Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.53 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Sinh viên thực hiện
Chuyên nghành
Mã số sinh viên
Niên khóa
Giáo viên hƣớng dẫn

: Lê Thị Thu Thảo
: Luật Hình sự
: 3240173
: 2007 - 2011
: Tiến sĩ Lê Tiến Châu

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011


DANH MỤC VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND

Cơng an nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

PCCC

Phịng cháy chữa cháy

QCD

Quyền cơng dân

QCN


Quyền con người

QHXH

Quan hệ xã hội

QPPL

Quy phạm pháp luật

TAND

Tịa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


XH

Xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chƣơng 1. Lý luận chung về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời bị buộc tội
trong hoạt động điều tra vụ án hình sự ..................................................................... 1
1.1 Khái niệm quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người ở Việt Nam1
1.1.1 Khái niệm quyền con người ................................................................................. 1
1.1.2 Vấn đề bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ...................................................... 5
1.2 Khái quát về hoạt động điều tra vụ án hình sự ....................................................... 9
1.2.1 Khái niệm và vai trị của hoạt động điều tra vụ án hình sự .................................. 9
1.2.2 Các hoạt động điều tra vụ án hình sự ................................................................. 10
1.2.3 Ảnh hưởng của hoạt động điều tra vụ án hình sự đến quyền con người ............. 20
1.3 Người bị buộc tội trong hoạt động điều tra vụ án hình sự .................................. 21
1.3.1 Khái niệm người bị buộc tội .............................................................................. 21
1.3.2 Địa vị pháp lý của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra vụ án hình sự ... 24
Chƣơng 2. Bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời bị buộc tội trong hoạt động điều
tra vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003 – Thực trạng và hƣớng
hoàn thiện .................................................................................................................... 27
2.1 Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra vụ án
hình sự theo BLTTHS 2003 và thực trạng áp dụng .................................................... 27
2.1.1 Bảo vệ quyền được bình đẳng trước pháp luật của người bị buộc tội ............... 27
2.1.2 Bảo vệ quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, tài sản của người bị buộc tội ............................................................................ 29
2.1.3 Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, an tồn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của người bị buộc tội .................................................................... 36
2.1.4 Bảo vệ quyền được thông tin của người bị buộc tội .......................................... 42
2.1.5 Bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội ................................................... 44
2.1.6 Bảo vệ quyền được suy đốn vơ tội của người bị buộc tội ................................ 52


2.1.7 Bảo vệ quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị buộc tội bị oan, sai ........................................................................................ 55
2.2 Kiến nghị góp phần hồn thiện việc bảo vệ quyền con người của người bị buộc
tội trong hoạt động điều tra vụ án hình sự .................................................................. 57
2.2.1 Cải cách tư pháp trong việc hoàn thiện việc bảo vệ quyền con người của người
bị buộc tội trong hoạt động điếu tra vụ án hình sự .................................................... 58
2.2.2 Một số kiến nghị ................................................................................................. 59
Kết luận


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, trong điều kiện quốc tế có nhiều biến đổi phức tạp, khoa học và
cơng nghệ có bước phát triển nhảy vọt, tồn cầu hóa về kinh tế chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, điều này dẫn đến nhiều tiêu cực nhất là với chiến lược “diễn biến hịa
bình”, các thế lực thù địch đang ra sức sử dụng vấn đề quyền con người như một
công cụ quan trọng để phá hoại, can thiệp vào các nước XHCN và các nước độc lập
dân tộc. Chính vì vậy, vấn đề quyền con người ngày càng thu hút được sự quan tâm,
theo dõi của cộng đồng quốc tế, trở thành một trong những nội dung quan trọng
trong các chương trình nghị sự, hội thảo quốc tế và khu vực. Đối với nước ta, dưới
chiêu bài bảo vệ “nhân quyền”, các thế lực thù địch tăng cường tiến hành hoạt động
phá hoại tư tưởng, bôi nhọ Chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Để đấu tranh

có hiệu quả với các âm mưu phá hoại này thì việc nắm vững các giá trị thời đại về
quyền con người trong các công ước quốc tế về quyền con người có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng. Q trình nghiên cứu quyền con người sẽ tạo cơ sở lý luận vững
chắc để cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hồn thiện các chính sách, pháp
luật về quyền con người.
Con người là trọng tâm của sự phát triển, của xã hội. Do đó, bảo vệ QCN là
vấn đề quan trọng trong công cuộc hiện nay, đặc biệt là bảo vệ QCN trong hoạt
động điều tra VAHS. Được xem là một hoạt động mang tính nhạy cảm cao do dễ có
khả năng xâm phạm đến con người về cả mặt thể chất và tinh thần, Nhà nước đã
quy định nhiều chế định, biện pháp nhằm bảo vệ tốt nhất QCN trong hoạt động
điều tra VAHS. Tuy nhiên, hoạt động điều tra VAHS là hoạt động có vai trị vơ
cùng quan trọng trong q trình giải quyết VAHS, là yếu tố quyết định đến các giai
đoạn tố tụng sau này, là bước đầu tiên giúp giải quyết nhanh chóng một VAHS. Để
vừa bảo vệ được QCN trong hoạt động điều tra VAHS, vừa giải quyết nhanh chóng,
chính xác VAHS là một vấn đề khơng đơn giản, nó địi hỏi một q trình tìm hiểu,
nghiên cứu để hồn thiện các quy định về bảo vệ QCN trong hoạt động điều tra
VAHS cũng như đề ra giải pháp hoàn thiện. Đồng thời, trong hoạt động điều tra


VAHS, người bị buộc tội được xem là chủ thể trung tâm. Khi tham gia vào hoạt
động này, người bị buộc tội bị pháp luật hạn chế một số quyền cũng như họ dễ bị
xâm phạm các quyền cơ bản. Bảo vệ QCN của người bị buộc tội trong hoạt động
điều tra VAHS sẽ bảo đảm được dân chủ, tăng cường được pháp chế XHCN, đảm
bảo được uy tín của Đảng và Nhà nước. Đây là lý do chọn đề tài “Bảo vệ quyền con
người của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra VAHS” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay, về tên gọi, chưa có đề tài nào trùng tên với đề tài này. Tuy nhiên,
trong xu thế phát triển chung của nhân loại, vấn đề QCN ngày càng được chú trọng;
thế nên, ở nước ta, đây cũng là đề tài đang được quan tâm từ nhiều phía. Qua q
trình tìm hiểu, có nhiều sách tham khảo và nhiều bài viết, bài báo… nghiên cứu về

vấn đề này. Cụ thể như sách tham khảo: “Bàn về quyền con người, quyền công dân”
của tác giả Trần Ngọc Đường, Nxb. Chính trị Quốc gia; “Bảo vệ quyền con người
trong Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự” của Trần Quang Tiệp (2004), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; hay “Về đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của Trần Quan Tiệp (2009), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội…cùng một số bài viết trên các tạp chí như Tiến sĩ Hồ
Sỹ Sơn với bài viết “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề
xuất hoàn thiện pháp luật” trên Tạp chí Luật học số 01/2011… và những cơng trình
nghiên cứu, luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về vấn đề bảo vệ
QCN như Đoàn Văn Thuận (2010), “Đảm bảo quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can trong giai đoạn điều tra VAHS”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại
học Luật Tp.HCM; “Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra
VAHS”, Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Đức Huy, trường Đại học Luật
Tp.HCM… Qua đó thấy được, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự đang được chú ý. Kết quả nghiên cứ của các cơng trình trên là
nguồn nhận thức quan trọng giúp cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tuy nhiên, với tên gọi và nội dung cũng như u cầu khác nhau, vì vậy các cơng
trình nghiên cứu trên đây chỉ tập trung vào những khía cạnh chung của quyền con


người hoặc ở khía cạnh bảo vệ quyền con người trong tố tụng mà chưa dành sự
quan tâm đến các khía cạnh bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong quá
trình điều tra vụ án hình sự - giai đoạn hết sức nhạy cảm trong việc bảo vệ quyền
con người. Điều này một lần nữa lập luận cho việc lựa chọn đề tài này làm khóa
luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
-

Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề bảo vệ QCN


trong hoạt động điều tra VAHS cùng với những phân tích các quy định của
BLTTHS hiện hành và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định này để đánh giá
hiệu quả việc bảo vệ QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra VAHS.
Từ đó tìm ra những bất cập của quy định pháp luật và làm sáng tỏ những nguyên
nhân bất cập đó. Trên những kết quả nghiên cứu được đưa ra những kiến nghị góp
phần nâng cao, bảo vệ tốt nhất QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra
VAHS.
-

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
 Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề bảo vệ QCN của người bị buộc tội
trong hoạt động điều tra VAHS
 Phân tích những quy định của BLTTHS liên quan đến vấn đề bảo vệ
QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra VAHS
 Nghiên cứu thực tiễn hoạt động điều tra của CQĐT: đánh giá hiệu quả
cũng như những bất cập, hạn chế trong công tác bảo vệ QCN của người
bị buộc tội
 Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTHS và nâng
cao hiệu quả hoạt động điều tra VAHS liên quan đến bảo vệ QCN.

-

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về Bảo vệ QCN của người bị buộc

tội trong hoạt động điều tra VAHS ở nước ta theo BLTTHS 2003. Trong bài viết,
tác giả chỉ đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong


hoạt động điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, bất kì hoạt động điều tra

được tiến hành bởi các cơ quan khác không được tác giả đề cập đến.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp, tác giả sử dụng những phương pháp cụ
thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát…
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài:
- Thông qua việc nghiên cứu làm sáng tỏ hơn về mặt nhận thức đối với vấn đề
bảo vệ QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra VAHS. Bên cạnh
đó giúp đưa những giá trị nghiên cứu được vào thực tiễn để nâng cao cách nhìn
nhận của đội ngũ cán bộ tiến hành điều tra với vấn đề bảo vệ QCN.
- Đề tài đưa ra những bất cập, hạn chế và những tồn tại trong các quy định của
BLTTHS liên quan đến bảo vệ QCN trong hoạt động điều tra VAHS cũng như
trong thực tiễn điều tra. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị giúp hoàn
thiện, khắc phục những tồn tại đó trong cả mặt lập pháp và thực tiễn để bảo vệ
tốt hơn QCN, đặc biệt là QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra
VAHS.
6. Bố cục khóa luận:
Ngồi phần lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
có bố cục gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội
trong hoạt động điều tra VAHS.
Chương 2: Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động điều
tra VAHS theo BLTTHS 2003 – Thực trang và hướng hồn thiện
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng của bản thân; sự giúp đỡ của người thân,
bạn bè cùng với sự hướng dẫn của Thầy giáo nhưng chắc chắn nội dung khóa luận
khó tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Chính vì thế, tác giả kính mong nhận được sự
góp ý, bổ sung từ phía thầy cơ để bài viết được tốt hơn.


Để hoàn thành được được đề tài, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tích cực từ

nhiều phía, nhất là từ thầy giáo hướng dẫn – Tiến sĩ Lê Tiến Châu. Qua đây, tác
giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo hướng dẫn – Tiến sĩ Lê
Tiến Châu cùng với những tác giả đã có những bài viết hỗ trợ cho quá trình
nghiên cứu đề tài.


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI
BỊ BUỘC TỘI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái quát chung về quyền con ngƣời và vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời ở
Việt Nam
1.1.1 Khái niệm quyền con người
“Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản và nhạy cảm về phương
diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn” [18-tr.4]. Mỗi giai đoạn phát triển của
xã hội loài người đều gắn liền với q trình giải phóng con người nói chung, các
QCN và QCD nói riêng. Về nguyên tắc, tất cả các phong trào Cách mạng của quần
chúng đều hướng đến mục tiêu tạo ra sự bình đẳng, mơi trường sống n bình, tốt
đẹp. “Lịch sử chính trị cho đến nay chỉ là lịch sử của sự đối kháng và giải quyết sự
đối kháng giữa nhu cầu của con người về quyền lực và nhu cầu của con người về tự
do” [22-tr.16].
Mặc dù thuật ngữ “quyền con người” được sử dụng rộng rãi, thường xuyên
trong các lĩnh vực chính trị và luật học nhưng đến nay vẫn chưa có sự nhận thức
thống nhất. Khái niệm QCN từ hàng trăm năm qua là một phạm trù rất rộng, đa
dạng và có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở thời kỳ cổ đại, thị dân
một số thành phố Ai Cập đã sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền
bình đẳng của chính mình trước pháp luật. Tuy nhiên, phải đến thế kỉ 17, 18, QCN
mới được bàn đến như một học thuyết. Lúc bấy giờ, cũng có nhiều quan điểm khác
nhau về QCN:
 Quan điểm thứ nhất, trường phái pháp luật tự nhiên với các nhà tư
tưởng bậc thầy như Spinoda, Locke, Kant cho rằng QCN là đặc quyền tự nhiên. Đặc

quyền tự nhiên này do có pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định.
Thuyết pháp luật tự nhiên ra đời trong bối cảnh Châu Âu gặp nhiều biến động nên
nó cũng mang những ý nghĩa đặc thù là đáp ứng nhu cầu tự do của con người,

1


khẳng định QCN là tự nhiên, vốn có nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm QCN do
vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho.
Thuyết pháp luật tự nhiên đã hồn thành vai trị lịch sử của nó, xác lập về
mặt tư tưởng nguyên tắc bảo vệ quyền con người trước quyền lực khi các QCN mà
thuyết pháp luật tự nhiên nêu ra đã được ghi nhận trong Luật về các quyền, Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của Cách
mạng Pháp, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 và các văn bản pháp lý quốc
tế khác.
 Quan điểm thứ hai xem con người cũng như QCN trong tổng hòa các
mối quan hệ xã hội. Với quan niệm này, QCN là một giá trị nhân loại, đồng thời là
một khái niệm có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ
sung những nội dung mới qua các thời đại khác nhau. Aristot đã khẳng định con
người là “động vật chính trị”, con người cần đến xã hội để tồn tại và phát triển;
cũng như C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất, một “sinh
vật – xã hội”, là “con người – xã hội”, là “tổng hòa những quan hệ xã hội” [16tr.11]. Chính vì vậy, QCN thể hiện sâu sắc các giá trị của các QHXH và hiển nhiên
là mang bản chất đó.
Ngày nay, QCN càng được thế giới quan tâm và thu hút được sự chú ý của
các nhà khoa học. Tuy nhiên, do QCN có tính đặc thù nên khái niệm QCN vẫn chưa
có sự nhận thức thống nhất. Có quan điểm cho rằng: “Quyền con người là những
quyền mặc nhiên và cơ bản của con người kể từ khi được sinh ra cho đến khi trọn
đời mà không ai có quyền tước bỏ” [71]. Cách định nghĩa này chỉ tiếp cận đến
quyền tự nhiên của con người mà chưa đề cập đến yếu tố quan trọng là QCN luôn
gắn với một hệ thống pháp luật nhất định, chỉ bằng pháp luật các quyền tự nhiên

mới được ghi nhận ngày càng đầy đủ hơn và trở thành QCN, được xã hội thừa nhận
và pháp luật bảo vệ. “QCN là những đảm bảo pháp lý tồn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, các
quyền (entitlements) và sự tự do cơ bản cuả con người (fundamental freedom)”

2


[75]... khái niệm này của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc lại khơng nói rõ đến
quyền tự nhiên của con người mà chỉ quy định các yếu tố pháp lý để đảm bảo thực
hiện QCN.
Nhận thức từ luận điểm nổi tiếng của C.Mác về bản chất con người: “Bản
chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”
[16-tr.29] nên để hiểu QCN cần phải xem xét con người từ hai khía cạnh tự nhiên
và xã hội. Chính vì vậy, khái niệm QCN ngày càng được nhận thức đầy đủ, chính
xác hơn: “Quyền tự nhiên là những quyền của con người sống trong một trạng thái
tự nhiên, nó là cơ sở của quyền con người; quyền con người là tổng hợp những
quyền tự nhiên vốn có của con người nói chung cần phải được Nhà nước và xã hội
thừa nhận và bảo vệ” [64] hay “quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên
mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội nhất định” [29-tr.14].
Con người sinh ra trong thời đại có Nhà nước ln có mối quan hệ với Nhà
nước. Nhà nước ra đời là hệ quả tất yếu của sự vận động và phát triển của XH. Nhà
nước làm giảm các khát vọng tự nhiên của con người, tự do của con người bị thu
hẹp lại nhưng con người phải cần đến Nhà nước thì mới có thể cùng tồn tại được.
Con người sinh ra trong Nhà nước, trở thành công dân của Nhà nước và đương
nhiên con người có các quyền do Nhà nước ghi nhận, được Nhà nước bảo đảm nhờ
vào cơng cụ hữu hiệu là pháp luật. Và khi đó, QCN thể hiện chủ yếu ở quyền công

dân và được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật. Việc ghi nhận và đảm bảo QCD
trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là việc thể hiện sự ghi nhận và bảo
vệ QCN. Mặc dù khái niệm QCD hẹp hơn nhưng nó mang tính cụ thể, xác định hơn
và chỉ gắn với một quốc gia cụ thể, nhất định. Có những người có QCN nhưng
khơng có QCD hoặc bị tước QCD nhưng họ vẫn có QCN. Chính vì vậy, khi xem xét
QCD thì điều trước tiên hết là phải đặt nó trong một Nhà nước, một quốc gia cụ thể.
Có thể nói, QCD là sự phản ánh, là thước đo nền chính trị và khả năng kinh tế của
quốc gia, là sự phản ánh mức độ phát triển của nền dân chủ và trình độ dân trí của

3


cơng dân. Từ đó, hiểu theo nghĩa chung nhất, “Quyền công dân là những điều mà
pháp luật công nhận cho cơng dân được hưởng, được làm và được địi hỏi... Quyền
công dân không phải là sự ban phát của Nhà nước cho công dân, cũng không phải
xuất phát từ ý chí chủ quan của nhà làm luật mà xuất phát từ bản chất con người,
dựa trên điều kiện cụ thể của đất nước về kinh tế, văn hóa và xã hội” [49].
Nội dung quyền con người bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội,
chính trị, văn hóa cụ thể nhưng cũng phải thấy rằng các điều kiện này có vai trị
khác nhau trong việc chi phối nội dung quyền con người; trong đó pháp luật có vai
trị, vị trí và tầm quan trọng hàng đầu. Một trong ba nguyên tắc cơ bản của QCN
được nêu lên trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 là các QCN phải được
bảo vệ bằng hệ thống pháp luật.
Từ các luận điểm nói trên, có thể rút ra được những đặc trưng cơ bản của
QCN: Thứ nhất, QCN có từ chính bản chất của con người và được xác định bởi
mức độ phát triển của văn minh nhân loại nói chung. Thứ hai, QCN hình thành một
cách khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phát triển chính trị của
xã hội, khơng phụ thuộc vào sự thừa nhận của Nhà nước. Thứ ba, QCN thuộc về
con người kể từ khi sinh ra mà không cần phải có các sự kiện nào cả. Thứ tƣ, QCN
là không thể chuyển dịch, không bị mất đi, gắn liền với bản chất sinh học của con

người. QCN ở góc độ là một phạm trù pháp lý – lịch sử luôn gắn liền với Nhà nước
và Pháp luật, là những QCN được Nhà nước thừa nhận thông qua chế định quốc tịch
của công dân. QCD của mỗi Nhà nước phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể
mà Nhà nước tồn tại trong đó. QCD khơng thể cao hơn phát triển kinh tế [67-tr.7].
Cho đến nay, trong các Văn kiện của Liên hợp quốc, đặc biệt trong ba văn
bản quan trọng nhất về QCN của nhân loại là: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 và Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 đều đã ghi nhận các giá trị cơ bản, phổ quát
về QCN:

4


 Tôn trọng nhân phẩm và giá trị mỗi con người là cơ sở để thực hiện
QCN. Nhà nước có trách nhiệm hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện
QCN;
 Bình đẳng và khơng phân biệt đối xử là giá trị phổ quát (universal) của
QCN. QCN phải được thực hiện trên cơ sở các giá trị đó;
 QCN là bất khả xâm phạm (inalienable), không chia cắt (indivisible), liên
quan đến nhau (interrelated) và phụ thuộc lẫn nhau (interdependent).
Trong điều kiện ngày nay, các giá trị nhân đạo ngày càng phát triển với sự
quan tâm tích cực từ phía cộng đồng quốc tế. Con người không chỉ tồn tại với tư
cách là một thành viên, công dân của một quốc gia mà cịn là thành viên “cơng dân”
của cộng đồng thế giới [20-tr.324]. Chính vì vậy, việc ghi nhận và bảo đảm QCN
ngày nay đã tạo được sự chú ý cũng như sự phối hợp giữa các quốc gia và cộng
đồng quốc tế; các Nhà nước thành viên của cộng đồng quốc tế đều ghi nhận bảo vệ
các QCN. Đồng thời, bảo vệ QCD chính là việc Nhà nước, xã hội và chính cơng
dân có những hoạt động, phương thức, biện pháp tạo điều kiện hoặc tự mình thực
hiện các QCD; nhăn chặn, chống lại và xử lý nghiêm minh những hành vi xâm
phạm QCD.

1.1.2 Vấn đề bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Ở mỗi quốc gia, việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện tốt các QCD chính là đã
thực hiện nội dung cơ bản về QCN. Ở nước ta, thuật ngữ QCN mới được chính thức
đưa vào Hiến pháp 1992 nhưng trên thực tế, QCN luôn được xem xét là một trong
những nội dung cơ bản xuyên suốt hệ thống pháp luật nước ta từ khi thành lập chính
quyền nhân dân đến nay.
Tại Chỉ thị 12/TW ngày 12/07/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng
ta đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu
tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại”. Nội dung Chỉ thị trên đây cho thấy việc bảo vệ QCN, QCD là
chính sách nhất quán và là mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong

5


mỗi giai đoạn của Cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc
bảo vệ QCN, QCD luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
được cụ thể hóa trong các đạo luật khác. Qua mỗi giai đoạn phát triển của Cách
mạng Việt Nam, việc bảo vệ QCN ở nước ta lại được củng cố, hồn thiện.
Hịa cùng xu thế phát triển chung của thời đại cũng như căn cứ vào tình hình
nội tại, Nhà nước ta đang khơng ngừng triển khai thực hiện việc bảo vệ QCN, từng
bước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn
trọng và thực hiện các Điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã kí kết hoặc gia
nhập.
Về khía cạnh lập pháp, trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Đảng và Nhà nước đã vạch ra nhiệm vụ:
“Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc xây

dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các
lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Hoàn thiện chế độ bảo hộ của
Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, chế độ trách nhiệm
của cơ quan Nhà nước, nhất là Tịa án trong việc bảo vệ các quyền đó...”. Hơn thế
nữa, việc ghi nhận và phát triển các quyền cũng như cơ chế bảo vệ các QCN, QCD
trong bốn bản Hiến pháp được xem là bốn bước tiến quan trọng cũng như tinh thần
nhân đạo của Nhà nước ta. Xuất phát từ nguyên tắc Hiến pháp phải đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ được tuyên bố trong Lời nói đầu của Hiến pháp 1946, Chương
II Hiến pháp 1946 đã quy định “nghĩa vụ và quyền lợi công dân” gồm 18 điều.
Nhiều quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận như quyền tự do ngôn luận
(Điều 10), quyền bầu cử, ứng cử (Điều 18)...Hiến pháp 1946 đã thể hiện khá đầy đủ
các mặt về QCD, đặc biệt là các quyền trong lĩnh vực hành chính – chính trị. Hiến
pháp 1959, trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định của Hiến pháp 1946 không
chỉ mở rộng phạm vi QCD mà còn quy định các bảo đảm pháp lý, tổ chức cho việc

6


thực hiện các quyền đó. Đây là bước tiến lớn nhất trong Hiến pháp 1959 so với
Hiến pháp 1946 về QCD. Hiến pháp 1959 đã ghi nhận thêm hàng loạt những quyền
mới của cơng dân như quyền có việc làm (Điều 30), người lao động có quyền nghỉ
ngơi (Điều 31), quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29)... Hiến pháp 1980 cũng dành
Chương V bao gồm 29 điều (Điều 53 đến Điều 81) quy định quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Hiến pháp 1980 kế thừa các quy định về quyền cơ bản của công
dân trong các bản Hiến pháp trước đây nhưng có sửa đổi, bổ sung các quyền mới
như quyền được bảo vệ sức khỏe (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62)... Tuy vậy, sự
duy ý chí trong một số quy định về quyền vẫn cịn là những hạn chế, tồn tại của
Hiến pháp 1980. QCN, QCD ngày càng được mở rộng hơn, hoàn thiện hơn, đặc biệt
là trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thể hiện ở cả phương diện

chính trị, pháp lý cũng như phương diện kĩ thuật lập hiến. Hiến pháp 1992 đánh dấu
bước phát triển mới của nhận thức về QCD, về nội dung QCD. Hiến pháp 1992
dành một chương – Chương V gồm 34 điều (Điều 49 đến Điều 82) quy định quyền
và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Khác với các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp
1992 có riêng một điều quy định trực tiếp về QCN – Điều 50. Hiến pháp 1992 quy
định “quyền và nghĩa vụ của công dân chỉ do Hiến pháp và luật quy định” (Điều
51) cho thấy thái độ trân trọng các QCN, QCD là các giá trị xã hội cũng như thể
hiện sự đảm bảo thi hành, bảo vệ các quyền này do Hiến pháp, luật – là các văn bản
QPPL có giá trị ràng buộc, áp dụng đối với mọi công dân trên lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy, QCN đã được chính thức thừa nhận, QCD là hình thức pháp lý của QCN,
QCN không tách rời QCD. Điểm đặc biệt nữa trong việc bảo vệ QCN ở Nhà nước
ta hiện nay là bên cạnh việc thể chế và ghi nhận các quyền, Hiến pháp 1992 cũng đã
quy định về cơ chế bảo vệ các QCN, QCD thông qua vai trò giám sát và cơ chế tài
phán. Cụ thể, Hiến pháp 1992 đã trao quyền giám sát các hoạt động tư pháp cho
VKSND tối cao và VKSND địa phương [7-Đ.137]; việc xét xử của TAND có Hội
thẩm nhân dân tham gia [7-Đ.129]… Với những quy định này, việc bảo vệ QCN,
QCD sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Ngày nay, trước tình hình chính trị thế giới
ln có nhiều biến động, thay đổi đe dọa nền hịa bình quốc gia, chúng ta vẫn đang

7


tích cực gìn giữ, đấu tranh khơng ngừng bảo vệ thành quả Cách mạng, chống lại các
thế lực thù địch đang điên cuồng chống phá và xuyên tạc chính sách, tư tưởng lãnh
đạo của Đảng ta. Mà một trong những cơng cụ được chúng sử dụng chính là chiêu
bài bảo vệ nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Với quan
điểm cho rằng “nhân quyền” hồn tồn mang tính nhân loại, tính tồn cầu; tự do
chính trị là cốt yếu của “nhân quyền”, cịn kinh tế là thứ yếu [53-tr.16], Mỹ đã tự
trao cho mình đặc quyền, sứ mạng có thể can thiệp vào nội bộ bất kì quốc gia nào
để bảo vệ quan điểm “nhân quyền” của mình, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ

cộng đồng thế giới. Phải thừa nhận nhân quyền là vấn đề phức tạp và vô cùng nhạy
cảm, đảm bảo thực hiện QCN là điều khơng dễ dàng, địi hỏi phải trải qua quá trình
phấn đấu lâu dài nên thiếu sót là điều khơng thể tránh khỏi. Chính vì vậy, bên cạnh
nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ QCN, QCD, Nhà nước ta cũng đã
thẳng thắn thừa nhận một số hạn chế trong việc đảm bảo các QCN để từng bước
khắc phục nhằm bảo đảm tốt hơn các QCN ở Việt Nam.
Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc phê chuẩn một số
hiệp ước quốc tế quan trọng về QCN với trên 30 Cơng ước quốc tế cơ bản về QCN.
Chính việc tham gia các Điều ước quốc tế về QCN đã thể hiện sự ý thức sâu sắc của
Việt Nam về việc bảo vệ QCN trước cộng đồng thế giới. Chỉ tính từ năm 1992 đến
năm 2009, khơng kể các văn bản do Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác có
thẩm quyền ban hành, Quốc hội đã thơng qua được 183 văn bản Luật, trong đó có
khoảng 48 văn bản có liên quan trực tiếp đến bảo vệ quyền và tự do cơ bản của
công dân; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 125 pháp lệnh trong đó có khoảng
39 văn bản liên quan trực tiếp đến bảo vệ quyền và tự do cơ bản của công dân [40].
Để tư tưởng bảo vệ QCN, coi con người là trung tâm của mọi hoạt động đạt hiệu
quả, Đảng và Nhà nước ta không ngừng triển khai nhiều hoạt động; một trong
những biện pháp đang mang lại hiệu quả tích cực chính là việc dịch sang tiếng Việt
các Cơng ước quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước ta đã phê chuẩn hay gia nhập.
Các văn bản đã được phổ biến rộng rãi ngay cả trong cộng đồng đồng bào thiểu số
và đưa vào chương trình giáo dục phổ thông...

8


Những nỗ lực của Việt Nam là rất to lớn và đáng được công nhận. Với việc
được bầu làm thành viên Ủy ban Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2001 – 2003
và là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc năm 2010, Việt
Nam đã chính thức được thế giới cơng nhận và đây cũng được xem là một bước tiến
dài khẳng định vị thế Việt Nam trên trường thế giới.

1.2 Khái quát về hoạt động điều tra vụ án hình sự
1.2.1 Khái niệm và vai trị của hoạt động điều tra vụ án hình sự
Tố tụng hình sự là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau: khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử… Các giai đoạn này đều nhằm thực hiện mục đích chung
của tố tụng hình sự là phát hiện kịp thời, nhanh chóng tội phạm và người phạm tội,
xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội.
Trong đó, điều tra là một giai đoạn độc lập mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi
biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ
sau khi có quyết định khởi tố VAHS.
Để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là khám phá một cách nhanh chóng, kịp thời,
tồn diện VAHS cơ quan có thẩm quyền điều tra được quyền tiến hành các hoạt
động điều tra theo quy định của BLTTHS. Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất
cả các VAHS và chúng phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.
Tịa án muốn xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, giai đoạn
điều tra phải thu thập được những chứng cứ của vụ án.
Hoạt động điều tra là hoạt động tố tụng đặc trưng của giai đoạn điều tra
nhưng khơng phải là hoạt động mang tính độc quyền riêng có ở giai đoạn điều tra.
Hoạt động điều tra cũng có thể được diễn ra ở giai đoạn khởi tố VAHS hoặc giai
đoạn xét xử, chẳng hạn như pháp luật TTHS cũng quy định cho Tòa án thẩm quyền
thu thập chứng cứ: “Để thu thập chứng cứ, … và Tịa án có quyền triệu tập những
người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến
vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, … và các hoạt động điều tra
khác…” [3-Đ.65]. Tuy nhiên, hoạt động điều tra được coi là hoạt động tố tụng đặc

9


trưng của giai đoạn điều tra vì nó được thực hiện chủ yếu và là nội dung hoạt động
chủ yếu của giai đoạn điều tra. Chính vì vậy, trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập

đến vấn đề bảo vệ QCN của người bị buộc tội trong hoạt động điều tra thuộc giai
đoạn điều tra, mọi hoạt động điều tra trong các giai đoạn khác khơng được trình
bày.
Tóm lại, hoạt động điều tra VAHS là hoạt động tố tụng đặc trưng của giai
đoạn điều tra VAHS do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện thơng qua việc áp
dụng các biện pháp điều tra do BLTTHS 2003 quy định để thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội.
Hoạt động điều tra luôn cần phải tuân theo những nguyên tắc của nó. Đây là
những quy định của pháp luật, cần chú ý quán triệt thực hiện trong quá trình điều tra
nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động điều tra. Có thể thấy, trong ba nguyên tắc
của hoạt động điều tra: nguyên tắc hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến
hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ (Điều 5 Pháp lệnh về tổ chức điều
tra hình sự), nguyên tắc mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp luật, chấp hành
các nguyên tắc của BLTTHS 2003 và nguyên tắc cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự
chỉ đạo nghiệp vụ của cơ quan điều tra cấp trên thì nguyên tắc mọi hoạt động điều
tra phải tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên tắc của BLTTHS 2003 được
xem là nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN trong hoạt động điều tra (Điều 3
BLTTHS 2003). Như vậy, trong hoạt động điều tra, mọi hoạt động đều phải tuân
thủ Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật TTHS và các văn bản khác. Điều này cũng bao
hàm cả việc bảo vệ QCN – quyền Hiến định trong hoạt động điều tra.
1.2.2 Các hoạt động điều tra vụ án hình sự
Trong q trình điều tra ln tồn tại hai loại chủ thể tiến hành tố tụng điều
tra, đó là CQĐT thơng qua hoạt động của Thủ trưởng, phó Thủ trưởng CQĐT, hoạt
động độc lập của ĐTV. ĐTV thay mặt CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra
VAHS. BLTTHS 2003 quy định cụ thể các hoạt động điều tra góp phần tạo điều
kiện cho cơ quan tiến hành điều tra đạt được nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn điều
tra. Về cơ bản, hoạt động điều tra gồm:

10



-

Khởi tố và hỏi cung bị can;

-

Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đối chất và nhận
dạng;

-

Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;

-

Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên
thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định.

 Khởi tố và hỏi cung bị can
 Khởi tố bị can
Theo quy định tại Điều 126 BLTTHS 2003: “khi có đủ căn cứ để xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can”.
Như vậy, khởi tố bị can là hoạt động tố tụng của CQĐT, qua đó, CQĐT ra quyết
định bằng văn bản đối với một người khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực
hiện hành vi phạm tội. Những quy định liên quan đến hỏi cung bị can được quy
định cụ thể từ Điều 126 đến Điều 127 BLTTHS 2003.
Quyết định khởi tố bị can là căn cứ xác lập mối quan hệ tố tụng giữa người
bị khởi tố với cơ quan tiến hành tố tụng, xác định quyền và nghĩa vụ của người đó

trong q trình tố tụng, đồng thời là cơ sở pháp lý để CQĐT, VKS áp dụng các biện
pháp cưỡng chế về mặt tố tụng đối với bị can.
Trước khi khởi tố bị can, cơ quan có thẩm quyền phải có căn cứ xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can thuộc về
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS và những
cán bộ của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra: Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong công an
nhân dân, trong quân đội nhân dân.
Việc khởi tố bị can là một cơ sở dẫn đến hạn chế một số quyền của người bị
khởi tố, có ý nghĩa bất lợi đối với họ nên khoản 4 Điều 126 BLTTHS 2003 quy
định: “Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi

11


quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp
để xét phê chuẩn việc khởi tố”. Trước đây, theo quy định của BLTTHS 1988, nếu
VKS không đồng ý với quyết định khởi tố bị can của CQĐT thì VKS quyết định
đình chỉ điều tra. BLTTHS năm 2003 quy định: nếu không đồng ý với quyết định
khởi tố bị can của CQĐT thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và
gửi ngay cho CQĐT [3-Đ.126].
CQĐT, VKS có quyền thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can khi
có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố
hoặc phát hiện bị can còn phạm thêm tội khác. Việc thay đổi sẽ làm thay đổi quan
hệ pháp luật tố tụng, thay đổi địa vị của bị can. Chính vì vậy, pháp luật địi hỏi các
cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật từ căn cứ
để thay đổi hoặc bổ sung đến thủ tục, trình tự.
Trong trường hợp bị can là người có chức vụ, quyền hạn, nếu họ tiếp tục giữ
chức vụ đó sẽ gây ra những khó khăn trong q trình điều tra thì cơ quan có thẩm

quyền khởi tố bị can kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can ra
quyết định tạm đình chỉ chức vụ của bị can. Như vậy, chỉ khi có căn cứ cho rằng bị
can vẫn có thể tiếp tục hoặc có điều kiện tiếp tục hoạt động phạm tội hoặc có điều
kiện gây trở ngại cho việc điều tra tội phạm thì việc tạm đình chỉ chức vụ bị can
mới được thực hiện.
Khởi tố bị can là hoạt động điều tra VAHS có khả năng xâm phạm đến
quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của người bị buộc tội trong
hoạt động điều tra VAHS.
 Hỏi cung bị can
Sau khi có quyết định khởi tố bị can, ĐTV phải tiến hành ngay việc hỏi cung
bị can. Hoạt động này phải được tiến hành theo trình tự luật định kết hợp với các
biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can bằng việc đưa ra các câu
hỏi nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, tồn diện và đầy đủ, qua
đó có thể phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ cho VAHS. Việc hỏi cung phải được
tiến hành một cách khách quan, thận trọng. Trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành

12


việc hỏi cung bị can và những vấn đề liên quan được pháp luật TTHS quy định cụ
thể, đầy đủ từ Điều 130 đến Điều 131 BLTTHS năm 2003.
Việc hỏi cung bị can phải được lập thành biên bản, có thể do ĐTV hoặc KSV
thực hiện.
Để đảm bảo quyền lợi của bị can cũng như yêu cầu bị can thực hiện các
nghĩa vụ của mình, trước khi hỏi cung, ĐTV phải đọc quyết định khởi tố bị can và
giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 49
BLTTHS 2003. Việc này phải được ghi vào biên bản.
Pháp luật TTHS nghiêm cấm việc bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị
can, đồng thời tránh việc truy bức, ép buộc bị can phải làm việc nhiều trái quy luật
sinh hoạt, cụ thể khoản 2 Điều 131 BLTTHS 2003 quy định về nguyên tắc chung

việc hỏi cung không được tiến hành vào ban đêm. ĐTV hoặc KSV bức cung hoặc
dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 299 hoặc Điều 298 BLHS [3-Đ.131].
Thông thường việc hỏi cung được tiến hành ngay tại trụ sở của CQĐT nhưng
cũng có thể hỏi cung tại nơi đang tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của bị can.
Đối với người bị buộc tội trong hoạt động hỏi cung, quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là những
quyền dễ bị gây tổn hại nhất.
 Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; đối chất và nhận dạng
 Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Lấy lời khai là một hoạt động điều tra độc lập của ĐTV, KSV nhằm thu thập
chứng cứ hoặc những thông tin cần thiết do người làm chứng, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cung cấp để góp
phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án nhằm giải quyết đúng đắn VAHS. Việc
lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

13


người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quy định cụ thể từ Điều 133 đến Điều
137 BLTTHS 2003.
Việc lấy lời khai có nhiều điểm chung với hoạt động hỏi cung vì cùng thể
hiện bằng hình thức hỏi và trả lời, đồng thời hoạt động lấy lời khai phải tuân theo
đúng các quy định của pháp luật TTHS. Theo quy định của BLTTHS 2003, không
được lấy lời khai vào ban đêm; trước khi lấy lời khai, ĐTV phải giải thích cho các
chủ thể biết về quyền và nghĩa vụ của họ và cần yêu cầu họ xuất trình giấy triệu tập
và giấy chứng minh để xác định họ có đúng là người mà ĐTV triệu tập đến hay
không.

Khi lấy lời khai của những chủ thể dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người
đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cơ giáo của người đó tham dự. Sự chứng
kiến của những người nói trên trong khi lấy lời khai những chủ thể dưới 16 tuổi
nhằm tạo điều kiện cho người làm chứng bình tĩnh khai báo đúng sự thật và tạo nên
mối quan hệ tin cậy giữa ĐTV với những người được lấy lời khai. Sự có mặt của
cha mẹ, người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo là nghĩa vụ luật định.
ĐTV, KSV và những người có thẩm quyền trong các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là những người có thẩm quyền lấy lời
khai. Những nguời này có quyền chọn địa điểm lấy lời khai: tại nơi tiến hành điều
tra, nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.


Đối chất
Theo quy định tại Điều 138 BLTTHS 2003, trong trường hợp có sự mâu

thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì ĐTV tiến hành đối chất. Như vậy,
đối chất là hoạt động điều tra được ĐTV hoặc KSV thực hiện trong trường hợp có
mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người bằng cách cho họ tiếp xúc, tranh
luận và chất vấn lẫn nhau dưới sự hướng dẫn trực tiếp của người tiến hành tố tụng
nhằm làm rõ những tình tiết mâu thuẫn trong lời khai trước đó của họ để xác định
sự thật VAHS.

14


Đối chất chỉ có thể được tiến hành giữa những người tham gia tố tụng trong
VAHS, đồng thời phải là những người đã có lời khai về các tình tiết của vụ án;
khơng thể có đối chất giữa những người chưa có lời khai hoặc những người khơng
buộc phải khai báo trước các cơ quan tiến hành tố tụng.

Điều luật quy định: nếu có người làm chứng hoặc người bị hại tham gia đối
chất thì trước tiên ĐTV phải giải thích rõ cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối,
trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Trong q trình đối chất có sự
kiểm sát của đại diện VKS theo quy định của pháp luật.
Hoạt động đối chất phải được lập thành biên bản và phải được tất cả những
người có mặt cùng ký. Trong trường hợp có người tham gia đối chất từ chối ký vào
biên bản thì việc đó phải được ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
 Nhận dạng
Nhận dạng là hoạt động điều tra được thực hiện bằng cách đưa người, vật
hoặc ảnh cho người làm chứng, người bị hại hoặc bị can xác nhận người, vật hoặc
ảnh đó nhằm khắc phục sự nhầm lẫn, ngộ nhận hoặc những sai lầm khác trong nhận
thức dẫn đến sự thiếu khách quan, khơng chính xác trong lời khai của người làm
chứng, người bị hại hoặc bị can khẳng định đó có phải là những đồ vật, người có
liên quan đến vụ án mà người nhận dạng đã khai báo trước đó.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 139 BLTTHS 2003 thì ngồi đối tượng
chính là đối tượng cần xác định có liên quan đến vụ án cịn cần có những đối tượng
tương tự để nhận dạng. Đối tượng nhận dạng tương tự phải được đảm bảo về số
lượng là ba, trừ trường hợp nhận dạng tử thi, bề ngoài phải tương tự với đối tượng
nhận dạng chính và phải khơng liên quan đến vụ án.
Việc nhận dạng của người làm chứng hoặc người bị hại trong VAHS là nghĩa
vụ nên trước khi tiến hành, ĐTV phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ
chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích đó phải được
ghi vào biên bản. Bên cạnh đó, việc tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng
kiến và sự tham dự này của người chứng kiến trong nhận dạng là bắt buộc.

15


 Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản:
 Khám xét

Theo Đại từ điển tiếng Việt, “khám xét là lục tìm cái đang che giấu” [18tr.887]. Trong TTHS, khám xét là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết tội
phạm, vật chứng hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Theo Điều 140 BLTTHS 2003 quy định thì chỉ được tiến hành khám người,
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm khi có căn cứ để
nhận định rằng ở đó có cơng cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội
mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Căn cứ tiến hành khám xét
quy định trong Điều 140 BLTTHS 2003 là những tài liệu, chứng cứ mà CQĐT đã
thu thập được thông qua nguồn tin do quần chúng cung cấp, do những người thực
hiện tội phạm khai báo hoặc do CQĐT phát hiện. Tất cả những chứng cứ này đều
phải được kiểm tra kỹ trước khi ra lệnh khám xét.
BLTTHS 2003 quy định rõ ràng các chủ thể có thẩm quyền ra lệnh khám xét,
gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; Chánh án,
Phó Chánh án TAND và TA quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tịa,
Phó Chánh tịa phúc thẩm TAND tối cao; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các
cấp. Lệnh khám xét của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành trừ trường hợp khơng thể trì hỗn được thì
khơng cần có sự phê chuẩn trước của VKS nhưng trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi
khám xong, người đã ra lệnh phải báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp để VKS
thực hiện chức năng kiểm sát điều tra [3-Đ.141].
Các trường hợp khám xét:
 Khám người (Điều 142 BLTTHS 2003)
 Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 143 BLTTHS 2003)
 Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Khi có căn cứ cho rằng trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu
điện có đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án thì những người có thẩm quyền được
quy định tại Điều 141 BLTTHS 2003 có quyền ra lệnh khám xét. Việc thu giữ thư

16



×