Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.48 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG KIM NGỌC

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Hoàng Kim Ngọc
Lớp: Cao học Luật Khánh Hịa – Khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp đỡ
của giáo viên hướng dẫn. Những trích dẫn trong luận văn đảm bảm tính chính xác
và trung thực. Nhưng kết luận được nêu ra chưa được công bố trong bất cứ tài liệu
nào trước đây.
Người cam đoan

Hoàng Kim Ngọc


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự

:

BLTTHS

Cơ quan điều tra

:

CQĐT

Tố tụng hình sự

:

TTHS


Viện kiểm sát

:

VKS


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................6
1.1. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 6
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố .................................6
1.1.2. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.................................................. 13
1.1.3. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
...................................................................................................................................... 15
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự ............................................................................................................................... 16
1.3. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo quy
định củavmột số nƣớc trên thế giới ............................................................................ 19
Kết luận chƣơng 1 .......................................................................................................... 23
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH
SỰ ....................................................................................................................................... 24
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền cơng tố trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988 ..................... 24
2.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền trong giai đoạn
khởi tố vụ án từ năm 1988 đến trƣớc năm 2003.................................................... 28
2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền trong giai

đoạn khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
............................................................................................................................................. 30
2.4. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.............................. 32
2.4.1. Nội dung thực hành quyền công tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm
...................................................................................................................................... 32
2.4.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự....... 41
Kết luận chƣơng 2 .......................................................................................................... 45
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO


2
HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................................................................... 46
3.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố........................................................................................... 46
3.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự......... 50
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự ............................................................................................................... 52
3.3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự ....................................................................................... 52
3.3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự............................................ 56
Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................................... 64
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 66


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề đề tài
Khởi tố vụ án là giai đoạn đầu tiên trong các giai đoạn tố tụng bao gồm: giai
đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Đây là bước
đầu tiên, là cơ sở cho việc thực hiện các quy trình, thủ tục tố tụng tiếp theo nhằm
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân có hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất của giai đoạn khởi tố là định hình, định hướng
cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo, giúp cho vụ án nhanh chóng được phát hiện với
sự toàn diện và đầy đủ về chứng cứ để xác định một cách chính xác nhất sự thật
khách quan của vụ án. Để làm được điều này, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải
tiến hành thu thập kiểm tra và đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ ban đầu trên cơ
sở các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó, nhanh chóng xác
định có hay khơng có tội phạm và quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình
sự. Nếu ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án thiếu khách quan, khơng tồn diện, khơng
được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định sẽ
dẫn đến việc khởi tố không đúng pháp luật và các các hệ luỵ như khởi tố oan, sai,
khơng có căn cứ, làm cho việc điều tra của cơ quan điều tra, truy tố của Viện kiểm
sát hoặc xét xử của Tịa án khơng chính xác, trái pháp luật, làm oan những người vô
tội hoặc ngược lại dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.
Trong giai đoạn Khởi tố vụ án hình sự, ngồi Cơ quan điều tra thì Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan có vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự
chung trong xã hội. Với vị trí, vai trị độc lập và chức năng thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân là một bảo đảm quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Hoạt động thực hành quyền công tố trong nhưng năm qua của ngành Kiểm sát
nhân dân đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong việc phát hiện tội phạm và trừng trị
người phạm tội, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên so với yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Một trong
những nguyên nhân là do việc các qui định của pháp luật tố tụng hình sự đang có
hiệu lực bộc lộ rõ một số hạn chế như qui định chưa đầy đủ, rõ ràng, không đáp ứng
được yêu cầu về chức năng nhiệm vụ, của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công

tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được qui định trong Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014. Một nguyên nhân khác là do không nhận thức đầy đủ


2
về chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn
khởi tố vụ án của Viện kiểm sát, chưa có sự phân biệt cụ thể, rõ ràng, chính xác
hoạt động thực hành quyền cơng tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các giai đoạn tố tụng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 là thể hiện sự cố gắng to lớn
của Ngành Kiểm sát trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật tố tụng, tạo cơ sở pháp lý ngày càng vững chắc cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Ngành.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 lần đầu tiên qui định mở
rộng chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án, điều mà
trước đây chỉ được ghi nhận trong giai đoạn điều tra. Việc mở rộng hoạt động thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án là căn cứ cho
việc sửa đổi bổ sung các qui định của Bộ luật tố sụng hình sự năm 2003 để phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Bộ Luật tố tụng hình sự năm
2015 ra đời với những sửa đổi toàn diện, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003. Bộ luật đã ghi nhận hoạt động thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát có trước khi vụ án được khởi tố bằng những quy định hoạt
động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát được thực hiện ngay trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Với những lý do nêu trên,
việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn góp phần
vào cơng cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khi thực hành quyền cơng tố
trong tố tụng hình sự có đề cập ở khía cạnh khởi tố vụ án trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự đã được một số sách, báo, cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đề
cập. Một số tác giả đã có các bài viết về vấn đề này như: Tiến sĩ Phạm Tuấn Khải
về "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền cơng tố" và một số bài viết có
liên quan của các tác giả khác trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ "Những vấn
đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam
hiện nay" do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành năm 1999; Tiến sĩ luật học
Trần Đình Nhã có đề cập đến khía cạnh khởi tố vụ án trong "Chức năng công tố của


3
Viện kiểm sát nhân dân, mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền công tố với các
hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử"; Những cơng trình là đề tài khoa học
cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo, các
bài viết liên quan đến quyền công tố: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách chuyên
khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Luận án Tiến sĩ luật học năm 2002 “Quyền
công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa; Võ Phước Long: Chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự ( Luận văn Thạc sỹ Luật học);
Triệu Ngọc Nhi: Hoàn thiện chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự theo
định hướng cải cách tư pháp (Luận văn Thạc sỹ Luật học); Nguyễn Xuân Thanh:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền cơng tố của VKSND trong tố tụng hình
sự, (Luận văn Thạc sỹ Luật học), năm 1998.
Ngồi ra, cịn một số bài viết khác của các tác giả đăng tải trên Tạp chí kiểm
sát cũng đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, hoạt động của viện kiểm sát trong kiểm sát việc khởi tố của cơ quan điều
tra trong giai đoạn điều tra vụ án vụ án hình sự, nhưng chưa có đề tài nào nghiên
cứu chuyên sâu về hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát khi trong

giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy vậy, các cơng trình khoa
học, các bài viết trên cũng là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và
hồn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm sáng tỏ, toàn diện về lý luận những nội
dung cơ bản về các hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình năm 2015; xác
định những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn về việc áp dụng các qui định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 so với các việc mở rộng chức năng thực hành quyền
công tố theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và đánh giá các bất cập
vướng mắc nói trên được giải quyết như thế nào qua các qui định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đã được xây dựng và đang tiếp tục hoàn thiện các qui định.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thực


4
hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo
qui định của Bộ luật hình sự năm 2015.
Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu, phân tích các quy định của Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm
sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và căn cứ áp dụng các quy định của pháp
luật về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu: là các quy định của pháp luật về hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, giải pháp cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này trong
giai đoạn khởi tố vụ án. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, luận văn nghiên cứu
quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện

kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015
trên phạm vi toàn quốc.
4. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng lý luận, phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa duy
vật biện chứng Mác – Lênin, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa của Luận văn: từ kết quả nghiên cứu, Luận văn góp phần làm sáng
tỏ lý luận về quyền công tố, khái niệm, đối tượng, nội dung và phạm vi thực hành
quyền công tố nói chung và thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự nói riêng. Kết hợp với đánh giá thực trạng của hoạt động thực hành quyền
cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Luận văn đưa ra một số giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay.
Các giải pháp của Luận văn cũng có thể được dùng để nghiên cứu, xem xét
áp dụng khi BLTTHS năm 2015 đi vào thực tiễn, nhất là những quy định liên quan
đến hoạt động thực hành quyền công tố. Các đề xuất của Luận văn có thể được các
cấp, các ngành nhất là ngành Kiểm sát quan tâm để nâng cao chất lượng hoạt động
thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.


5
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các Phụ lục,
Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chƣơng 1: Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự.
Chƣơng 2: Qui định của Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .

Chƣơng 3: Thực tiễn thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự.


6
CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố và thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là một lĩnh vực khoa học pháp lý được nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm nghiên cứu. Có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố và
lịch sử xuất hiện của khái niệm. Khi nghiên cứu về lịch sử xuất hiện quyền công tố,
chúng ta thấy rằng quyền công tố gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện
cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các
kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến Nhà nước đại diện1, quyền công tố là một
bộ phận không thể tách rời của công quyền.
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công quyền, thực
hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội, đi ngược lại
với ý chí của giai cấp thống trị xã hội, Như vậy cùng với sự xuất hiện của Nhà nước
thì quyền cơng tố cũng xuất hiện. Nhà nước nào cũng sử dụng pháp luật là công cụ
để quản lý xã hội, để điều chỉnh các quan hệ xã hội được phát sinh, tồn tại và phát
triển theo khuôn mẫu tư tưởng của giai cấp thống trị. Đồng thời, Nhà nước chỉ xuất
hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại các mâu thuẫn đối kháng mang tính giai cấp
khơng thể điều hịa được. Điều đó có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào, khi đã
xuất hiện Nhà nước thì bên cạnh giai cấp thống trị ln có một hoặc nhiều lực
lượng thuộc giai cấp bị trị có thái độ thù địch chống lại giai cấp thống trị nắm quyền

lực nhà nước. Biểu hiện ra bên ngồi đó là những hành vi vi phạm pháp luật, chống
lại ý chí của giai cấp thống trị đến mức nguy hiểm mà giai cấp thống trị cho rằng
cần phải bị trừng trị và để thực hiện được điều này thì Nhà nước cần phải buộc được
tội đối với họ. Quyền nhân danh Nhà nước - nhân danh công quyền thực hiện việc
buộc tội này chính là quyền cơng tố 2. Việc tổ chức thực hiện quyền công tố này ra

1

Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 86.
2
Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb tư pháp, Hà Nội, tr. 15.


7
sao, nội dung của quyền công tố này như thế nào và phạm vi, giới hạn của quyền
công tố đến đâu được mỗi Nhà nước, mỗi quốc gia theo từng giai đoạn lịch sử cụ
thể gắn với những điều kiện cụ thể mà quy định khác nhau.
Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức VKSND 1981 là những văn bản pháp lý đầu
tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến
chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Như vậy, trong hoạt động của VKSND, bên
cạnh khái niệm truyền thống là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện
khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố”. Nhận thức đúng các khái
niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” là một vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng trong nghiên cứu về vị trí, vai trị và chức năng của VKS. Nhưng đến
nay, khi chúng ta đang trong giai đoạn chuyển mình với chủ trương lớn của Đảng là
đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa đạt có sự thống nhất cao trong nhận thức thế
nào là quyền công tố, thế nào là thực hành quyền công tố, các nội dung và phạm vi
quyền công tố, thực hành quyền công tố ra sao. Đây là vấn đề cần giải quyết khi xây

dựng nhà nước pháp quyền.
Có nhiều quan điểm về quyền cơng tố nhưng khái qt lại đó có một số quan
điểm nổi bật như sau:
Quan điểm thứ nhất: Quan điểm đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Trước khi Hiến pháp 1992 được
sửa đổi, bổ sung năm 2001, quan điểm này cho rằng hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKS chính là thực hành quyền công tố, nghĩa là ngay cả khi
VKS ban hành kiến nghị yêu cầu các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội
bị kiểm sát sửa chữa, khắc phục vi phạm pháp luật của mình trên các lĩnh vực hành
chính, kinh tế cũng là hoạt động của VKS khi thực hành quyền công tố.
Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với khái niệm kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS, công tố không phải là một chức năng độc lập
của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật 3. Đây là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát
từ khi thành lập năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức VKSND 2002 được ban hành.
Cơ sở cho những lập luận này chính là quy định của các Điều 137 và 138 Hiến pháp

3

Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 87.


8
1992 và Luật tổ chức VKSND các năm 1981 và 1992. Thể hiện rõ nhất quan đ iểm
này tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 1992 4.
Theo ý kiến của chúng tơi thì hiểu khái niệm quyền cơng tố theo quan điểm
trên là chưa chính xác, đã đồng nhất hoạt động thực hành quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng thời cũng không phù hợp với Hiến
pháp. Theo Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 thì VKS có hai chức

năng: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”5. Điều này tiếp
tục được khẳng định trong Hiến pháp 2013: khoản 1 Điều 107 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”6 . Việc quy
định cụ thể, rành mạch hai chức năng của VKSND đã bác bỏ quan điểm nêu trên.
Hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp có mối liên
hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau nhưng mỗi chức năng đều có tính độc lập về
nội dung và phạm vi áp dụng. Không thể đồng nhất hai chức năng này của VKS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật 7. Theo quan điểm này thì quyền cơng tố xuất
hiện từ khi có sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật, được thể hiện trong lĩnh vực
hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội mà quyền công tố còn mở
rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác8. Quyền công tố là một nội dung của
hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng
dân sự, TTHS và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm
pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất 9.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền cơng tố dẫn đến sự xố nhịa phạm vi và tính đặc thù giữa TTHS

4

Điều 3 Luật tổ chức VKSND 1992 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng 6 cơng tác. Đó là, cơng tác kiểm sát việc tn theo
pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét xử; công
tác kiểm sát giam, giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và điều tra tội phạm”.
5
Nxb lao động – xã hội (2013), Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Hà Nội, tr. 211
6
Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ,

7
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà
nội, tr. 87.
8
Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb tư pháp, Hà Nội, tr. 25
9
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà
nội, tr. 88.


9
và các lĩnh vực tố tụng khác. Đặc trưng của TTHS là phát sinh, tồn tại và chấm dứt
không phụ thuộc vào ý chí của những người tham gia tố tụng; còn tố tụng dân sự
được tiến hành với nguyên tắc đặc trưng là: quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý
chí của đương sự. Ý chí, lợi ích của bản thân đương sự là động lực chủ yếu của hoạt
động tố tụng dân sự, nó quyết định sự vận động của hoạt động tố tụng. Đồng thời,
quan điểm nêu trên đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng của VKS
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự
đối với người phạm tội. Hay nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Đó là hoạt động tố tụng của ĐTV, KSV, Thẩm phán và những người khác được
pháp luật quy định có trách nhiệm xác định người phạm tội cũng như các căn cứ để
kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội 10.
Theo quan điểm của chúng tơi thì quan điểm này chưa chính xác bởi đã đồng
nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS: tội phạm khi được thực hiện
đều xâm phạm đến lợi ích chung, vì vậy người phạm tội phải bị truy cứu TNHS và

bị trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội được cơ quan điều tra, VKS, Tòa án nhân
dân và cơ quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS
quy định. Hiểu khái niệm quyền công tố như quan điểm nêu trên đã dẫn đến sự
nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi
một chức năng cơ bản nêu trên được thực hiện bởi một hoặc nhiều chủ thể, tuỳ
thuộc vào từng giai đoạn của quá trình TTHS. Như trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự, cả CQĐT và VKS đều là cơ quan tiến hành tố tụng và cùng thực hiện
chức năng buộc tội đối với một cá nhân cụ thể. Nhưng những hoạt động buộc tội
của CQĐT không phải là thực hiện quyền cơng tố mà đó chỉ là những hoạt động
nhằm hỗ trợ cho cơ quan được Nhà nước giao thực hiện quyền công tố là VKS thực
hiện sự buộc tội đối với cá nhân bị khởi tố. Ngoài ra, theo quan điểm nêu trên thì
khơng chỉ CQĐT là cơ quan cơng tố mà cả cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án

10

Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb tư pháp, Hà Nội, tr. 26.


10
đều là chủ thể thực hành quyền công tố, tức là các chủ thể này cũng thực hiện sự
buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Quan điểm thứ tư rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS
để truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa 11 . Quan
điểm này cho rằng chỉ trong giai đoạn xét xử VKS mới thực hiện quyền công tố của
mình – truy tố và buộc tội tại phiên tịa. Quan điểm này đã q thu hẹp quyền cơng
tố của VKS, không thể hiện được đầy đủ bản chất của quyền công tố. Thực hiện
quyền công tố tại phiên tòa chỉ là một trong những quyền của VKS khi thực hành
quyền công tố.

Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà
nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS)
để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều
này, cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm
việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội.
Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tồ án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tồ12.
Chúng tơi đồng ý với quan điểm nêu trên bởi quyền cơng tố chỉ có thể được
xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật TTHS mà từ cội nguồn lịch sử của
nó đã gắn liền khơng thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh cơng
quyền) chống lại những vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm). Điều đó thể hiện rõ
nhất trong các nguyên tắc của TTHS mà một trong các nguyên tắc đặc thù của
TTHS là nguyên tắc công tố - mọi hoạt động tố tụng được tiến hành trước hết và
chủ yếu vì lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của tồn xã hội. Chính lợi ích Nhà nước,
lợi ích chung của toàn xã hội là động lực làm cho hoạt động TTHS xuất hiện và
phát triển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác và chấm dứt, hồn tồn khơng lệ
thuộc vào ý chí của cơng dân tham gia vào hoạt động này (người bị hại, bị can, bị
cáo…); nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng thể hiện điều này vì đã là buộc tội thì phải chứng minh cho sự buộc tội đó. Tội
phạm là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất. Người thực hiện tội phạm đã
xâm hại trước hết đến lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, sau là lợi ích của người bị
11

Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự. Nxb Pháp lý,Hà Nội, tr.86-88.
Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb tư pháp, Hà Nội, tr. 40.
12



11
hại. Bởi lẽ đó, Nhà nước là lực lượng nhân danh xã hội, dành cho mình quyền trừng
phạt đối với người phạm tội.
Như vậy: Quyền công tố là quyền của VKS nhân danh Nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội .
Trên cơ sở khái niệm trên về quyền công tố, chúng tôi cho rằng đối tượng,
nội dung và phạm vi của quyền công tố được hiểu như sau:
+ Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền cơng tố tác động
vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó, ví dụ như để nhằm buộc được tội của
người phạm tội để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại….
Như vậy, đối tượng của quyền cơng tố chính là tội phạm và người phạm tội.
+ Về nội dung của quyền công tố: nội dung của quyền công tố là việc buộc
tội của VKS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
+ Về phạm vi của quyền công tố: theo quan điểm của chúng tơi thì quyền
cơng tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Quyền cơng tố bắt đầu từ khi tội phạm
được thực hiện và kết thúc khi bản án kết tội đối với người đã thực hiện hành vi
phạm tội đó có hiệu lực pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Trong khoa học luật TTHS, việc xác định quyền công tố và theo đó là thực
hành quyền cơng tố có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Giải quyết
được rõ ràng, rành mạch những vấn đề trên giúp cho việc xác định chính xác vai trị,
vị trí cũng như trách nhiệm của VKS trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thời gian qua, mặc dù vẫn cịn có ý kiến khác nhau, nhưng vấn đề quyền công tố
cũng đã được quan tâm nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy
nhiên, vấn đề thực hành quyền cơng tố, phạm vi và nội dung của nó, mối quan hệ
giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS cịn ít được đề cập và chưa được rõ ràng. Một số chuyên đề
về nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
do VKSNDTC tổ chức nghiên cứu cũng chỉ đưa ra một số biện pháp pháp lý, kiến
nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực hiện chức năng như: kiểm sát điều tra,

kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Trong nội dung nghiên cứu của các chuyên đề
này chưa phân biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là thực hành quyền công tố, hành
vi tố tụng nào là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
Cho đến nay, nhận thức của khơng ít người làm cơng tác nghiên cứu và thực tiễn
của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngay cả VKS cũng còn nhầm lẫn giữa quyền


12
công tố và thực hành quyền công tố, giữa thẩm quyền của VKS và các quyền năng
pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”13. Để thực hiện
quyền cơng tố thì VKS phải sử dụng các quyền năng thuộc nội dung của quyền
công tố trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Như vậy, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền
công tố để thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội trong các giai đoạn tố
TTHS. Nội dung quyền công tố là sự buộc tội của Nhà nước đối với người đã thực
hiện hành vi phạm tội. Để bảo đảm thực hiện quyền này trên thực tế, Nhà nước ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật trong đó quy định các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung của quyền công tố. Các quyền năng đó được giao cho cơ quan nào
thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội, thì cơ
quan ấy được gọi là cơ quan thực hành quyền công tố và ở Việt Nam, cơ quan được
giao các quyền năng đó là VKS.
Về phạm vi thực hành quyền công tố: cho đến giai đoạn hiện nay thì phạm vi
của thực hành quyền cơng tố cũng còn nhiều ý kiến khác nhau do chưa có sự thống
nhất về khái niệm quyền cơng tố. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, trên cơ sở

quan điểm về phạm vi của quyền cơng tố nói trên cùng với những quy định của
Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014, các quy định của BLTTHS năm 2015, quan
điểm của chúng tôi cho rằng: phạm vi thực hành quyền công tố trước hết là trong
lĩnh vực TTHS, bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện thông qua việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm, thông qua việc cơ quan có thẩm quyền trực tiếp phát hiện xử
lý tội phạm và kết thúc khi bản án xử lý tội phạm được phát hiện có hiệu lực pháp
luật, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của BLTTHS. Do quyền công tố là
quyền truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội nên khi một tội
phạm xảy ra đòi hỏi phải được phát hiện kịp thời để khởi tố, điều tra và xử lý. Tuy
nhiên trên thực tế, không phải mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và xử lý
13

Trung tâm từ điển học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 973.


13
nên quyền công tố luôn sẵn sàng được áp dụng đối với những người đã thực hiện tội
phạm nhưng tội phạm đó chưa bị phát hiện và xử lý. Do đó, phạm vi của quyền
cơng tố ln ln rộng hơn phạm vi của thực hành quyền công tố: quyền công tố
bắt đầu sớm hơn, ngay từ khi tội phạm được thực hiện, cịn thực hành quyền cơng tố
ngay khi tội phạm được phát hiện và được thực hiện trong việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm và trong việc giải quyết các vụ việc do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp
phát hiện tội phạm. Mặt khác, không phải mọi trường hợp quyền công tố đều kéo
dài đến tận khi Bản án có hiệu lực pháp luật mà theo quy định của pháp luật TTHS,
nó có thể bị triệt tiêu ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào từ khởi tố, điều tra, truy tố đến
xét xử. Khi quyền công tố bị triệt tiêu thì cũng có nghĩa là khơng cịn việc thực hành
quyền cơng tố đối với người phạm tội nữa.
Về nội dung của thực hành quyền công tố chính là việc VKS sử dụng tổng
hợp các quyền năng tố tụng độc lập nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội. Quyền này được thực hiện ngay từ khi tội

phạm được phát hiện và có thể kéo dài trong suốt các giai đoạn tố tụng. Từ cách
hiểu về thực hành quyền công tố và nội dung của hoạt động này như đã phân tích
trên, chúng tơi cho rằng, đối tượng của thực hành quyền cơng tố cũng chính là tội
phạm và người đã thực hiện tội phạm.
1.1.2. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó các
cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào quy định của Pháp luật TTHS tiến hành việc xác
định sự việc xảy ra có hay khơng có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự hay khơng khởi tố vụ án hình sự.
Trên cơ sở quan điểm trên, chúng tôi thấy giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có
những đặc điểm như sau:
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc: Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ
án là khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra và bị phát hiện trên thực tế. Việc
nắm bắt được thông tin về các hành vi nguy hiểm này dựa trên nguồn tin về tội
phạm, dựa trên hoạt động của cơ quan có thẩm quyền khởi tố, điều tra. Thời điểm
kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án là khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án đối với hành vi đã xảy ra trên
thực tế.
Về nhiệm vụ: nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là phát hiện kịp
thời tội phạm để tiến hành khởi tố vụ án; áp dụng các biện pháp điều tra theo quy


14
định của BLTTHS nhằm điều tra làm rõ các dấu hiệu tội phạm, xác định đầy đủ các
căn cứ cho việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình
sự làm khởi động quy trình tố tụng tiếp theo để giải quyết vụ án hình sự.
Về chủ thể: Chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án vụ án
hình sự chủ yếu là CQĐT và VKS. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS năm 2015
thì cịn có một số cơ quan khác có thẩm quyền phát động cơng tố như Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và một số cơ quan

khác trong lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành
một số hoạt động điều tra, Hội đồng xét xử vụ án hình sự…nhưng các chủ thể này
chỉ được khởi tố vụ án, khởi tố bị can và điều tra những tội phạm ít nghiêm trọng
xảy ra trong lĩnh vực của mình quản lý (Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
Lực lượng Cảnh sát biển) hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự rồi chuyển đến
VKS cùng cấp để quyết định việc điều tra theo quy định của BLTTHS.
Về hoạt động tố tụng hình sự: hoạt động tố tụng đặc thù của giai đoạn này là
việc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động động điều tra sơ bộ như
kiểm tra, xác minh, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết, lấy lời khai người
chứng kiến, người bị tạm giữ, người bị tình nghi… để xác định các căn cứ chứng
minh có hay khơng có hành vi phạm tội.
Về văn bản tố tụng: văn bản pháp lý đặc trưng của giai đoạn TTHS này là
quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Quyết
định khởi tố vụ án hình sự là mốc đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn khởi tố, đồng
thời mở ra bước khởi đầu của một giai đoạn tố tụng tiếp theo – giai đoạn điều tra.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự xác định hành vi xảy ra trên thực tế là tội phạm và
việc áp dụng các quy trình tố tụng hình sự tiếp theo để giải quyết là điều không
tránh khỏi. Khác với quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ
án tuy vẫn là điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố nhưng nó khơng đồng thời là điểm
mở ra một giai đoạn tố tụng khác. Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự kết thúc
giai đoạn khởi tố và làm chấm dứt luôn hoạt động thực hành quyền công tố.
Về thời hạn: giai đoạn khởi tố vụ án hình sự với phạm vi nghiên cứu là hoạt
động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được BLTTHS quy định thời hạn tiến hành
các hoạt động điều tra nhằm đảm bảo việc phát hiện xử lý kịp thời các hành vi nguy
hiểm cho xã hội. BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn để giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo đó, đối với các tố giác, tin báo về tội


15

phạm và kiến nghị khởi tố khơng phức tạp thì thời hạn xác minh không quá 20
ngày; đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phức tạp, phải
xác minh tại nhiều nơi thì thời hạn không quá 02 tháng; trường hợp không thể kết
thúc việc điều tra, xác minh thì có thể gia hạn một lần không quá 02 tháng.
Việc xác định giai đoạn khởi tố vụ án là một giai đoạn của TTHS có ý nghĩa
quan trọng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Một mặt, nó thể hiện sự phản ứng
nhanh từ phía Nhà nước đối với hành vi phạm tội, qua đó phát hiện và xử lý có căn
cứ, đúng pháp luật tội phạm và người thực hiện tội phạm. Mặt khác, xác định giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự làm cơ sở cho việc xây dựng đầy đủ các qui định pháp luật
về chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho từng chủ thể mà đặc biệt là các quy định về quyền
hạn của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án, qua đó hạn chế đến mức loại bỏ oan sai.
Cuối cùng xác định và phân chia giai đoạn này là vấn đề quan trọng trong việc tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các
biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra. Giai đoạn khởi tố vụ án cùng với các giai
đoạn khác góp phần hiệu quả và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.3. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Từ những phân tích trên chúng tôi cho rằng thực hành quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự đó là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để thực hiện việc buộc tội đối với
tội phạm và người thực hiện tội phạm trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, được
thực hiện từ khi tội phạm được phát hiện thông qua việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm kéo dài đến khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Về phạm vi thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự:
Trên cơ sở phân tích trên, chúng tơi cho rằng thực hành quyền cơng tố trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi tội phạm bị phát hiện và kết
thúc khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Nội dung của thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
chính là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập do pháp luật

quy định để thực hiện việc buộc tội đối với hành vi phạm tội và người thực hiện tội
phạm trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm .
VKS có rất nhiều quyền năng pháp lý để thực hành quyền công tố được quy
định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015.


16
Trên thực tế, vẫn có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố tụng với quyền của cơ quan
công tố. Về nguyên tắc, chỉ có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý
của quyền công tố để truy cứu TNHS đối với người phạm tội mới là cơ quan thực
hành quyền công tố. Ở Việt Nam, pháp luật quy định chỉ có VKS là cơ quan duy
nhất thực hành quyền công tố, CQĐT chỉ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ VKS đưa vụ án
ra Tòa, Tòa án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm tội mà VKS đã truy tố.
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự
Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có các đ ặc
điểm sau:
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là một hoạt
động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với tội phạm và người
đã thực hiện tội phạm. Hoạt động này chỉ do VKS là cơ quan duy nhất đại diện Nhà
nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tiến hành.
Để thực hiện chức năng công tố, BLTTHS và Luật tổ chức VKSND quy định
cho VKS một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền
chỉ VKS mới được thực hiện; bên cạnh đó, các CQĐT và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng được pháp luật quy định
một số quyền năng pháp lý như: kiểm tra, xác minh đối với hành vi, sự việc xảy ra
trên thực tế, bắt, tạm giữ, khởi tố vụ án... nhưng đó chỉ là một số quyền năng tố tụng
thuộc nội dung của quyền công tố. Mặt khác, để thực hiện quyền cơng tố của mình,
VKS được pháp luật quy định quyền hạn đồng thời cũng chính là trách nhiệm phải
đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của tất cả các lệnh, quyết định tố tụng của

CQĐT liên quan đến việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trong đó, có một số
lệnh, quyết định, hoạt động điều tra bắt buộc phải có sự phê chuẩn hoặc phải có sự
tham gia của của VKS mới có giá trị pháp lý như: Lệnh khám xét, Lệnh bắt khẩn
cấp, phê chuẩn gia hạn tạm giữ, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi...Trong giai đoạn khởi tố, thông thường VKS không trực tiếp tiến hành kiểm tra,
xác minh các vụ việc, các tố giác, tin báo (ngoại trừ một số trường hợp VKS trực
tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố) nhưng với tư cách
là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố, VKS được sử dụng mọi
quyền năng pháp lý do pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính có căn cứ khi truy
cứu TNHS đối với người thực hiện tội phạm.


17
Xét trong khía cạnh thực hành quyền cơng tố, cơ quan có thẩm quyền điều
tra chỉ là chủ thể thực hiện các thủ tục pháp lý theo luật định để hỗ trợ cho VKS
trong giai đoạn khởi tố vụ án bằng việc giải quyết nguồn tin về tội phạm bởi kết quả
giải quyết cuối cùng của giai đoạn này đều do VKS quyết định. Các quyết định khởi
tố hay không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền điều tra đều phải
được chuyển cho VKS xem xét và quyết định.
Hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của
VKS bao gồm các hành vi và các quyết định tố tụng mang tính cơng khai theo một
trình tự, thủ tục, thẩm quyền được pháp luật TTHS quy định. Mục đích của hoạt
động thực hành quyền công tố của VKS là nhằm truy cứu TNHS đối với tội phạm
và người đã thực hiện hành vi phạm tội, đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải bị phát
thiện và xử lý, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Do vậy q
trình này phải đảm bảo tính chặt chẽ, có căn cứ pháp luật và đồng thời mang tính
cơng khai. Các quyết định cơng tố của VKS thể hiện dưới dạng văn bản của người
có thẩm quyền như các quyết định phê chuẩn lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp, phê chuẩn gia hạn tạm giữ, quyết định khởi tố vụ
án, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án của cơ quan có thẩm quyền điều tra

… đều mang tính cơng khai và được gửi cho cơ quan có thẩm quyền điều tra và
những người có liên quan.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của
VKS được tiến hành đối với từng vụ việc cụ thể không phải được áp dụng chung
cho các vụ việc khác nhau. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền cơng tố,
quyền hạn của VKS cũng chính là trách nhiệm pháp lý mà VKS phải thực hiện
nhằm đảm bảo việc thu thập tài liệu, chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội
được khách quan, đầy đủ làm căn cứ cho việc khởi tố vụ án. Những hoạt động này
được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTHS quy định
nhằm xác định có hay khơng có hành vi phạm tội xảy ra, nếu có thì phạm tội gì,
được quy định trong điều, khoản nào của BLHS. Thực tế trong rất nhiều trường hợp
còn phải xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, có năng lực trách
nhiệm hình sự hay không.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là
hoạt động nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với hành vi phạm tội và
người bị buộc tội, hoạt động này chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp thụ lý
và chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp trên, đồng thời chịu sự lãnh đạo tập


18
trung, thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC. VKS cấp trên có quyền rút, hủy bỏ
các quyết định cơng tố khơng có căn cứ và trái pháp luật của VKS cấp dưới và yêu
cầu ra quyết định đúng pháp luật.
Thực hành quyền cơng tố có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Tuy cùng một chủ thể là VKS
tiến hành nhưng thực hành quyền công tố nhằm vào việc buộc tội, gỡ tội, áp dụng
biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng chế khác đối với người bị buộc tội,
còn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự là hướng đến sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động kiểm tra, xác minh các căn
cứ để khởi tố vụ án. Nếu phát hiện có hành vi phạm pháp luật trong hoạt động điều

tra trong giai đoạn này, VKS có quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ thể chấm dứt vi
phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị vi phạm.
Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự làm cho mọi
hành vi phạm tội đều được phạt hiện và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa
tích cực trong việc bảo vệ quyền con người ngay từ khi phát hiện và xử lý tội phạm.
Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, bị hạn chế các quyền cơng dân, bị
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái
pháp luật.
Đảm bảo tính có căn cứ của việc khởi tố hay không khởi tố vụ án đối của các
cơ quan có thẩm quyền điều tra.
Thực hành quyền cơng tố cịn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của
VKS trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của cơ quan có thẩm quyền điều tra
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Cơng tác thực hành quyền cơng tố có tốt, có
mạnh mới làm cho cơng tác kiểm sát thực sự có hiệu quả. Qua đó, các hoạt động
điều tra được đảm bảo khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra đều được phát hiện kịp thời; khắc
phục và xử lý nghiêm minh.


19
1.3. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo
quy định củavmột số nƣớc trên thế giới
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo quy định
của nước Cộng hịa Pháp.
Nước Cộng hịa Pháp là nước điển hình theo truyền thống pháp luật lục địa. Viện
công tố Pháp là cơ quan duy nhất thực hiện quyền công tố và đóng vai trị quan trọng vừa

là cơ quan thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội vừa là cơ
quan đại diện cho xã hội bảo vệ cho lợi ích chung và bảo đảm việc áp dụng đúng pháp
luật. Do vậy, Công tố viên có thẩm quyền trong tất cả các lĩnh vực pháp luật mà Luật
hình sự, tố tụng hình sự chỉ là một lĩnh vực. Hệ thống cơ quan công tố chịu sự lãnh đạo
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp tuy nhiên sự lãnh đạo ở đây được hiểu là Bộ tư pháp chỉ giám
sát hoạt động mà không được can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố của Viện
công tố.
Điều 41 BL.TTHS của nước Cộng hòa Pháp qui định: “Viện trưởng Viện cơng tố
bên cạnh Tịa sơ thẩm tiến hành và yêu cầu tiến hành mọi hành vi cần thiết cho việc tìm
kiếm và truy cứu tội phạm”. Từ qui định này cho thấy phạm vi của hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được thực hiện ngay từ khi tội phạm
được phát hiện cho đến khi có quyết định việc truy tố hay không.
Để thực hiện quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện Cơng tố
có các quyền sau:
Viện cơng tố có quyền tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm. Viện
trưởng Viện cơng tố bên cạnh tịa sơ thẩm nhận tố giác, đánh giá và quyết định việc
xử lý. Mỗi nhà chức trách, mỗi viên chức công quyền, mỗi công chức trong khi thực
thi nhiệm vụ nếu biết có một trọng tội hoặc khinh tội xảy ra, phải báo ngay cho
Viện trưởng Viện công tố và chuyển cho Viện công tố tất cả các thông tin, các biên
bản và văn bản có liên quan. Cơng tố viên tịa sơ thẩm tiếp nhận khiếu kiện và tố
cáo rồi quyết định việc xử lý14.
Viện cơng tố có quyền chỉ đạo các hoạt động điều tra, đưa ra các yêu cầu điều tra
buộc cảnh sát tư pháp phải thực hiện, có quyền tự điều tra trong việc xử lý tin báo, tố
giác tội phạm. Khi một tội phạm xảy ra, cần phải phát hiện người phạm tội, Cơ quan điều
tra, Viện công tố được áp dụng mọi biện pháp tìm kiếm chứng cứ trên cơ sở tôn trọng
pháp luật. Trường hợp Công tố viên trực tiếp điều tra thì Cơng tố viên tiếp nhận hồ sơ
14

Thông tin khoa học kiểm sát số 4+5/2006 tr 32-33.



×