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm:
- Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và những quy định của pháp
luật về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự;



6

- Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của của pháp luật về hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự, phân tích nguyên nhân
dẫn đến thực trạng và những khó khăn, vướng mắc trong cơng tác.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của của pháp luật về
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự, nêu lên
những kết quả đạt được, những thiếu sót, hạn chế và những khó khăn, vướng
mắc trong công tác;
- Kiến nghị, đề xuất để xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự và kiểm sát thi hành án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề
liên quan đến thi hành án dân sự; cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật
liên quan đến hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự,
cụ thể là quy định về vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân và thực
trạng thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong công tác thi hành án dân sự, tìm hiểu các nguyên nhân chủ
quan, khách quan dẫn đến tồn tại, thiếu sót trong công tác làm hạn chế đến
hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích để phân tích, làm rõ khái niệm thi hành án dân
sự và kiểm sát thi hành án dân sự, trong chương 1.



7

- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về các
quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi
hành án dân sự từ trước đến nay, trong chương 1.
- Phương pháp phân tích để phân tích, tổng hợp viết về các quy định của
pháp luật thi hành án dân sự hiện hành, qua đó làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án dân sự, trong chương 2.
- Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê và tổng hợp để phân tích
các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên những bất cập, tồn tại hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự, để từ đó tác giả
tổng hợp, khái quát kết quả nghiên cứu làm cơ sở đưa ra một số đề xuất nhằm
hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành
án dân sự, trong chương 3.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề cơ bản
về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,
học tập về kiểm sát thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong thao tác
nghiệp vụ của cán bộ, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát thi hành án dân sự
nghiên cứu áp dụng trong thực tiễn.
Từ những khó khăn, vướng mắc chỉ ra tác giả đưa ra đề xuất hoàn thiện
pháp luật về kiểm sát thi hành án dân sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cam đoan, mục lục, danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm có 03 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân trong thi hành án dân sự.


8

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thi hành hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong thi hành án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


9

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi
hành án dân sự
- Khái niệm thi hành án dân sự:
Quá trình giải quyết vụ việc dân sự kết thúc bằng một bản án, quyết
định khơng có nghĩa chân lý đã được thực thi, quyền lợi hợp pháp của đương
sự đã được bảo đảm. Thực tế đã chứng minh, chỉ khi bản án, quyết định của
Tòa án được thực hiện trên thực tế thì mới khơi phục được các quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cơng dân bị xâm phạm. Để bản án, quyết
định được thi hành trên thực tế, không phải trường hợp nào cũng có thể trơng
chờ vào sự tự nguyện của các đương sự mà phải sử dụng sức mạnh của Nhà
nước trong việc đôn đốc, cưỡng chế thông qua các cơ quan, tổ chức được giao
thực hiện nhiệm vụ thi hành án. Thi hành án là “hoạt động của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy

định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa
án”1. Nói cách khác, thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn
xét xử, nhằm thực hiện mục tiêu chung của quá trình tố tụng là đảm bảo cho
bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trên thực tế.
Thi hành án nói chung bao gồm hoạt động thi hành án dân sự và thi
hành án hình sự. Trong đó, thi hành án dân sự là “hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ
thể khác trong việc thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tịa án”2.

1
2

Bộ tư pháp (1999), Từ điển Luật học, tr.705
Bộ tư pháp (1999), Từ điển Luật học, tr.706


10

Hoạt động thi hành án dân sự do các cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền thực hiện theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thi hành
các phán quyết trong các bản án, quyết định. Thi hành án dân sự là hoạt động
quan trọng và cần thiết nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội và công dân.
Giống như những nước có mơ hình thi hành án dân sự cơng như Nga,
Hoa Kỳ, Thái Lan, Philippines, Thụy Điển, Đức, Trung Quốc3 công tác thi
hành án dân sự tại Việt Nam do hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đảm
nhiệm với vai trò trung tâm là Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự.
Ngoài ra, hiện nay theo Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của

Quốc hội về thực hiện chế định thừa phát lại đã quy định cho thừa phát lại
được tổ chức thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước.
Hiểu theo nghĩa rộng, thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể
khác trong việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực được đưa ra thi
hành. Hiểu theo nghĩa theo nghĩa hẹp, thi hành án dân sự là hoạt động do cơ
quan thi hành án dân sự tiến hành theo những trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, nhằm thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật do Tòa án ban hành.
Như vậy, tham gia vào thi hành án dân sự có nhiều chủ thể khác nhau
tùy thuộc từng trường hợp cụ thể, nhưng cơ bản như sau: người được thi hành
án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cơ quan thi
hành án dân sự, người được Nhà nước giao cho thẩm quyền thi hành án dân
sự, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự, người
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự để thi hành án hoặc
người có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và
chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án. Mỗi một chủ thể nêu trên
đều có những quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể trong thi hành án
dân sự theo pháp luật quy định, trong đó cơ quan thi hành án dân sự đóng vai
3

(truy cập ngày 17/3/2016)


11

trò trung tâm, được sử dụng quyền lực nhà nước tác động tới người được thi
hành án, người phải thi hành án và cơ quan, tổ chức, cá nhân nhân có liên
quan để tổ chức thi hành án.
Hiện nay ở Việt Nam đang có nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu

tranh cãi về bản chất pháp lý của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi
hành án là một giai đoạn mang tính hành chính bởi đây là hoạt động chấp
hành và điều hành; có ý kiến lại cho rằng thi hành án là một giai đoạn tố tụng;
một số ý kiến lại cho rằng thi hành án là một thủ tục tố tụng đặc biệt, vừa
mang tính tố tụng, lại vừa mang tính hành chính, cho nên bản chất của hoạt
động thi hành án là hành chính – tư pháp. Tác giả đồng tình với ý kiến cho
rằng bản chất của hoạt động thi hành án là hành chính – tư pháp, bởi lẽ “xét
xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của q trình bảo vệ lợi ích của
đương sự"4. Do đó, thi hành án là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau giai đoạn xét
xử. Thi hành án là hoạt động của cơ quan thi hành án nhằm thực hiện các bản
án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, thi hành án cũng mang
tính chất hành chính, thể hiện ở chỗ nó là dạng hoạt động chấp hành và điều
hành. Hoạt động thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết
định; nhằm thực hiện những nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án,
quyết định và được thực hiện trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Tồn
bộ q trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau
được bắt đầu bằng quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự và thực hiện theo đúng nội dung của quyết định thi hành án.
Vậy, thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
có thẩm quyền trong việc thực hiện các thủ tục do pháp luật quy định để thi
hành những phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác nhằm
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cơng dân.

4

Nguyễn Cơng Bình (1998), "Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong việc soạn thảo Bộ luật tố tụng dân sự”
Tạp chí Luật học, (05), tr. 43-44.



12

- Khái niệm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án
dân sự
Để đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự tuân thủ đúng các nguyên
tắc, trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bản án, quyết định được thi hành kịp
thời, đầy đủ, đúng pháp luật, Nhà nước quy định cơ chế kiểm tra, giám sát các
hoạt động thi hành án dân sự từ bên ngoài. Mặc dù luật thi hành án dân sự quy
định cơ quan thi hành án dân sự cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, chỉ đạo việc
thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới nhằm kiểm tra giám sát
mang tính nội bộ nhưng việc kiểm tra, giám sát từ bên ngoài là rất cần thiết.
Nhà nước Việt Nam giao chức năng kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động
thi hành án cho cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách
nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự
của cơ quan thi hành án dân sự và các chủ thể khác nhằm thực hiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp: “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”5. Nhiệm vụ này
được quy định cụ thể tại Điều 28 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014; Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho
toàn bộ hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự được tuân thủ
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định, đảm bảo cho bản án, quyết được
thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật.
Như vậy, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân
sự là tổng hợp những hành vi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của hiến pháp và pháp luật, nhằm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành


5

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hơi chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.


13

viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình tổ chức, thi hành
các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và của các cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2. Ý nghĩa về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành
án dân sự
Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân
sự có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Thứ nhất, bảo đảm bản án, quyết định được đưa ra thi hành kịp thời,
đầy đủ và đúng pháp luật; bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án, người phải thi hành án và của nhà nước.
Một trong những nguyên tắc của thi hành án dân sự là cơ quan thi hành
án dân sự và Chấp hành viên phải tổ chức thi hành kịp thời, đúng với nội
dung bản án, quyết định của Tòa án. Nếu một bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật khơng được thi hành kịp thời thì các quyền, nghĩa vụ của các bên
liên quan khơng được thực hiện trên thực tế; các quan hệ xã hội bị vi phạm
khơng được khơi phục lại tình trạng ban đầu. Do đó, thơng qua việc thực hiện
chức năng kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân kịp thời tác động để cơ quan thi
hành án dân sự kịp thời đưa những bản án, quyết định ra thi hành.
Bên cạnh đó, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án
dân sự sẽ trực tiếp bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án, người phải thi hành án và của Nhà nước. Do hoạt động thi hành án
dân sự luôn đụng chạm trực tiếp đến tài sản hoặc quyền tài sản của người phải
thi hành án nên trong quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên phải lấy

quyền lợi của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và quyền lợi của Nhà nước làm trọng, khơng được vì
mục đích riêng mà có những tác động khơng đúng pháp luật làm ảnh hưởng
đến quá trình thi hành án. Tuy nhiên, trong thực tế không phải lúc nào hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự, của Chấp hành viên cũng đạt được
những mục đích như mong muốn, mà vẫn có những vi phạm pháp luật xảy ra.
Để khắc phục được điều này, kiểm sát thi hành án dân sự có vai trị rất quan
trọng, nó trở thành phương tiện đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành


14

án dân sự, chấp hành viên được thi hành đúng pháp luật. Từ đó mà các quyền,
lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan và Nhà nước được bảo vệ.
Thứ hai, phát hiện sai sót của Tịa án trong các bản án, quyết định để
có phương thức sửa chữa, khắc phục theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ mục đích hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi
hành án dân sự là đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và
thống nhất, do đó hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân
sự không chỉ phát hiện những vi phạm trong các quyết định, hành vi của các
chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự mà cịn phải phát hiện những sai
sót, vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án. Đặc biệt là các bản án,
quyết định khó hoặc khơng thi hành được nhằm đảm bảo cho bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được nghiêm chỉnh chấp hành. Thông
qua việc kiểm sát các quyết định về thi hành án dân sự và các hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự (xác minh tài sản, kê biên, định giá, bán đấu giá),
Viện kiểm sát nhân dân phát hiện được các vi phạm trong các bản án, quyết
định được ra thi hành trên thực tế, như một số bản án tuyên không rõ, tuyên
sai số thửa hoặc khơng tun vị trí tứ cận thửa đất, tun sai số khung, biển

kiểm sốt xe dẫn đến khó thi hành; thậm chí có bản án, quyết định tun
khơng phù hợp thực tế khách quan của vụ án. Hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân góp phần đảm bảo cho vụ, việc dân sự được giải quyết đúng pháp
luật, lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được tôn trọng và bảo vệ.
Mặt khác, trong quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có thể kiểm tra lại q trình
xét xử trước đó để rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm sát xét xử.
Thứ ba, góp phần bảo vệ quyền cơng dân trong hoạt động thi hành án
dân sự


15

Để tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, Chấp hành viên
phải thực hiện các hoạt động ấn định thời hạn tự nguyên thi hành án, xác
minh điều kiện thi hành, áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành
án. Những hoạt động này trực tiếp tác động đến quyền công dân cũng như tài
sản và các quyền về tài sản của họ. Nếu không được kiểm tra, giám sát chặt
chẽ sẽ không tránh khỏi sự xâm phạm đến quyền công dân và các quyền lợi
hợp pháp của đương sự. Thực tế công tác kiểm sát cho thấy đã có nhiều
trường hợp Chấp hành viên có hành vi xâm phạm đến quyền của đương sự
trong việc tổ chức thi hành án (như thực hiện việc cưỡng chế trong thời gian
pháp luật không cho phép như ngày lễ, Tết, kê biên tài sản pháp luật quy định
không được kê biên; kê biên tài sản không thuộc sở hữu của người phải thi
hành án).
Như vậy, thông qua việc phát hiện và làm rõ các vi phạm pháp luật của
các chủ thể trong hoạt động thi hành án, hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong thi hành án dân sự không chỉ đảm bảo cho việc thi hành đầy đủ, kịp

thời các nghĩa vụ đã xác định trong các bản án, quyết định trên thực tế mà cịn
bảo vệ được quyền cơng dân trong thi hành án dân sự, bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người được thi hành án, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Thứ tư, phát hiện những bất cập của pháp luật thi hành án dân sự và đề
xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều văn bản pháp luật của
nhiều ngành và nhiều lĩnh vực. Trong điều kiện hệ thống văn bản pháp luật
của nước ta chưa có tính ổn định cao, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung thì
một số văn bản pháp luật có sự bất cập là khó tránh khỏi. Trong q trình
kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án dân sự, Viện kiểm sát phát hiện
những bất cập, hạn chế trong các văn bản pháp luật thi hành án, trên cơ sở đó
có văn bản đến các cơ quan có thẩm quyền để có hướng sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân còn phối hợp với các cơ quan hữu
quan tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự nhằm


16

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho công dân, nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến cơng tác thi hành án dân sự.
Thông qua công tác kiểm sát của Viện kiểm sát kịp thời xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự, góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và củng cố sức mạnh của Nhà nước.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong thi hành án dân sự từ năm 1945 đến nay
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký nhiều Sắc lệnh liên quan đến việc hình thành và phát triển của
Công tố viện (tiền thân của viện kiểm sát nhân dân). Tại Sắc lệnh số 33A

ngày 14/9/1945 (Sắc lệnh đầu tiên hình thành Cơng tố viện) quy định mỗi khi
bắt người phải thông báo ngay cho Biện lý (Thẩm phán làm nhiệm vụ cơng
tố); tiếp đó, Sắc lệnh số 07/SL ngày 13/01/1946 quy định rõ hơn về trách
nhiệm của Biện lý, Chưởng lý dưới sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp.
Tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
ban hành và Hiến pháp năm 1946, hệ thống cơ quan tư pháp của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa gồm: “Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các toà
án đệ nhị cấp và sơ cấp”6. Trong thời gian này, Cơng tố viện nằm trong hệ
thống Tịa án. Ở Tịa án sơ cấp khơng có tổ chức cơng tố riêng; ở Tịa án đệ
nhị cấp có một Biện lý và các Phó Biện lý; ở Tịa thượng thẩm có Chưởng lý,
các Phó Chưởng lý và các Tham lý. Tất cả mọi hoạt động của Công tố viện
chịu sự điều khiển và kiểm soát của Chưởng lý trong quản hạt. Ở Tòa đệ nhị
cấp, Biện lý chỉ đạo mọi hoạt động công tố, chỉ đạo, giám sát hoạt động tư
pháp cảnh sát (các Điều 15, 49, 51, 52 Sắc lệnh 13/SL; các Điều 21, 22 Sắc
lệnh 51/SL).

6

Điều 63 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 9/11/1946


17

Theo các Điều 26, 40 của Sắc lệnh số 51/SL, Điều 1 Sắc lệnh số
130/SL, Chưởng lý và Biện lý thuộc Cơng tố viện có thẩm quyền giám sát
việc thi hành án. Tại đoạn 4 của Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ
Tư pháp về việc thi hành các án hình và hộ (dân sự) quy định: “Mỗi khi có trở
lực trong việc chấp hành, ơng Biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm
vụ làm cho pháp luật được tuân thủ và tôn trọng”.

Như vậy, trong những năm đầu cam go dựng nước và giữ nước của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, cơ quan thực hành quyền công tố
chưa được thành lập độc lập mà chỉ là một bộ phận (Công tố viện) trực thuộc
cơ quan Tòa án. Theo quy định của pháp luật trong giai đoạn này, Tòa án phải
thực hiện hai chức năng là xét xử và thi hành án. Cơng tố viện cũng có thẩm
quyền trong việc giám sát hoạt động thi hành án giống với hoạt động kiểm sát
thi hành án của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay nhưng chưa được quy định rõ
ràng và đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ cũng như trình tự, thủ tục thực hiện.
Ngày 29/4/1958 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết
định lập Tòa án tối cao và hệ thống Tịa án, thành lập Viện cơng tố Trung
ương và hệ thống Công tố, cả hai cơ quan này tách khỏi Bộ tư pháp. Viện
công tố Trung ương có quyền hạn và trách nhiệm ngang một Bộ và trực thuộc
Hội đồng Chính phủ. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 01/7/1959
Chính phủ ban hành Nghị định số 256/TTg quy định nhiệm vụ và tổ chức của
Viện công tố; ngày 2/7/1959 Chính phủ ban hành Nghị định 321/TTg quy
định về tổ chức bộ máy và nhiệm vụ quyền hạn của Viện công tố từ Trung
ương đến địa phương, theo đó Viện cơng tố có nhiệm vụ “Giám sát việc chấp
hành pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự, dân sự, và giam giữ
cải tạo...”. So với các quy định trước đây, thẩm quyền của Viện công tố đã
được mở rộng thêm một bước là giám sát hoạt động xét xử của Tòa án trong
việc giải quyết các vụ án dân sự. Đây là một thay đổi quan trọng đối với hoạt
động của Viện công tố, làm tiền đề cho sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân.


18

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và việc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tổ chức bộ máy Nhà nước cần phải có sự
thay đổi cơ bản cho phù hợp với sự phát triển của xã hội nhằm đáp ứng yêu

cầu thực tiễn của đất nước, Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua,
sự ra đời của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Kể từ đây, Viện
kiểm sát nhân dân chính thức được thành lập với tư cách là một hệ thống độc
lập, tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ Trung ương xuống địa
phương, không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính ở địa
phương, chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Viện kiểm sát nhân dân các cấp
thực hiện nhiệm vụ “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc
Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan
Nhà nước và công dân”7. Tuy rằng, công tác thi hành án dân sự trong giai
đoạn này vẫn do Tòa án thực hiện theo quy định tại Điều 24 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 1960 quy định: “Tại các Tòa án nhân dân địa phương có
nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết
định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án,
quyết định hình sự” nhưng theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960, công tác kiểm sát thi hành án nói chung và kiểm sát thi
hành án dân sự đã bước sang một trang mới, được luật quy định về chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn trong cơng tác. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân các
cấp có chức năng, nhiệm vụ “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử của các Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án”8. Để thực
hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm sát nhân dân có quyền “Kiểm sát việc chấp
hành các bản án và các quyết định của Toà án nhân dân”9.
Sau khi đất nước hồn tồn thống nhất, Quốc hội thơng qua Hiến pháp
năm 1980, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trị, đặc biệt nhấn mạnh vai trị thực
hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát
7

Điều 105 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 31/12/1959
Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội nước Việt nam dân chủ cộng hồ khố thứ
II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15 tháng 7 năm 1960
9

Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
8


19

nhân dân. Tại Điều 138 Hiến pháp quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính
quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên
Nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm của mình”.
Để cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong công tác kiểm sát thi hành án dân sự nói riêng, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ nhất, thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1981. Tại
các Điều 3, 15, 16, 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự được quy định như
sau: “Các Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và người hữu quan trong việc chấp hành các bản án và quyết định
của Tồ án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, nhằm bảo đảm các bản án và
quyết định đó được chấp hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời” 10
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989, hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự được quy định chủ yếu trong
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, 1981, là hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án, quyết định của Tòa

án. Quy định này mặc dù chưa thật sự rõ ràng và cụ thể trong các văn bản
pháp luật ở thời gian này nhưng vẫn là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thi hành án dân sự.

10

Điều 15 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khố VII, kỳ họp thứ nhất, thơng qua ngày 4 tháng 7 năm 1981


20

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1992
Năm 1989 Pháp lệnh thi hành án dân sự được thông qua, có hiệu lực thi
hành vào ngày 01/01/1990 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật
về thi hành án dân sự. Lần đầu tiên công tác thi hành án dân sự đã được điều
chỉnh bởi một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, đặt cơ sở pháp lý cho việc
tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Pháp lệnh thi
hành án dân sự đã pháp điển hóa những quy định về thi hành án dân sự, như
những bản án, quyết định được đưa ra thi hành, biện pháp thi hành án, thẩm
quyền ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án, thủ tục và những vấn đề
liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
Mặc dù bố cục và nội dung còn đơn giản, chưa quy định đầy đủ và chặt
chẽ về hoạt động thi hành án dân sự nhưng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1989 vẫn dành riêng một điều luật (Điều 8) để quy định về hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự, theo đó: “Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, Toà án, cơ quan
Nhà nước khác, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan đến
việc thi hành án, nhằm bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án được thi
hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời theo quy định tại các Điều 15, 16 và 17

của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân”. Như vậy, quy định về hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự của Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 1989 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 là
thống nhất, tạo cơ sở thuận lợi cho Viện kiểm sát trong việc kiểm sát các hoạt
động thi hành án dân sự.
Từ năm 1986, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước theo Đại hội lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu
bước đầu quan trọng. Quốc hội sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu
cầu của tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước. Trên cơ sở của Hiến pháp
năm 1992, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ nhất, thông qua
ngày 7 tháng 10 năm 1992 nhưng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong


×