Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.89 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ ĐƠNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ,
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ ĐƠNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ,
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự.
Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ VÕ THỊ KIM OANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” là cơng
trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong
luận văn này được sử dụng trung thực, có dẫn chiếu, tham chiếu đầy đủ nguồn
theo quy định của một cơng trình khoa học. Kết quả nghiên cưú được trình
bày trong luận văn này chưa từng được cơng bố tại bất kỳ cơng trình khoa học
nào khác.
TP Hồ Chí Minh ngày 22/11/2011
Tác giả luận văn

Lê Thị Đơng
Học viên lớp: CHL – TUK4
Mã SV: 0994000011


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Số liệu án Kiểm sát viên đã thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, và kiểm sát xét xử từ năm 2005 đến năm 2010. ....................................... 55
Bảng 2: Số vụ án Viện kiểm sát đã tiến hành kháng nghị và tỷ lệ được Tòa
án chấp nhận trong 6 năm từ năm 2005 đến năm 2010 ................................. 64


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM
SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................. 5
1.1. Khái niệm chung về Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm chung về Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự ..................... 5
1.1.1.1. Định nghĩa Kiểm sát viên ................................................................... 5
1.1.1.2. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên .................................................. 8
1.1.1.3. Trình tự tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên .................................... 10
1.1.1.4. Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên................................................ 13
1.1.2. Khái niệm về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự .. 14
1.1.3. Vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự ......................... 16
1.2. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ............................................................................................................ 18
1.2.1. Khái niệm giai đoạn điều tra.. .............................................................. 18
1.2.2. Khái niệm giai đoạn truy tố .................................................................. 20
1.2.3. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm...................................................... 21
1.2.4. Vai trò của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .......................................................................................... 22
1.3. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan tiến hành tố tụng; Bị
can; Bị cáo và Người bào chữa..................................................................... 24
1.3.1.Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với các cơ quan tiến hành tố tụng ..... 24
1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Cơ quan Điều tra. .................... 24
1.3.1.2. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Viện kiểm sát............................ 25
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Tòa án ..................................... 26
1.3.2. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Bị can, Bị cáo và Người bào chữa
......................................................................................................................... 27
1.4. Sơ lược về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự từ
năm 1945 đến 2003 ........................................................................................ 29


CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA

KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................... 32
2.1. Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự .......................................................................... 32
2.2. Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai
đoạn truy tố vụ án hình sự ........................................................................... 37
2.3. Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............................................................. 40
2.3.1. Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong hoạt
động chuẩn bị xét xử ....................................................................................... 41
2.3.2. Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm hình sự..................................................................................... 42
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
......................................................................................................................... 53
3.1. Thực tiễn hoạt động của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy
tố xét xử vụ án hình sự từ năm 2005 đến nay ............................................. 54
3.1.1 Những kết quả đạt được trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
......................................................................................................................... 54
3.1.2. Những kết quả đạt được trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự............ 58
3.1.3. Những kết quả đạt được trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự............. 59
3.1.4 Những hạn chế tồn tại. ........................................................................... 61
3.2 Cải cách tư pháp và nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm
sát viên trong giai đoạn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự .................................................................................................. 65
3.3. Định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm sát viên trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ......................... 70
3.3.1. Nhóm định hướng hồn thiện pháp luật .............................................. 70
3.3.2. Nhóm những giải pháp khác ................................................................. 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng,
và tế bào gốc của cơ quan tố tụng này chính là Kiểm sát viên. Kiểm sát viên là
một chức danh tư pháp được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cụ thể hóa
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực. Theo đó Pháp lệnh kiểm
sát viên cũng quy định rõ về điều kiện, yêu cầu cũng như nghĩa vụ, quyền hạn
đối với Kiểm sát viên.
Hiện tại, đã có những cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Kiểm
sát viên ở góc độ bao qt, dưới cách nhìn chung trong tồn Bộ luật tố tụng
hình sự nhưng chưa có một nghiên cứu chun sâu nào về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên theo chiều sâu trong từng giai đoạn chuyên biệt cụ thể.
Với mục đích bảo đảm cho hoạt động thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện theo các quy định
chung của pháp luật, từng bước đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Việc đi
sâu vào xác định địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong từng giai đoạn như
điều tra, truy tố, xét xử là một yêu cầu cấp thiết. Điều này tránh được sự nhầm
lẫn giữa công tác quản lý hành chính trong nội bộ Viện kiểm sát, cũng như sự
nhầm lẫn giữa Kiểm sát viên trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố
tụng hay người tham gia tố tụng. Đồng thời đưa ra những vướng mắc trong
thực tiễn mà Kiểm sát viên khi tiến hành nghiệp vụ gặp phải, nhằm từng bước
khắc phục và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm sát viên nói
chung và Ngành kiểm sát nói riêng làm nền tảng cho sự đổi mới của hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự. Nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có những cơng trình nghiên cứu phân tích về vai trò, trách nhiệm và
quyền hạn của Kiểm sát viên dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như: Thạc
sỹ Phan Thanh Thủy cũng bàn về Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố
tụng hình sự Việt Nam. PGS. TS Phạm Hồng Hải đề cập đến bản lĩnh và kiến
thức của Kiểm sát viên khi tranh luận tại phiên tịa thơng qua bài viết “Thực
trạng tranh tụng trong phiên tịa hình sự của Kiểm sát viên dưới góc nhìn của


2

Luật sư”. Thạc sỹ Trịnh Minh Tân lại thể hiện sự băn khoăn trước tính độc
lập của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự.
Ngồi ra cũng có nhiều đề tài liên quan đến tổ chức hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân, Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự có đề cập đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên.
Hầu hết các bài viết chú trọng đến quyền tranh tụng tại phiên tòa, hoặc
trăn trở trước các hoạt động của Kiểm sát viên trong toàn bộ hệ thống tố tụng
hình sự. Từ đó, các bài viết phân tích nhiệm vụ của Kiểm sát viên bao trùm
theo chiều dài của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc chỉ đi sâu vào phân tích quyền
cơng tố và thực hành quyền cơng tố; hoặc phân tích sự cần thiết phải nâng cao
trình độ năng lực của kiểm sát viên …. Nhưng chưa có cơng trình nào bóc
tách vấn đề theo hướng xác định vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong từng
giai đoạn một cách riêng biệt.
Vì vậy, sự nghiên cứu, cụ thể hóa vai trị trách nhiệm của Kiểm sát viên
ở từng giai đoạn một cách rõ ràng, nhất là trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự - giai đoạn cơ bản nhất của vụ án hình sự - là hồn
tồn cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận Văn

* Mục đích: dựa trên nghiên cứu về mặt lý luận để làm rõ khái niệm
“Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự”. Từ đó xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Kiểm
sát viên trong quá trình này. Đồng thời đối chiếu với thực tiễn để đưa ra giải
pháp có tính chất khoa học nhằm đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ pháp lý của
người Kiểm sát viên.
* Thực hiện mục đích trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích vị trí, vai trị, quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý của Kiểm sát viên
trong giai đoạn này.
- Đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo địa vị của người Kiểm sát viên. Bảo
đảm các quyền cũng như yêu cầu thực hiện nghĩa vụ pháp lý.


3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên theo quy định của pháp luật Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và đi sâu vào
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được viết dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nuớc và pháp luật. Các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt là quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách
tư pháp.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử Mác xít. Trong đó có chú trọng các phương pháp kết hợp giữa
lý thuyết và thực tiễn, phương pháp logic, hệ thống, so sánh và phương pháp
tổng hợp.
6. Những điểm mới của Luận văn
Luận văn có 3 điểm mới:
- Lần đầu tiên, vị trí, vai trị của Kiểm sát viên được xác định một cách
rõ ràng, gói gọn trong giai đoạn điều tra – truy tố - xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
- Luận văn cập nhật một cách kịp thời về địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Pháp
Lệnh sửa đổi Pháp Lệnh Kiểm sát viên có hiệu lực từ 01/7/2011.
- Luận văn đưa ra được những ưu, nhược điểm bằng cách phân tích
những hạn chế, thuận lợi trong quy định của pháp luật đối với Kiểm sát viên.
Từ đó có kiến nghị phù hợp với thực tiễn nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu
của pháp luật.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự.


4

8. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao
gồm 3 chương, bố cục như sau:
Chương 1: nhận thức chung về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chuơng 2: Pháp luật thực định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên

trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Kết luận.


5

CHƯƠNG I
NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chung về Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Khái niệm chung về Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự

Viện kiểm sát là một trong bốn hệ thống cơ quan độc lập của cơ cấu bộ
máy nhà nước ta. Trong tổ chức của ngành Kiểm sát, ngồi các chức danh
như Viện trưởng, Phó viện trưởng, Luật tố tụng hình sự cịn quy định về Kiểm
sát viên, một lực lượng đông đảo của ngành kiểm sát, những người dưới sự
chỉ đạo của Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng, đại diện cho Viện kiểm sát
trực tiếp thực hiện gần như tồn bộ hoạt động thực hành quyền cơng tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp mà pháp luật trao cho Viện kiểm sát và chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng. Tham gia vào quá trình tố tụng, chủ thể này
được quy định những nội dung nhiệm vụ riêng, mang tính đặc thù về phạm vi
chủ thể và hành vi tố tụng. Mục đích hoạt động của Kiểm sát viên khơng nằm
ngồi mục đích chung của tố tụng hình sự là để đảm bảo phát hiện kịp thời tội
phạm, xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý nghiêm minh đối với
những hành vi phạm tội, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô

tội đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân.
1.1.1.1. Định nghĩa Kiểm sát viên

Theo Từ điển tiếng Việt thì “kiểm sát” là kiểm tra và giám sát1, cịn
“viên” chỉ người giữ một chức vụ nào đó2. Như vậy “Kiểm sát viên” là chức
danh làm nhiệm vụ kiểm tra và giám sát. Cách hiểu này có lẽ cịn mang tính
phiến diện, một chiều, chưa phản ánh được hết được chức năng pháp luật quy
định cho Kiểm sát viên, đặc biệt là chức năng thực hành quyền công tố.

1, 2

Tr 365, 863, Từ điển Luật học (2006) – Viện Khoa học pháp lý – NXB Tư Pháp.


6

Theo Từ điển Từ và Ngữ, “Kiểm” là tra xét, “sát” là xem xét, kết hợp
hai từ này thì “kiểm sát” là tra xét xem có đúng hay khơng3. Khi đặt trong mối
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, thì “kiểm sát” là kiểm tra và giám sát
việc tuân theo pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác, kiểm sát là hoạt
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng bên ngoài giám sát việc chấp
hành pháp luật của một cơ quan nhà nước khác. Cách hiểu này đã bao hàm
hơn chức năng của Viện kiểm sát, theo đó một phần nhiệm vụ của Kiểm sát
viên những người thực thi chức năng của Viện kiểm sát đã được chỉ ra rõ hơn.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 và Pháp Lệnh Kiểm sát viên
2002 quy định: “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp”. Như vậy, Kiểm sát viên trước hết là những cá nhân và các cá
nhân này phải đáp ứng những điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật để

được bổ nhiệm như: yêu cầu về phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, thời
gian công tác, chuyên môn nghiệp vụ của ngành Kiểm sát thì họ có thể được
bổ nhiệm vào chức danh tư pháp – Kiểm sát viên. Sau khi được bổ nhiệm lực
lượng này sẽ đại diện viện kiểm sát để thực hiện hai chức năng: thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Từ cơ sở phân tích khái
niệm như trên, có thể thấy Kiểm sát viên có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Có phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị.
+ Được người có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy định của pháp luật.
+ Có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đại diện Viện kiểm sát trong
việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
+ Có kiến thức chun mơn, nghiệp vụ và có kinh nghiệm trong cơng
tác thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
+ Là một trong những người tiến hành tố tụng.
Khi thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền viện kiểm sát cấp mình theo phân công của
Viện trưởng, Kiểm sát viên với tư cách là người tiến hành tố tụng sẽ tùy từng
vị trí, từng giai đoạn trong q trình giải quyết vụ án mà có những nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm khác nhau. Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và
3

Tr 523, 984, Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (2000)- NXB TP Hồ Chí Minh.


7

chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng viện kiểm sát cấp mình, sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong mọi hoạt động của mình, Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm
trước Viện trưởng. Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có
căn cứ cho rằng việc mình được giao là trái pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn

quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng Viện trưởng sẽ là người
chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trong trường hợp này, Kiểm sát
viên cũng có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải
chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó. Ngồi ra, Kiểm
sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc có thể bị thay đổi trong các trường
hợp do pháp luật quy định.
Pháp luật cũng quy định Kiểm sát viên không được làm những việc mà
pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm như: Tư vấn cho bị
can, bị cáo đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải
quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật; can
thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết các vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của
mình, tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án. Đem hồ sơ hoặc tài
liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu khơng vì nhiệm vụ được giao hoặc
không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Kiểm sát viên cũng khơng
được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong các
vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
* Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự là Kiểm sát viên chịu sự điều
chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là những người đại điện cho Viện
kiểm sát tham gia trực tiếp vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đảm
bảo hồn thành nhiệm vụ của Viện kiểm sát như: thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Khoản 2 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng. Điều 37
Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định những nghĩa vụ và quyền hạn đặc trưng
riêng để đảm bảo cho Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ mà Viện trưởng
giao, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà Kiểm sát viên tiến hành các
hoạt động khác nhau để thực hiện nhiệm vụ khác nhau. Trong phạm vi luận
văn này, tác giả chỉ đề cập đến địa vị pháp lý của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.



8

Như vậy, Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự trước hết phải là Kiểm sát
viên. Ngồi những tiêu chí chung quy định cho Kiểm sát viên thì Kiểm sát
viên trong tố tụng hình sự có những đặc điểm riêng. Đây là chủ thể chịu sự
điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự và lĩnh vực hoạt động của họ là lĩnh vực
hình sự chứ khơng phải các lĩnh vực khác như hành chính, dân sự, kinh
tế….Theo đó, Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự ngồi việc kiểm sát các
hoạt động tư pháp như Kiểm sát viên trong các lĩnh vực khác cịn có chức
năng thực hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự. Đây là chức năng chỉ
riêng biệt trong lĩnh vực hình sự mới có. Sự phân định này nhằm xác định rõ
ràng phạm vi hoạt động của Kiểm sát viên.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trung
cấp; Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân. Mỗi cấp Viện kiểm sát
được bố trí các ngạch Kiểm sát viên khác nhau. Số lượng Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp của
Viện kiểm sát nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Kiểm sát viên trong tố
tụng hình sự cũng được bố trí ngạch, bậc và số lượng theo quy định này của
Pháp lệnh.
1.1.1.2. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên

Tiêu chuẩn là “điều kiện quy định là mẫu để đánh giá hoặc phân loại”4
Kiểm sát viên là chức danh tư pháp của cơng chức ngành Kiểm sát, do đó để
đáp ứng những yêu cầu trong hoạt động của ngành thì những người được
tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên nhất thiết phải đáp ứng được những
yêu cầu nhất định. Các yêu cầu này được quy định cụ thể trong Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên 2002, Pháp lệnh sửa

đổi pháp lệnh Kiểm sát viên 2010 và các văn bản chỉ đạo của ngành kiểm sát.
Để bổ nhiệm vào chức danh Kiểm sát viên, yêu cầu đầu tiên mà người
được đề nghị bổ nhiệm phải đáp ứng được các yêu cầu này là: Công dân Việt
Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử
4

Từ điển Từ và ngữ Việt Nam – Nguyễn Lân – NXB TP Hồ Chí Minh 2000.


9

nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có thời gian làm cơng tác thực tiễn theo quy
định của Pháp lệnh Kiểm sát viên, có sức khoẻ bảo đảm hồn thành nhiệm vụ
được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên5. Tuy
nhiên, pháp luật chưa quy định rõ đó là đối với trường hợp người mang hai
quốc tịch trở lên, trong đó có một quốc tịch Việt Nam thì nếu đáp ứng được
các yêu cầu trên có được bổ nhiệm Kiểm sát viên hay không.
Nhằm thực hiện được chức năng riêng của ngành Kiểm sát trong từng
vị trí khác nhau, Pháp luật cũng yêu cầu những người được tuyển chọn phải
đáp ứng được những điều kiện về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, thời gian
công tác.
+ Tốt nghiệp cử nhân Luật: điều kiện này nhằm đảm bảo cho những
người được tuyển chọn đã được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật
trong các lĩnh vực như hình sự, tố tụng hình sự….
+ Tốt nghiệp khóa đào tạo nghiệp vụ Kiểm sát viên: điều kiện này
nhằm đảm bảo người được bổ nhiệm Kiểm sát viên đã được trang bị kiến thức
và kỹ năng nghề nghiệp khi tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Đây cũng là tiền đề cho

việc mở rộng nâng cao chất lượng tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa
án được đề ra trong chiến lược cải cách tư pháp mà chúng ta đang tiến hành.
+ Yêu cầu về thâm niên công tác: người được bổ nhiệm Kiểm sát viên
tùy thuộc vào cấp bổ nhiệm cịn có u riêng về thời gian công tác cũng như
năng lực chuyên môn để phù hợp với từng cấp, cụ thể như sau: Đối với người
được tuyển chọn để bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự khu vực là người có thời gian
làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên. Có năng lực thực hành quyền cơng
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện. Đối với cấp tỉnh thì những người được tuyển chọn để bổ
nhiệm Kiểm sát viên phải là những người đã là kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện ít nhất năm năm, có năng lực thực hành quyền cơng tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát nhân dân
5

Điều 2 Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011


10

cấp dưới. Ngoài ra, trong trường hợp do nhu cầu Cán bộ của ngành Kiểm sát,
những người có thời gian cơng tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm
sát đối với Viện kiểm sát cấp dưới thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Những người được tuyển chọn bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao là những người đã là Kiểm sát viên cấp tỉnh, ít nhất năm
năm; có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có khả năng hướng dẫn
nghiệp vụ kiểm sát đối với Viện kiểm sát cấp dưới. Trường hợp do nhu cầu
cán bộ thì những người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn trên và đã có thời gian
cơng tác từ mười lăm năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương thì cũng có thể được xem xét bổ
nhiệm.
+ Trường hợp đặc biệt: những người đang công tác trong ngành Kiểm
sát hoặc người được cơ quan tổ chức có thẩm quyền điều động đến cơng tác
tại ngành Kiểm sát, tuy chưa có đủ thời gian làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát
cấp dưới hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật nhưng có đủ những
điều kiện khác thì cũng có thể được tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên
Viện kiểm sát các cấp.
Theo quy định của pháp luật thì tiêu chuẩn của Kiểm sát viên trong tố
tụng hình sự cũng phải thỏa mãn tất cả những tiêu chuẩn trên. Đây là những
yêu cầu cần và đủ để một Kiểm sát viên có thể độc lập tiến hành thực hiện
nhiệm vụ mà pháp luật giao phó.
1.1.1.3. Trình tự tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên

* Quy trình tuyển chọn: Điều 26, Pháp lệnh Kiểm sát viên quy định
trình tự thủ tục, tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Kiểm sát
viên. Ngày 02/02/2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban
hành hướng dẫn chi tiết trình tự này. Theo đó, Ban cán sự của Viện kiểm sát
sẽ dựa vào nhu cầu cán bộ xác định chủ trương bổ nhiệm Kiểm sát viên.
Phòng tổ chức cán bộ sẽ dựa trên các tiêu chí đặt ra để lựa chọn những cá
nhân đáp ứng được yêu cầu, lập hồ sơ trích ngang của những người này để


11


Ban cán sự xem xét quyết định. Khi đã có danh sách những cá nhân đủ tiêu
chuẩn bổ nhiệm thì cùng một lúc cả cá nhân người được bổ nhiệm và Viện
kiểm sát nơi tiến hành bổ nhiệm Kiểm sát viên phải làm một số việc theo trình
tự sau đây.
Người được tuyển chọn bổ nhiệm viết Bản tự kiểm điểm, nhận xét về
bản thân mình, trong đó phải nêu rõ: lập trường tư tưởng; đạo đức; số lượng
công việc đã làm trong năm năm gần nhất, hiệu quả công việc thu được...
Viện kiểm sát, nơi tiến hành bổ nhiệm Kiểm sát viên sẽ tiến hành bỏ phiếu kín
lấy tín nhiệm của tập thể trong đơn vị nơi người đuợc bổ nhiệm đang công tác
và tiến hành. Đồng thời, đơn vị này cũng có trách nhiệm lấy ý kiến của chính
quyền địa phương (và ý kiến của Đảng bộ nếu người được bổ nhiệm là Đảng
viên) nơi người được bổ nhiệm đang sinh sống. Cử cán bộ trực tiếp xác minh
lại kết quả. Cấp lãnh đạo trực tiếp cũng có nhận xét, đánh giá riêng về người
sẽ được bổ nhiệm bằng văn bản. Viện trưởng viện kiểm sát cùng tập thể lãnh
đạo Viện sẽ tổng hợp kết quả tín nhiệm, xác minh và kết luận đối với từng
trường hợp. Tất cả các hoạt động này nhằm chọn lựa được người có tư cách,
phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực để thực hiện nhiệm vụ xã hội giao phó.
Giữ vị trí tham mưu cho lãnh đạo Viện kiểm sát, Ủy Ban kiểm sát sẽ
xem xét và đề nghị Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên chọn lựa những người
được đánh giá là đủ năng lực để thực hiện các hoạt động của Kiểm sát viên.
Trên cơ sở của đề nghị này, Hội đồng tuyển chọn sẽ xem xét, thẩm định lại
các khâu xét tuyển trước để tìm ra người hội đủ các điều kiện và đề nghị
người có thẩm quyền ra quyết định.
Như vậy có thể thấy, phiên họp của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên
là khâu cuối cùng trước khi quyết định một người có được bổ nhiệm Kiểm sát
viên hay khơng. Do đó, việc này địi hỏi Hội đồng kiểm sát viên phải có tinh
thần trách nhiệm cao, công minh và khách quan. Mặc dù thành phần Hội đồng
tuyển chọn đã được quy định rõ trong Pháp lệnh kiểm sát viên nhưng hiện nay
vẫn vấp phải một trở ngại, đó là việc cần xem xét lại thành phần Hội đồng
tuyển chọn kiểm sát viên. Bởi lẽ, ngoài những thành phần có chun mơn

trong hoạt động thực hành pháp luật thì trong Hội đồng tuyển chọn cũng có
những vị trí chưa phát huy được hiệu quả thực sự. Rõ ràng một trong những
tiêu chí cơ bản của Viện kiểm sát là nhằm bảo đảm cho pháp chế được tuân
thủ, tránh tình trạng cục bộ địa phương. Do đó khi tiến hành các hoạt động


12

nghiệp vụ Kiểm sát viên nói riêng cần thiết phải có một sự độc lập nhất định,
chỉ chịu trách nhiệm với Viện trưởng của mình mà khơng nên bị ảnh hưởng
bởi cơ quan dân cử và hành chính ở địa phương. Hơn nữa, chỉ những người có
chun mơn trong hoạt động pháp luật mới đánh giá chính xác được năng lực
thực sự của Kiểm sát viên. Còn các vấn đề khác như tư cách, đạo đức, phẩm
chất chính trị đã được tuyển chọn ở các khâu trước đó và đã được Bảo vệ nội
bộ xác minh nên không cần thiết phải lặp lại nữa.
* Bổ nhiệm là việc giao cho một người giữ một chức vụ trong bộ máy
nhà nước bằng quyết định của cá nhân hay của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền6, chính thức cơng nhận người đó được công tác trong cơ quan nhà
nước. Kiểm sát viên cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ. Sau khi trải qua
quá trình tuyển chọn Kiểm sát viên, tùy từng vị trí là Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên trung cấp hay Kiểm sát viên sơ cấp mà sẽ
do Chủ tịch nước hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm.
Chủ tịch nước sẽ quyết định bổ nhiệm đối với Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trên cơ sở kết quả của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên.
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ quyết định bổ nhiệm đối với
Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp.
Kiểm sát viên được bổ nhiệm sẽ hoạt động theo nhiệm kỳ, mỗi nhiệm
kỳ là 05 năm. Khi hết nhiệm kỳ, nếu Kiểm sát viên vẫn đáp ứng được các tiêu
chuẩn như đã phân tích thì sẽ được tái bổ nhiệm. Trên phương diện cá nhân
tác giả cho rằng việc quy định nhiệm kỳ là không còn cần thiết, đặc biệt đối

với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay bởi lẽ:
Kiểm sát viên có thể bị miễn nhiệm khi không đáp ứng được yêu cầu
pháp luật đề ra hoặc có thể bị cách chức khi có vi phạm mà khơng quan trọng
thời gian Kiểm sát viên đã được bổ nhiệm bao lâu. Hơn nữa, sau mỗi năm làm
việc các đơn vị đều tiến hành đánh giá lại cán bộ của mình. Như vậy, đặt ra
yêu cầu tái bổ nhiệm sẽ không mang lại nhiều hiệu quả trong khi tổ chức bộ
máy lại cồng kềnh thêm và phải tiến hành cả một quy trình phức tạp để tái bổ
nhiệm. Đa số các trường hợp đã làm hồ sơ tái bổ nhiệm đều được tái bổ
nhiệm đã tạo nên một quy trình “đến hẹn lại lên” khơng cần thiết. Hiện nay,
6

Tr71 Từ điển Luật học (2006) – Viện Khoa học pháp lý – NXB Tư pháp.


13

nhiều nước trên thế giới không quy định nhiệm kỳ mà quy định việc bổ nhiệm
Kiểm sát viên chỉ tiến hành một lần, suốt đời. Quy định này tạo sự an tâm cho
Kiểm sát viên, củng cố địa vị pháp lý của Kiểm sát viên cũng như tránh được
thủ tục hành chính rườm rà, khơng cần thiết.
1.1.1.4. Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên

* Miễn nhiệm được hiểu là việc cá nhân hoặc cơ quan nhà nước cho
một cá nhân thôi không tiếp tục giữ một chức vụ nhất định mà người đó đã
giữ trước đó. Việc miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên xảy ra trong các trường
hợp: do sức khỏe, do hồn cảnh gia đình, chuyển cơng tác hoặc vì lý do khác
mà xét thấy khơng đảm bảo hồn thành nhiệm vụ được giao và có đơn xin
miễn nhiệm. Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát sẽ họp xem xét việc miễn
nhiệm. Trên cơ sở kết quả của cuộc họp Hội đồng, người có thẩm quyền ký
bổ nhiệm Kiểm sát viên cấp nào sẽ là người quyết định miễn nhiệm đối với

cấp đó. Điều 27, Pháp lệnh Kiểm sát viên cũng quy định trường hợp Kiểm sát
viên được đương nhiên miễn nhiệm khi họ nghỉ hưu. Trường hợp này, Hội
đồng tuyển chọn Kiểm sát viên không phải họp xem xét mà Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn và Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự trung ương tiến hành như trên để quyết định việc miễn
nhiệm.
* Cách chức là một trong những chế tài kỷ luật đối với cán bộ cơng
chức do có hành vi vi phạm pháp luật trong q trình cơng tác. Cách chức là
việc người có thẩm quyền ra quyết định cho người đang giữ một chức danh
nào đó khơng được tiếp tục giữ vị trí đó nữa do vi phạm pháp luật thuộc phạm
vi, nhiệm vụ quyền hạn của người đó, khơng cịn xứng đáng với tín nhiệm và
trách nhiệm được giao7.
Điều 28, Pháp lệnh Kiểm sát viên 2002 quy định cụ thể các trường hợp
Kiểm sát viên bị cách chức. Theo đó, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
Kiểm sát viên có thể bị cách chức do vi phạm trong công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; Vi phạm tại Điều 15 Pháp lệnh
Kiểm sát viên 2002; Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý
đang đảm nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức; vi phạm
7

Tr 23 Từ điển Luật học (2006) – Viện Khoa học pháp lý – NXB Tư pháp.


14

về phẩm chất đạo đức; có hành vi vi phạm pháp luật khác. Kiểm sát viên cũng
đương nhiên bị mất chức danh Kiểm sát viên khi bị kết tội bằng bản án có
hiệu lực pháp luật của Tịa án.
1.1.2. Khái niệm về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
“Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các

quyền và nghĩa vụ của chủ thể qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng
của chủ thể trong các hoạt động của mình”8. Thơng qua địa vị pháp lý của
chủ thể chúng ta có thể phân biệt các chủ thể pháp luật với nhau, đồng thời có
thể xác định được vị trí, vai trị của chủ thể này trong các mối quan hệ pháp
luật. Địa vị pháp lý của chủ thể cho phép chủ thể được làm gì và khơng được
làm gì khi tham gia vào các mối quan hệ pháp luật. Do đó việc xác định địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong từng giai đoạn cụ thể là rất cần thiết, vì từ
việc xác định này sẽ mang lại cái nhìn tổng quan về hoạt động của Kiểm sát
viên trong từng giai đoạn cũng như tầm quan trọng của Kiểm sát viên trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự có thể được hiểu
là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho Kiểm sát viên khi
thực hiện các hoạt động nhân danh Viện Kiểm sát”9. Theo quy định của pháp
luật hiện nay, khi nhân danh viện kiểm sát khi tiến hành các hoạt động tố tụng
hình sự, Kiểm sát viên có các quyền và nghĩa vụ sau:
* Quyền của Kiểm sát viên:
Viện kiểm sát tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự nên tùy
từng giai đoạn mà Kiểm sát viên sẽ có những quyền khác nhau. Nếu ở giai
đoạn khởi tố vụ án, Kiểm sát viên có quyền Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra thì sau khi
đã phê chuẩn các quyết định của cơ quan Điều tra, Kiểm sát viên có quyền đề
ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập lấy lời khai của
người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án để làm sáng tỏ nội dung vụ án.
8
9

Tr244 Từ điển Luật học (2006) – Viện Khoa học pháp lý – NXB Tư pháp.

Tr52 Nguyễn Thị Hương (2006), Hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2006.


15

Để đảm bảo quyền công dân theo quy định của Hiến pháp, luật tố tụng
hình sự cũng quy định Kiểm sát viên có quyền kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm
giam của cơ quan Điều tra. Kiểm sát viên có quyền không phê chuẩn hoặc
hủy bỏ những quyết định không có căn cứ hoặc trái pháp luật của cơ quan
Điều tra.
Kiểm sát viên cũng có quyền Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát
các bản án, quyết định của tịa án;
Ngồi ra, Kiểm sát viên cũng thưc hiện một số các quyền khác thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của viện trưởng Viện kiểm
sát như: kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của tòa án…
* Nghĩa vụ của Kiểm sát viên:
Dưới sự phân công và chỉ đạo của Viện trưởng, khi tiến hành giải quyết
vụ án hình sự, Kiểm sát viên có nghĩa vụ phải đảm bảo việc điều tra là khách
quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, đảm bảo các quyền công dân không bị hạn chế
một cách trái pháp luật.
Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải đọc bản cáo trạng, quyết
định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án, hỏi đưa ra chứng
cứ và thực hiện nhiệm vụ luận tội đối với bị cáo và hướng giải quyết những
vấn đề khác trong vụ án.
Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện
trưởng viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình vì đặc thù hoạt
động của Viện kiểm sát là hoạt động theo “nguyên tắc thủ trưởng chế”, việc
phân cơng Kiểm sát viên tham gia tố tụng hình sự do Viện trưởng quyết định

bằng Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra và kiểm sát xét xử vụ án hình sự. Nếu Kiểm sát viên khơng hồn
thành nghĩa vụ của mình thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại
thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó cơng tác phải có trách nhiệm bồi
thường và Kiểm sát viên có nghĩa vụ bồi hồn cho Viện kiểm sát nhân dân


16

theo quy định của pháp luật những thiệt hại mà mình đã gây ra10. Đây là một
trong những điểm mới của q trình cải cách tư pháp địi hỏi Kiểm sát viên
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm hơn khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ngồi ra, pháp luật cịn quy định Kiểm sát viên có nghĩa vụ phải học
tập, nghiên cứu nâng cao năng lực và trình độ chuyên mơn nghiệp vụ kiểm
sát. Phải giữ bí mật nhà nước và bí mật cơng tác theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
Như những phân tích ở trên, theo quy định của pháp luật hiện nay,
trong tố tụng hình sự Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát sẽ đảm đương hai
chức năng cơ bản là “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp”. Cả hai chức năng này đều thể hiện vị trí, vai trò quan trọng của Kiểm
sát viên trong mỗi giai đoạn, mỗi nội dung của từng vụ án hình sự.
Hai chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau địi hỏi Kiểm sát viên phải thực hiện tốt cả hai.
Việc tiến hành kiểm sát hoạt động tư pháp, bảo đảm cho công việc điều tra,
thu thập tài liệu, chứng cứ về vụ án hình sự xét xử vụ án một cách khách
quan, đúng pháp luật cũng là một điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động buộc
tội. Việc buộc tội của Kiểm sát viên phải dựa trên kết quả điều tra của Cơ
quan điều tra qua sự kiểm tra, giám sát của chính bản thân Kiểm sát viên.

Buộc tội đúng đối tượng, đúng tội danh, đúng và đầy đủ các hành vi vi phạm
của đối tượng là yêu cầu đối với Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự. Từ hai
chức năng trên, pháp luật đã dành cho Kiểm sát viên một vị trí quan trọng uy
nghiêm với vai trị cụ thể.
* Vị trí của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
Kiểm sát viên là một bộ phận quan trọng, là những mắt xích đặc biệt để
tạo nên hệ thống ngành Kiểm sát. Đây là những hình ảnh trực diện chính thức
của nhà nước đứng lên bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân và trật tự xã hội do đó vị trí của Kiểm sát viên khơng
giống với vị trí của những người tham gia tố tụng khác khi tham gia tố tụng.
Xuất phát từ mục đích của hoạt động tư pháp hướng tới mục tiêu bảo
đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể trong đó có cả những người đang bị truy cứu trách
10

Luật Bồi thường nhà nước


17

nhiệm hình sự cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội
được bảo đảm một cách tốt nhất, khơng bị vi phạm nên vị trí của Kiểm sát
viên trong kiểm sát các hoạt động tư pháp là vị trí của người kiểm tra, giám
sát từ bên ngoài đối với hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp như cơ
quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và thậm chí của những người – nhân
viên và của cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, giám định viên. Khi thực hiện
kiểm sát hoạt động tư pháp Kiểm sát viên không nhân danh Nhà nước buộc
tội người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vị trí của Kiểm sát viên hồn tồn khác biệt trong hoạt động cơng tố.
Vì mục đích hoạt động công tố là hướng tới sự buộc tội nên khi thực hiện hoạt

động công tố Kiểm sát viên đứng ở vị trí của nhà nước sử dụng quyền lực nhà
nước, nhân danh nhà nước để tiến hành buộc tội người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Thời điểm của hoạt động cơng tố bắt đầu từ khi có quyết định
tạm giữ hoặc quyết định khởi tố một con người và chấm dứt khi kết thúc phần
tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử khác với thời điểm kiểm sát hoạt động
tư pháp xảy ra thậm chí trước khi khởi tố vụ án hình sự (kiểm sát hoạt động
thu thập và xử lý thông tin, tin báo về tội phạm) và kéo dài đến khi bản án và
quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành xong.
* Vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
Kiểm sát viên phải thực hiện cùng một lúc nhiều chức năng: Kiểm sát
điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử. Với một
khối lượng công việc lớn như vậy nhưng Kiểm sát viên luôn phải đảm bảo sự
hoạt động xuyên suốt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Với
bản chất những đặc điểm đặc thù của mình, Kiểm sát viên có nhiều vai trị
trong một vụ án hình sự nói riêng và đối với tồn hệ thống pháp luật nói
chung, nhưng tựu trung lại có những vai trị cơ bản sau:
* Là người đại diện và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao để
củng cố tăng cường quyền lực nhà nước: Một nguyên lý cơ bản và đã được
khẳng định là nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật và pháp luật
cũng không thể phát huy hiệu lực của mình nếu khơng có sức mạnh của nhà
nước. Tương tự như vậy, Kiểm sát viên có vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhờ có lực lượng này mà cơng bằng xã
hội mới được xây dựng và duy trì. Cái xấu, cái ác bị loại bỏ.


18

* Là cánh tay để Nhà nước quản lý xã hội: Để quản lý toàn xã hội, nhà
nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, trong đó lực lượng Kiểm sát
viên chính là một trong những người thực thi chủ trương, đường lối của Nhà

nước một cách nhanh nhất, đúng đắn nhất, hiệu quả nhất và có quy mơ rộng
rãi nhất. Thơng qua lực lượng này nhà nước có cơ sở để kiểm tra, kiểm sát
hoạt động của các tổ chức, các cá nhân tiến hành tố tụng khác nhằm bảo đảm
tối đa quyền lợi cho cơng dân của mình.
1.2. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Theo Từ điển Luật học thì “Giai đoạn tố tụng là các khâu, các phần
việc khác nhau của quá trình tố tụng”11
Khi bàn về giai đoạn tố tụng hình sự, tiến sỹ Võ Thị Kim Oanh cho
rằng: “giai đoạn tố tụng hình sự là những bước nối tiếp nhau trong trình tự tố
tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và
văn bản tố tụng”12. Như vậy, có thể hiểu q trình tố tụng có nhiều giai đoạn.
Mỗi giai đoạn đều là một phần của quá trình tố tụng hình sự và chịu sự chi
phối của Bộ luật tố tụng hình sự. Mỗi giai đoạn sẽ có những đặc trưng riêng
về thành phần chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hình sự trong giai đoạn
đó, với hành vi tố tụng đặc trưng riêng, thể hiện trong những khoảng thời gian
khác nhau với các hệ thống văn bản tố tụng khác nhau. Bộ luật tố tụng hình
sự chỉ đề cập đến giai đoạn tố tụng hình sự mà khơng thể hiện rõ q trình
tiến hành tố tụng có bao nhiêu giai đoạn. Đây cũng là một nội dung tranh luận
của các Nhà nghiên cứu lý luận tố tụng hình sự hiện nay.
1.2.1. Khái niệm giai đoạn điều tra..

Giai đoạn điều tra là đối tượng của nhiều bài viết, bài nói trong hoạt
động lý luận và thực tiễn. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm về vấn đề
này, một số quan điểm cho rằng, giai đoạn điều tra được tính từ khi có sự hiện
diện của tin báo tố giác tội phạm, hoặc khi cơ quan điều tra tiến hành một số
hoạt động điều tra nhằm xác minh nội dung tin báo. Nhiều quan điểm khác
cho rằng giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi khởi tố vụ án. Trong khoa học pháp
lý Việt nam chưa có sự giải thích về “hoạt động điều tra” cũng như chưa quy


11
12

Tr 286 Từ Điển Luật Học NXB Tư Pháp – 2006.
Võ Thị Kim Oanh - Bài giảng chuyên đề “giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”


19

định rõ “giai đoạn điều tra” bắt đầu từ khi nào. Do đó, việc có nhiều nhận
thức, quan điểm khác nhau về giai đoạn điều tra cũng là điều khó tránh khỏi.
Trong rất nhiều quan điểm tranh luận, tác giả đồng tình với ý kiến cho
rằng Điều tra vụ án hình sự là “giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có
thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ án”13 . Khái niệm này đã khái quát được những đặc điểm cơ bản của
giai đoạn điều tra. Khẳng định rõ đây là một giai đoạn tố tụng hình sự, được
cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
nhằm mục đích xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. đồng
thời cũng nêu bật ý nghĩa của hoạt động này là cơ sở cho việc giải quyết vụ
án. Đây là giai đoạn cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự. Nếu thiếu giai
đoạn này các chủ thể tiến hành tố tụng sẽ khơng có căn cứ để thực hiện các
giai đoạn tiếp theo.
Như vậy, giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố
tụng có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng Bản
kết luận điều tra và đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can ra trước Tịa án hoặc
Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự của cơ quan Điều tra.
Giai đoạn điều tra diễn ra bằng các hoạt động thu thập chứng cứ để xác
định sự thật khách quan của vụ án. Chứng minh tội phạm, người thực hiện
hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại khi tội phạm xảy ra.

Do đó hoạt động này địi hỏi phải được tiến hành theo những trình tự thủ tục
nhất định nhằm đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp cho q trình giải
quyết vụ án. Chính những kết quả thu được trong hoạt động điều tra sẽ là nền
tảng cho việc truy tố cũng như hoạt động xét xử của Tòa án. Những sai lầm
trong hoạt động điều tra sẽ có thể dẫn đến những sai lầm trong việc truy tố,
xét xử. Nếu giai đoạn điều tra không thu thập đầy đủ chứng cứ, hoặc việc thu
thập chứng cứ có vi phạm về thủ tục tố tụng sẽ khơng đáp ứng được mục đích
của pháp luật hướng tới cũng như những yêu cầu mà Bộ luật tố tụng hình sự
đề ra.

13

Tr263- Giáo trình luật tố tụng Hình sự Việt Nam – Đại học Luật Hà Nội - Bộ giáo dục và đào tạo
– NXB Công an nhân dân. Hà Nội 2011


×